Cập nhật thông tin chi tiết về 10 Bệnh Trong Chương Trình Tiêm Chủng Mở Rộng mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Bệnh sởi
Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch, do virút sởi thuộc họ Paramixovirut influenzae, giống Morbillivirut gây nên, bệnh thường gặp ở trẻ em. Bệnh lây qua đường hô hấp. Bệnh được biểu hiện bởi sốt cao đột ngột, viêm long đường hô hấp, khám miệng có thể thấy nốt Koplik sau đó phát ban, xen kẻ giữa các ban là các khoảng da lành tuần tự bắt đầu từ sau tai lan ra đầu mặt cổ sau đó lan xuống thân mình và tứ chi. Khi ban đã lan xuống chi thì bắt đầu bay theo tuần tự như khi xuất hiện và để lại các vết thâm vằn da hổ. Trường hợp nặng có thể phát ban kèm theo xuất huyết, biến chứng bội nhiễm vào các cơ quan hoặc xuất hiện viêm não chất trắng sau sởi. Chẩn đoán xác định khi phân lập được virút sởi trong máu hoặc xét nghiệm huyết thanh học 2 lần bằng phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu thấy động lực kháng thể tăng gấp 4 lần hoặc xét nghiệm thấy xuất hiện
2. Bệnh bại liệt
Bại liệt là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virút bại liệt gây nên. Bệnh được biểu hiện bởi sốt nhẹ, tiêu chảy và liệt mềm cấp tính, khi liệt thì hết sốt. Bệnh lây theo đường tiêu hóa. Virút xâm nhập theo đường tiêu hóa sau đó lan vào hạch mạc treo rồi đến hệ thần kinh. Liệt thường xuất hiện khi có các tổn thương bất chợt sau tiêm chích và chỉ xuất hiện khoảng 1% ở những người bị nhiễm virút. Thường có đau cơ trước khi liệt. Liệt do bệnh bại liệt là liệt mềm, không đối xứng. Thường bị liệt chân nhiều hơn tay. Nếu liệt cơ hô hấp có thể dẫn tới tử vong. Khoảng 1% có biểu hiện viêm màng não nước trong. Ðến 90% các trường hợp nhiễm virút bại liệt ở thể ẩn, không có biểu hiện lâm sàng. Tháng 10/2000, Tổ chức Y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương tuyên bố đã thanh toán được bệnh bại liệt. Ngày 15/12/2000, Việt Nam cũng đã công bố thanh toán được bệnh bại liệt. Tuy nhiên, do nhiều nước trên thế giới vẫn chưa thanh toán được bệnh bại liệt nên việc dự phòng bằng vaccin cho trẻ em vẫn cần được tiếp tục.
3. Bệnh uốn ván
Uốn ván là một bệnh cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván (clostridium tetani) gây ra. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào dòng máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh cơ làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Cơn co giật thường xuất hiện khi có kích thích nhưng cũng có thể xuất hiện tự nhiên. Tùy theo mức độ nhiễm độc, vị trí vết thương và độ rộng cũng như điều kiện yếm khí tại vết thương, biểu hiện lâm sàng có thể là uốn ván khu trú (uốn ván thể đầu, giật một chi.) hay uốn ván toàn thể.
Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4-21 ngày, thường trong vòng 7-10 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.
Uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân gây chết hàng đầu ở một số nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ nhưng ở các nước phát triển đây là một bệnh thường gặp ở người già.
Tỷ lệ tử vong của uốn ván tuỳ thuộc vào điều kiện hồi sức cấp cứu và điều trị sớm hay muộn, nhưng thường tỷ lệ chết rất cao có thể từ 10-80%. Việc điều trị bao gồm việc xử trí mở rộng vết thương loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng penicillin để diệt vi khuẩn kết hợp với liệu pháp huyết thanh, chống co giật và hồi sức.
Tuy nhiên, uốn ván có thể dự phòng dể dàng nhờ có vaccin. Vaccin uốn ván thường được sản xuất phối hợp với vaccin phòng bạch hầu và ho gà.
IgM đặc hiệu trong huyết thanh bằng phản ứng MAC-ELISA.
4. Bệnh bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh lây cấp tính gây dịch do corynebacterium diphtheriae gây ra. Các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp có thể là bạch hầu thường, bạch hầu họng-thanh quản (croup) và bạch hầu ác tính.. Vi khuẩn đột nhập qua da và niêm mạc gây ra các giả mạc dai tại chổ bị nhiễm khuẩn (thường là ở hầu họng, thanh quản, có thể là ở mũi, mắt, dạ hoặc bộ phận sinh dục) từ đó vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố vào máu gây nhiễm độc cơ tim, thận các dây thần kinh trung ương và ngoại biên. Chẩn đoán xác định bệnh bạch hầu khi thấy có giả mạc trắng bóng bám chặt vào niêm mạc, giả mạc dai, dính, lan nhanh ở họng và ngoáy rìa giả mạc cấy có vi khuẩn bạch hầu. Một khi chẩn đoán hoặc nghi ngờ là bạch hầu phải tiến hành điều trị ngay bằng huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD) và các kháng sinh như penicillin hoặc kháng sinh nhóm Macrolides. Tỷ lệ tử vong tùy từng vụ dịch có thể từ 5-10%.
5. Bệnh ho gà
Ho gà là một bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường hô hấp do vi khuẩn Bordetella pertussis gây ra. Bệnh lây qua giọt nước bọt ngay tại gia đình với tỷ lệ 70-100%. Trước đây dịch xảy ra có tính chu kỳ cứ 3-4 năm 1 lần. Ở những quần thể chưa được miễn dịch, bệnh có thể bùng phát thành dịch lớn. Dịch chủ yếu gặp ở trẻ em tuổi đi học và trẻ nhỏ trên 6 tháng. Bệnh thường được thể hiện bởi những cơn ho rũ rượi và khạc đờm sau đó. Ho có thể kéo dài tới 3 tháng và thường phối hợp với nôn. Ở trẻ nhỏ nhiều khi chỉ thấy tím tái ngạt thở và co giật. Vi khuẩn ho gà có thể gây bệnh não do thiếu oxy dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong chung của bệnh thường là 0,3%, nhưng ở trẻ nhỏ tỷ lệ tử vong có thể lên tới 0,5%. Hàng năm có khoảng 250.000 trẻ em trên thế giới mắc bệnh ho gà. Từ ngày có vacxin tỷ lệ mắc bệnh ho gà đã giảm nhiều.
6. Bệnh lao
Bệnh lao là một bệnh phổ biến trên thế giới do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây nên. Lao phổi là bệnh cảnh lâm sàng hay gặp nhất. Bên cạnh đó có thể gặp lao các bộ phận khác. Hầu hết các trường hợp nhiễm lao không có triệu chứng. Những trường hợp suy giảm miễn dịch bị nhiễm lao sẽ có nguy cơ diễn biến nhanh thành lao toàn thể. Sau khi nhiễm vi khuẩn lao vài tuần sẽ xuất hiện đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào thể hiện qua phản ứng Tuberculin dương tính.
Lao là một bệnh thường gặp ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng hơn 10.000 trường hợp nhiễm lao mới. Bộ y tế đã triển khai chương trình chống lao trên phạm vi toàn quốc với chương trình điều trị ngắn ngày (DOT) và đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc. Tuy nhiên trong vài năm gần đây đã xuất hiện lao kháng thuốc với tỷ lệ đáng kể, đặc biệt với sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS, bệnh lao đang có xu hướng gia tăng nhanh trở lại.
7. Bệnh viêm gan B
Virut viêm gan B thuộc nhóm virut Hepadna, là tác nhân gây viêm gan virut B. Ðây là một bệnh phổ biến trên thế giới nhất là khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh. Hàng năm có khoảng 200 triệu người bị viêm gan B. Ở Việt Nam, tỷ lệ người lành mang trùng khá cao từ 15-25%. Bệnh lây qua đường máu, đường tình dục và lây từ mẹ sang con chủ yếu trong kỳ chu sinh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh ở thời kỳ khởi phát giống như cảm cúm (còn gọi là biểu hiện giả cúm) như sốt, mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu ít và nước tiểu sẫm màu. Người bệnh rất mệt mỏi nhưng tình trạng nhiễm khuẩn lại rất thô sơ.
Trong thời kỳ toàn phát, bệnh nhân thường có biểu hiện vàng mắc vàng da, có thể có phát ban dạng sởi trên da. Thăm khám có thể thấy gan to, đôi khi có lách to. Xét nghiệm thường thấy men gan tăng cao nhất là men SGPT (có thể cao gấp 5-10 lần so với bình thường), Bilỉubine máu tăng. Phần lớn các trường hợp viêm gan cấp diễn biến trong vòng 4-6 tuần rồi khỏi về mặt lâm sàng. Theo qui ước, viêm gan cấp sẽ được ổn định trong vòng 6 tháng. Viêm gan B có thể diễn biến thành viêm gan mạn tính, sơ gan và ung thư gan nguyên phát với các tỷ lệ khác nhau tùy từng khu vực và đáp ứng miễn dịch của cơ thể bệnh nhân.
8. Bệnh viêm não Nhật Bản
Viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm virut cấp tính ở thần kinh trung ương. Bệnh do virut viêm não Nhật Bản thuộc nhóm Flavi họ arbovirut nhóm B gây ra. Bệnh lưu hành rộng rải ở Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Malayxia, Việt Nam, Lào, Campuchia, Singapore, Ấn Ðộ và vùng viễn đông nước Nga. Ở Việt Nam bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 9, đỉnh cao là tháng 6 và 7. Bệnh thường nặng hay để lại di chứng liệt hoặc rối loạn thần kinh, tâm thần. Bệnh viêm não Nhật Bản có tỷ lệ tử vong cao.
Bệnh có ổ chứa thiên nhiên, chủ yếu là lợn và chim. Những động vật khác như trâu bò, ngựa, chó, khỉ.cũng bị nhiễm virut viêm não Nhật Bản nhưng vai trò truyền bệnh của chúng ít quan trọng.
Bệnh lây truyền từ động vật (lợn, chim) sang người qua véc tơ truyền bệnh là muỗi Culex, trong đó chủ yếu là 2 loài Culex tritaeniorhynchus và Culex vishnui. Chim là ổ chứa virut chủ yếu trong thiên nhiên và lợn là ổ chứa quan trọng nhất trong súc vật nui gần người.
Hai loại muỗi trên sinh sản ở đồng ruộng lúa nước, buổi tối bay về chuồng gia súc, hút máu súc vật bị bệnh rồi truyền sang người. Muỗi Culex tritaeniorhynchus có thể bay xa trên 1km, bay cao 13-15m nên có thể lây truyền virut cho các loài chim. Muỗi nhiễm virut có khả năng truyền bệnh suốt đời và truyền sang thế hệ sau qua trứng.
Người và Ngựa được coi là vật chủ cuối cùng của virut vì virut có trong máu người với hiệu giá thấp không đủ để có thể tiếp tục lây truyền sang muỗi.
9. Bệnh tả
Bệnh tả là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính lây qua đường tiêu hóa do phẩy khuẩn tả gây nên. Bệnh có thời kỳ ủ bệnh từ vài giờ tới 5 ngày. Thường từ 2-3 ngày. Bệnh lây khi còn mầm bệnh trong phân. Bệnh lây mạnh nhất trong thời kỳ tiêu chảy. Người lành mang vi khuẩn có thể gieo rắc mầm bệnh trong vài tháng. Sử dụng kháng sinh sẽ rút ngắn thời kỳ lây truyền. Hiếm có những trường hợp mang mầm bệnh kéo dài nhiều năm và đào thải vi khuẩn từng đợt qua phân.
Nguy cơ mắc bệnh rất thay đổi. Người thiểu năng acid dịch vị có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Trẻ bú sữa mẹ ít khi mắc bệnh. Bệnh tả nặng do type sinh học Eltor hoặc O139 thường gặp ở người có nhóm máu O. Sau khi mắc bệnh miễn dịch thu được sẽ bảo vệ chống tái nhiễm trong thời gian dài. Sau khi nhiễm V.cholerae O1 sẽ tránh được type này và type Eltor nhưng ngược lại sau khi nhiễm Eltor thì chỉ bảo vệ khỏi bị type Eltor mà thôi. Nhiễm chủng O1 cũng không bảo vệ khỏi nhiễm chủng O139 và ngược lại.
Tác nhân gây bệnh : Phẩy khuẩn tả (Vibrio cholera) nhóm huyết thanh O1 có 2 type : Cổ điển và Eltor. Những vụ dịch từ năm 1960 trở lại đây chủ yếu do V.Eltor gây ra. Vi khuẩn có 3 type huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima. Tuy nhiên, cuối năm 1992, người ta lại phát hiện thêm một type huyết thanh mới là Vibrio Cholera O139. Vi khuẩn có sức đề kháng cao. Ở ngoài môi trường nó có thể sống được nhiều ngày.
Sự lưu hành : Bệnh tả tản phát quanh năm ở đồng bằng miền Nam và duyên hải miền Trung. Thỉnh thoảng bùng phát thành những ổ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, các nước láng giềng và các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương vẫn có dịch tả lưu hành.
Ổ chứa : Người bệnh và những người mắc bệnh không có triệu chứng là nguồn bệnh quan trọng.
Gần đây người ta đã chứng minh được ổ chứa vi khuẩn trong môi trường ở các động vật thủy sinh, các động vật phù du sống trong nước mặn và nước lợ ở các vùng cửa sông, đầm phá.
Phương thức lây truyền : Bệnh lây truyền do ăn phải thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Những nguồn nhiễm khuẩn phổ biến là:
· Nước uống : Bị nhiễm ngay từ đầu nguồn (do bị nhiễm phân có phẩy khuẩn tả) hoặc trong quá trình dự trữ (do tiếp xúc với tay người có nhiễm phẩy khuẩn tả) và nước đá bị sản xuất từ nguồn nước bị nhiễm tả.
· Thực phẩm bị nhiễm phẩy khuẩn tả trong/ sau khi chế biến.
· Hải sản bắt được từ những vùng nước bị nhiễm tả và ăn sống hoặc không nấu kỹ.
· Rau quả : Trồng và bón bằng phân tươi, tưới nước có phân người hoặc vẩy nước bị nhiễm rồi ăn sống
Biểu hiện trong các thể bệnh nặng chủ yếu là nôn và tiêu chảy dữ dội phân có màu trắng như nước vo gạo hoặc màu trong lẫn những hạt lổn nhổn trắng như hạt gạo, nếu không được điều trị sẽ nhanh chóng dẫn đến mất nước, nhiễm độc acid, trụy mạch, hạ huyết áp và sốc dẫn tới tử vong. Thể nhẹ giống như tiêu chảy thường. Tỷ lệ mắc/ chết có thể lên tới 50% tùy từng vụ dịch. Nếu được điều trị đúng thì tỷ lệ tử vong chiếm khoảng 1%.
10. Bệnh thương hàn
Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường tiêu hóa do vi khuẩn thương hàn và phó thương hàn gây nên. Vi khuẩn đột nhập qua đường tiêu hóa tới lách, vi khuẩn nhân lên vào máu và gây ra bệnh cảnh nhiễm trùng nhiễm độc.
Trực khuẩn thương hàn (Salmonella typhi) gram âm, có 107 type kháng nguyên và 3 phó thương hàn là S.enteritidis (Para A), S.schottmulleri (Para B), S.hirschfeldii (Para C). Tỷ lệ mắc bệnh do thương hàn và phó thương hàn là 10:1. Vi khuẩn có sức đề kháng cao. Nó có thể sống hàng tháng ở ngoài môi trường. Ở nhiệt độ 55 độ C nó bị chết sau 30 phút. Cồn và các thuốc sát khuẩn diệt vi khuẩn trong vòng 3-5 phút. Vi khuẩn đã kháng với nhiều kháng sinh cổ điển như Chlorocid, Bactrim, Ampicillin.Nhưng vẫn còn nhạy với Quinolone và Cephalosporine thế hệ 3.
Bệnh phổ biến Ở những nơi kém vệ sinh. Hàng năm trên thế giới có khoảng 17 triệu trường hợp mắc với khoảng 600.000 người chết do thương hàn. Việt Nam có khoảng 10.000 đến 20.000 trường hợp mắc hàng năm. Mỗi năm có khoảng hàng chục trường hợp tử vong. Bệnh tản phát ở nhiều tỉnh hay gặp các vụ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung, một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ và cả ở miền núi phía Bắc.
Người bệnh và nhất là người lành mang trùng là ổ chứa chính của bệnh thương hàn. Vi khuẩn thương hàn thường sống trong túi mật và đuợc đào thải qua phân trong thời gian dài. Ổ chứa phó thương hàn đôi khi gặp ở vật nuôi trong nhà.
Người bị mắc bệnh do dùng thức ăn hoặc uống nước bị nhiễm trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn. Những phương thức lây truyền phổ biến là:
· Uống nước chưa đung sôi bị nhiễm mầm bệnh (như uống nước lã, nước đá).
· Ăn phải thức ăn bị nhiễm vi khuẩn nhất là ăn trai, sò, ốc, hến. bị nhiễm vi khuẩn từ nguồn nước bị nhiễm bẩn mà chưa được nấu chín.
· Rau quả : Ăn sống rau quả được bón bằng phân tươi.
· Sữa và các chế phẩm từ sữa bị nhiễm vi khuẩn thương hàn khi chế biến.
· Ruồi gây nhiễm bẩn thực phẩm và trong môi trường thực phẩm đó vi khuẩn nhân lên đủ liều gây bệnh.
Vi khuẩn có trong phân người bệnh từ tuần thứ nhất đến hết thời kỳ lại sức (khoảng 1-3 tuần). Khoảng 10% bệnh nhân không được điều trị sẽ thải vi khuẩn qua phân trong vòng 3 tháng và khoảng 2-5% số bệnh nhân trở thành người mang trùng mãn tính.
Bệnh cảnh lâm sàng thường có sốt tăng dần, rối loạn tiêu hóa, bụng chướng có dấu hiệu ùng ục hố chậu phải, phát ban dạng sởi ở vùng quanh thắt lưng. Ðộc tố thương hàn tác động vào các mảng bạch huyết ở họng và ruột gây ra loét họng, loét ruột gây chảy máu ruột. Ðộ? tố cũng gây nhiễm độc cơ tim gây viêm cơ tim, trụy tim mạch. Nhiễm độc tố vào não thất 3 gây mạch nhiệt phân ly, não viêm thương hàn.
Trường hợp nhẹ giống như viêm dạ dày ruột gây ỉa chảy thường.
Chẩn đoán xác định khi cấy máu có mọc vi khuẩn thương hàn. Các xét nghiệm bổ sung giúp cho chẩn đoán là phản ứng Widal hoặc sử dụng kháng thể đơn dòng phát hiện kháng nguyên H trong máu bệnh nhân
Trạm Y tế Phường Linh Tây
Đảm Bảo An Toàn Giao Thông Trong Quá Trình Thi Công Dự Án Mở Rộng Ql1
Đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình thi công dự án mở rộng QL1
Để kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn tỉnh, ngày 14/11, UBND tỉnh ban hành công văn 4798/UBND-KTN yêu cầu các nhà đầu tư dự án mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Quảng Nam chỉ đạo và giám sát các nhà thầu thi công, đơn vị tư vấn giám sát thực hiện nghiêm túc công tác đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình thi công mở rộng QL1 theo chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải.
Trong đó, đặc biệt lưu ý kiểm tra ngay toàn bộ hệ thống đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến thi công (cọc tiêu, biển báo, biển chỉ dẫn, đèn báo hiệu, …) để thay thế hoặc lắp đặt bổ sung tại những vị trí còn thiếu. Các vị trí nguy hiểm trên tuyến, phải lắp đặt đầy đủ biển cảnh báo nguy hiểm dễ nhìn thấy, nhất là về ban đêm. Nghiêm cấm việc đổ vật liệu hoặc để máy móc, thiết bị, vật tư ra phần lòng đường xe chạy (ngoài phạm vi đang thi công có cọc tiêu, rào chắn). Kiểm tra, rà soát tiến độ thi công của các nhà thầu trên các đoạn tuyến đã được bàn giao mặt bằng. Trường hợp nhà thầu không đủ năng lực, chậm trễ trong việc thi công hoặc không chấp hành đúng các quy định về đảm bảo an toàn giao thông, phải chấn chỉnh ngay hoặc thay thế nhà thầu thi công khác để đảm bảo tiến độ và an toàn giao thông trên tuyến. Khẩn trương thi công thảm nhựa mặt đường các đoạn tuyến đã thi công đến lớp cấp phối đá dăm để mở rộng lòng đường xe chạy và sửa chữa kịp thời các vị trí bị hư hỏng trên tuyến QL1 đảm bảo êm thuận để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện đi lại.
UBND tỉnh cũng yêu cầu Sở Công Thương và các đơn vị chủ sở hữu công trình hạ tầng kỹ thuật: điện, cấp mước, cáp quang, viễn thông chỉ đạo và giám sát chặt chẽ các nhà thầu thi công thực hiện đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn trong quá trình tổ chức di dời, lắp đặt hệ thống hạ tầng kỹ thuật trên tuyến QL1. Trong thời gian tới, nếu để xảy ra sự cố tai nạn giao thông do nguyên nhân không thực hiện đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn trong quá trình thi công, người đứng đầu các đơn vị chủ đầu tư, nhà thầu thi công, đơn vị tư vấn giám sát thi công dự án mở rộng QL1, đơn vị chủ sở hữu và chủ đầu tư công trình di dời, lắp đặt hạ tầng kỹ thuật phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh. Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng chỉ đạo Thanh tra chuyên ngành của đơn vị phối hợp với Ban An toàn giao thông tỉnh, Công an tỉnh tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về công tác đảm bảo ATGT trong quá trình thi công dự án mở rộng QL1.
Theo tổng hợp của Ban An toàn giao thông tỉnh, từ ngày 16/12/2013 đến ngày 15/10/2014, trên tuyến QL1 qua tỉnh Quảng Nam đã xảy ra 96 vụ TNGT (chiếm 39,67% số vụ TNGT trên địa bàn tỉnh), làm chết 73 người (chiếm 45,34%), bị thương 71 người (chiếm 31,42%).
Thùy Dung
Lượt xem: 3,719
Bản đồ tỉnh Quảng Nams
Văn bản điện tử
Một cửa điện tử
Portal Quảng Nam – Giấy phép số: 14/GP-TTĐT cấp ngày 26/6/2015. Đơn vị quản lý: Sở Thông tin Truyền thông – Số 50 – Hùng Vương – Thành phố Tam Kỳ Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Hồng Quảng – Giám đốc Sở Thông tin Truyền thông Điện thoại:0235.3818333 – Fax:0235.3811759 – Email:cttdtqnam@quangnam.gov.vn Ghi rõ nguồn chúng tôi khi sử dụng thông tin trên website này
Giải Pháp Mở Rộng Khoảng Cách Mạng Lan
* Kết nối các mạng LAN riêng biệt trong khuôn viên doanh nghiệp hoặc tổ chức ở khoảng cách lớn. * Mở rộng khoảng cách kết nối từ 1,5km đến 6,7Km thông qua hệ thống cáp đồng hoặc cáp điện thoại sẵn có với tốc độ tối đa 100Mbps mà không phải sử dụng cáp quang. * Giám sát và quản lý được toàn bộ việc sử dụng Internet trong doanh nghiệp * Đơn giản dễ sử dụng, chi phí lắp đặt và duy trì…
Đối với nhiều doanh nghiệp việc kết nối mạng giữa Trụ sở chính với các Chi nhánh, nhà xưởng ở xa rất quan trọng đối với việc quản lý và giám sát. Chi phí kết nối mạng với khoảng cách xa rất cao do phải dùng cáp quang hoặc kết nối vô tuyến tần số cao. Với công nghệ VDSL và G.SHDL, PLANET đem đến nhiều phương án có hiệu quả cao và chi phí hợp lý.
Giải pháp của PLANET
Đối với nhiều doanh nghiệp việc kết nối mạng giữa Trụ sở chính với các Chi nhánh, nhà xưởng ở xa rất quan trọng đối với việc quản lý và giám sát. Chi phí kết nối mạng với khoảng cách xa rất cao do phải dùng cáp quang hoặc kết nối vô tuyến tần số cao. Với công nghệ VDSL và G.SHDL, PLANET đem đến nhiều phương án có hiệu quả cao và chi phí hợp lý.
Khoảng cách kết nối nhỏ hơn 1,5km, VDSL là giải pháp tối ưu: băng thông lên đến 100Mbps (VDSL2), truyền dữ liệu và thông tin đa phương tiện trên cùng một đôi dây, ngoài ra vẫn sử dụng các dịch vụ thoại truyền thống mà không lo sợ ảnh hưởng của nhiễu. Hơn nữa, có thể đặt tại Trụ sở chính VC-1602, cho phép kết nối mạng cho nhiều điểm đồng thời.
Khoảng cách kết nối từ 1,5km đến 6,7 km, G.SHDSL là giải pháp tối ưu: băng thông lên đến 4,068Mbps, GRT-402 hoạt động ở cả 2 công nghệ truyền dẫn T1: 1,544Mbps và E1: 2,048Mbps. Chi phí cài đặt và giá của GRT-402 rẻ hơn nhiều so với giải pháp kết nối T1, E1 và Frame Relay. Sử dụng tính năng cầu và hỗ trợ định tuyến, 2 GRT-402 có thể kết nối với nhau tạo thành mạng LAN-to-LAN ở khoảng cách xa mà không cần phải sử dụng đường Leased Line với các thiết bị CSU/DSU theo chuẩn V35 đắt tiền.
IM-1000 cho phép thiết lập quản lý và giám sát toàn bộ quá trình sử dụng Internet trong doanh nghiệp đồng thời nâng cao khả năng bảo mật và phòng chống virus.
Nhờ sử dụng hạ tầng mạng điện thoại sẵn có hoặc cáp đồng theo chuẩn RJ-11 nên chi phí lắp đặt hệ thống được giảm xuống tối thiểu. Việc sử dụng cáp đồng không đòi hỏi các kỹ thuật đấu nối phức tạp như với cáp quang, thuận tiện trong quá trình xử lý sự cố và bảo dưỡng. Các sản phẩm VDSL có tính năng gắn-và-chạy không đòi hỏi bất cứ thao tác cấu hình nào. Các sản phẩm G.SHDSL cho phép cấu hình từ xa qua giao diện WEB thuận tiện cho người quản trị.
Tính năng sản phẩm Lựa chọn Sản phẩm
Sử dụng VC-1602 tại Trụ sở chính và 16 VC-102S với khoảng cách kết nối <1,5km với tốc độ lớn nhất là 15Mbps cho 16 điểm kết nối từ xa.
Sử dụng 01 cặp VC-102 M/S trong trường hợp kết nối hai điểm trực tiếp.
Sử dụng 02 thiết bị GRT-402 với khoảng cách kết nối <6,7km với tốc độ lớn nhất là 4,6Mbps hỗ trợ 4 cổng mạng 100Mbps cho 2 điểm kết nối từ xa.
Sử dụng IM-1000 để xây dựng chính sách quản lý sử dụng Internet, giám sát toàn bộ quá trình sử dụng Internet.
Thông tin Sản phẩm
VC-102M/S: Ethernet over VDSL Converter (1xVDSL-master/slave, 1xRJ-45)
GRT-402: 4-Wire G.SHDSL Bridge/Router(4xRJ-45, 1RJ-11)
VC-1602: 16-Port + 2Gigabit-silot VDSL Stackable Switch
GRT-401: Wire G.SHDSL Bridge/Router(4xRJ-45, 1RJ-11)
Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VẬT LÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
Thứ năm – 10/08/2017 01:09
Trong thời đại ngày nay, thế giới đang có sự biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng lần thứ tư, đang mang lại những cơ hội phát triển nhanh chóng và cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, nhất là đối với các nước còn chậm phát triển. Mặt khác, môi trường sống tự nhiên cũng như xã hội của con người đang biến đổi nhanh chóng.
logo HVL anh nen
Chúng ta đang chứng kiến những biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt; ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trầm trọng; chính trị, xã hội đang có nhiều biến động. Đứng trước những thách thức của thời đại, không có con đường phát triển nào tốt hơn là con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội để bảo đảm phát triển bền vững. Thách thức của thời đại buộc phải đổi mới giáo dục, đó là nhu cầu cấp thiết và là xu thế tất yếu toàn cầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới được quy định rõ trong Nghị quyết 88/2014/ QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của moi học sinh”. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, “chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [2]. Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu tối thượng của giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là phát triển năng lực của con người. Biểu hiện của năng lực là kỹ năng giải quyết một tình huống có ý nghĩa, chứ không phải ở việc tiếp thụ một lượng tri thức rời rạc. Để có thể “góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh” thì việc dạy học tích hợp là một cách thức rất hữu hiệu. Vì thế, tuân theo xu thế phát triển của giáo dục thế giới và điều kiện Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng những cách thức giáo dục khác, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước đi ban đầu về dạy học tích hợp. Là một chương trình môn học của Chương trình giáo dục phổ thông, ^ chương trình môn Vật lý quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông dưới góc độ vật lý. Nội dung giáo dục vật lý được phân bố ở cả hai giai đoạn giáo dục, với các mức độ khác nhau. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản được thực hiện qua môn Tìm hiểu tự nhiên (cấp Tiểu học) và môn Khoa học tự nhiên (cấp Trung học cơ sở). Ở giai đoạn giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua môn Vật lý (cấp Trung học phổ thông). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, thông qua môn Khoa học tự nhiên, giáo dục vật lý giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lý cơ bản của thế giới tự nhiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, làm nền tảng cho việc học tập ở các mức độ tiếp theo hoặc có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ngoài việc góp phần cùng với các môn học khác để phát triển các năng lực chung, môn học này còn nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn: i) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, ii) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, iii) vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào thực tiễn, iv) ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc chú trọng xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, chương trình môn học cũng tính đến điều kiện cơ sở trang thiết bị và đặc biệt là tính đặc thù của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở nên việc tích hợp được thực hiện sao cho các mạch nội dung được cấu trúc một cách khoa học, đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc tổ chức dạy học. Vì thế, chương trình đã được thiết kế để có thể soạn sách giáo khoa, hay bài giảng của giáo viên được thuận tiện cho mỗi phân môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, ở cả ba lớp: 10, 11 và 12, Vật lý là môn học độc lập, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Nội dung môn học được thiết kế thành các bài học và các chuyên đề để vừa bảo đảm phát triển tri thức và kỹ năng thực hành trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông góp phần giúp học sinh củng cố vững chắc các phẩm chất, kỹ năng phổ thông cốt lõi, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học. Trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị cho học sinh trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình lựa chọn phát triển những vấn đề thiết thực nhất, mang tính ứng dụng cao đối với học sinh trong việc định hướng ngành nghề sau khi hoàn thành Trung học phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận được với những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học Vật lý phù hợp với trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung môn học với thực tiễn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Do những yêu cầu khách quan nói trên nên cấu trúc nội dung chương trình môn Vật lý có những thay đổi so với cấu trúc chương trình môn Vật lý hiện hành. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh học môn Vật lý. Như chúng ta đã biết, mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, hoạt động quản lý và phát triển chương trình, nhằm bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể và chương trình môn học. Phạm vi đánh giá bao gồm toàn bộ các môn học mà học sinh học. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong nhóm, trong lớp. Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục. Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Ở Việt Nam, sự thành bại của một chương trình giáo dục phụ thuộc rất mạnh vào việc quan niệm và tổ chức các “kỳ thi”. Chính các “kỳ thi” hiểu không đúng đã góp phần làm méo mó các mục tiêu của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ở nước ta. Nếu không trả lại đúng ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá thì các đổi mới trong giáo dục rất khó đạt được mục tiêu mong muốn.
Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Văn Khánh
Nguồn tin: Hội Vật Lý
Bạn đang xem bài viết 10 Bệnh Trong Chương Trình Tiêm Chủng Mở Rộng trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!