Cập nhật thông tin chi tiết về 5 Cách Tư Vấn Bảo Hiểm Nhân Thọ Để Tăng Doanh Số mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sau tất cả những năm học về kinh doanh, các khoá học chuyên bán hàng hay nhiều đêm đọc sách về kinh nghiệp bán hàng mục tiêu cuối cùng vẫn là ký được hợp đồng và tăng doanh số bán hàng. Là sản phẩm tài chính rất đặc thù, công đoạn chốt một hợp đồng bảo hiểm cũng khác với một thương vụ bán máy móc hay nhà đất ở choĐừng chỉ bán sản phẩm, hãy cung cấp giải pháp
Nếu coi bán bảo hiểm nhân thọ như bán một hàng hoá thương mại thông thường thì đó là cách tiếp cận không mấy hiệu quả. Bảo hiểm nhân thọ là một cam kết tài chính đòi hỏi người mua đóng tiền đều đặn trong hàng chục năm liền, nhưng xét cho cùng thì nó vô hình, không thể cảm nhận bằng trực quan. Quá chú trọng giới thiệu các tính năng hay tỉ lệ chiết khấu sẽ khiến cho khách hàng không nhìn thấy mặt giải pháp của bảo hiểm nhân thọ. Bán một giải pháp tài chính đòi hỏi sự đối thoại từ hai phía, người bán bảo hiểm nhân thọ cần nhận diện được vấn đề mà khách hàng muốn giải quyết, đó có thể là mối ưu tư về tương lai của con cái, cũng có thể là bận tâm về khoản vay mua nhà dài hạn. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ tự chốt mà không cần phải thuyết phục khi khách hàng nhận ra được sản phẩm này sẽ chu toàn cho gia đình như thế nào ở khía cạnh mà họ mong muốn, đồng nghĩa với đem lại sự an bình trong tâm trí. Với tư cách là một giải pháp có vai trò tương tự như giáo dục hay y tế…khách hàng sẽ tập trung vào phần giá trị của bảo hiểm nhân thọ mang lại cho bản thân và gia đình.
Cách tốt nhất để hiểu được nhu cầu của khách hàng là lắng nghe. Thay vì thao thao bất tuyệt về vô số các tính năng của gói bảo hiểm đang bán thì hãy trò chuyện với khách hàng về cuộc sống, về sở thích, gia đình, dự tính cho tương lai. Trong một cuộc đối thoại hai chiều như vậy, khách hàng có cái nhìn mạch lạc, rõ ràng hơn và nhiều khi sẽ tự nhận thấy nhu cầu phải đảm bảo cho tương lai gia đình ra sao, nhu cầu sẵn sàng được đáp ứng bởi giải pháp bằng bảo hiểm nhân thọ. Không phải vô cớ mà nhiều cá nhân kinh doanh bảo hiểm nhân thọ thành công nhất chính là những cố vấn tài chính – tư vấn bảo hiểm chứ không phải là nhân viên kinh doanh thông thường. Vai trò tư vấn sẽ đặt bạn vào vị trí đi tìm hướng tiếp cận có lợi nhất cho khách hàng và gia đình họ, yêu cầu đầu tiên: hãy biết lắng nghe.
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không dành cho tất cả mọi người, những đặc trưng của sản phẩm tài chính này đương nhiên sẽ đòi hỏi tư vấn viên bảo hiểm nhân thọ thành công phải có những tố chất, những kỹ năng quý nhất trong việc bán hàng. Nhưng tất cả đều có thể đạt được nếu bản thân có đủ tình yêu cho công việc, đủ động lực để giữ qua ham muốn học hỏi và hoàn thiện mình không bao giờ tắt.
5 Cách Tư Vấn Bảo Hiểm Nhân Thọ Để Liên Tục Đột Phá Doanh Số
BẠN HÃY CUNG CẤP CÁC GIẢI PHÁP TỐT NHẤT CHO KHÁCH HÀNG
Nếu bạn coi bán bảo hiểm nhân thọ cũng giống như bán một hàng hoá thương mại thông thường thì đó là cách tiếp cận không mấy hiệu quả. Bảo hiểm nhân thọ là một sản phẩm cam kết tài chính, đòi hỏi người mua phải đóng tiền đều đặn trong hàng chục năm liền, nhưng xét cho cùng thì nó vẫn là một hình thức vô hình, không thể cảm nhận bằng trực quan.
Nếu bạn quá chú trọng giới thiệu các tính năng hay tỉ lệ chiết khấu của sản phẩm sẽ khiến cho khách hàng không nhìn thấy mặt giải pháp của bảo hiểm nhân thọ. Bán một giải pháp về tài chính đòi hỏi sự đối thoại từ hai phía, người bán bảo hiểm nhân thọ cần phải nhận diện được vấn đề mà khách hàng muốn giải quyết. Đó có thể là mối bận tâm về tương lai của con cái hay cũng có thể là bận tâm về khoản vay mua nhà dài hạn.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có một đặc điểm là sẽ tự chốt mà không cần phải thuyết phục, khi khách hàng nhận ra được sản phẩm này sẽ là giải pháp chu toàn cho gia đình như thế nào ở khía cạnh mà họ mong muốn, cũng đồng nghĩa với việc đem lại sự an bình trong tinh thần.
Với tư cách là một giải pháp có vai trò tương tự như: Giáo dục hay y tế,…khách hàng sẽ nhìn thấy được phần giá trị mà bảo hiểm nhân thọ mang lại cho bản thân và gia đình.
TẬP LẮNG NGHE VÀ HIỂU ĐƯỢC NHỮNG LO LẮNG CỦA KHÁCH HÀNG
Cách tốt nhất để hiểu được nhu cầu của khách hàng là: Lắng nghe. Thay vì bạn cứ thao thao bất tuyệt về vô số các tính năng của gói bảo hiểm đang bán trên thị trường thì hãy trò chuyện với khách hàng về: Cuộc sống, về sở thích, gia đình, dự tính cho tương lai,…
Trong những cuộc đối thoại hai chiều như vậy, khách hàng có cái nhìn mạch lạc, rõ ràng hơn và nhiều khi sẽ nhận thấy nhu cầu phải đảm bảo cho tương lai gia đình ra sao, nhu cầu sẵn sàng và được đáp ứng bởi những giải pháp thông qua bảo hiểm nhân thọ.
Không phải vô cớ mà có khá nhiều cá nhân kinh doanh bảo hiểm nhân thọ thành công nhất, chính là những cố vấn tài chính – tư vấn viên bảo hiểm chứ không phải là những nhân viên kinh doanh thông thường. Vai trò tư vấn sẽ đặt bạn vào vị trí đi tìm hướng tiếp cận có lợi nhất cho khách hàng và gia đình họ, yêu cầu đầu tiên và bắt buộc: hãy biết lắng nghe tâm tư của khách hàng.
Cũng giống như những ngành kinh doanh khác, có những thời điểm rất may mắn khi hợp đồng rất đơn giản, khách hàng hiểu rõ bản thân và gia đình cần gì và thậm chí chủ động liên hệ. Nhưng đa phần sẽ đòi hỏi nhiều hơn là một cuộc gặp mặt, nhất là khi cả gia đình của khách hàng cần có sự so sánh giữa các sản phẩm, bàn bạc trước khi bước vào một cam kết tài chính quan trọng và dài hạn như: bảo hiểm nhân thọ trọn đời chẳng hạn.
Dục tốc bất đạt, câu nói này quả thật không sai hãy chuẩn bị kỹ càng các thông tin quan trọng và cần thiết với nhu cầu của khách hàng, hãy để lại cho cả gia đình tham khảo. Trình bày mạch lạc, rõ ràng, nội dung nhất quán và tiện lợi khi cung cấp cả bản in và bản điện tử là điểm cộng khi giao tiếp với đối tượng khách hàng khó tính nhưng cũng có nhiều tiềm năng nhất.
ĐỪNG NGẠI KHI BẠN NHỜ KHÁCH HÀNG GIỚI THIỆU NGƯỜI QUEN CỦA HỌ
ĐẶT RA MỤC TIÊU – CHIẾN LƯỢC CỤ THỂ
So kè với một ai đó chỉ thể hiện qua những con số, nhưng bạn cần phải vượt qua chính mình mới chứng tỏ bản thân ta đang tiến bộ hơn. Chỉ tiêu đề ra càng chi tiết,thì bạn càng dễ đạt được thành công. Ví dụ: Tháng này bạn sẽ cố gắng tăng doanh số lên 10% so với tháng trước, như vậy bạn sẽ biến cột doanh thu trở thành đích đến với khung thời gian hữu hạn.
Kết quả là, bản thân bạn sẽ có thêm động lực khác ngoài phần thưởng tài chính để hoàn thành mục tiêu bán hàng do bản thân đặt ra. Cách làm việc rõ rang, cụ thể cũng dẫn đến khả năng tự phân tích chi phí và làm việc có hiệu quả sau mỗi thất bại hay thành công. Thấy mình chưa hoàn thiện ở đâu, cách tư vấn và tiếp cận cần thay đổi những gì để tự cải thiện mới chính là phương pháp tăng doanh thu lâu dài nhất và ổn định trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không phải là một nghề dành cho tất cả mọi người, những đặc trưng của sản phẩm tài chính này sẽ đòi hỏi tư vấn viên bảo hiểm nhân thọ phải có những tố chất, những kỹ năng đáng quý nhất trong việc bán hàng. Nhưng tất cả đều có thể đạt được, nếu bản thân có đủ tình yêu và kiên nhẫn cho công việc, đủ động lực để giữ lòng qua ham muốn học hỏi và hoàn thiện mình không bao giờ được tắt.
Phòng tư vấn bảo hiểm nhân thọ https://tuvan-baohiemnhantho.com/
Luận Án: Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi
Published on
Download luận án tóm tắt với đề tài: Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
7. 7 (SPBH). Tuy nhiên, xét trên góc độ quản trị kinh doanh, có thể định nghĩa một cách đơn giản: SPBH là sản phẩm mà DNBH bán. Như vậy, sản phẩm BHPNT là sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh BHPNT bán trên thị trường. Nhìn chung các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cũng như các sản phẩm bảo hiểm nói chung có các đặc điểm cơ bản sau: – Là sản phẩm không định hình. – Là sản phẩm có hiệu quả “xê dịch” – Là sản phẩm “không mong đợi” – Là sản phẩm của “chu kỳ kinh doanh đảo ngược” – Là sản phẩm dễ bắt chước 1.2.4.2 Các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ Theo đối tượng bảo hiểm, các sản phẩm BHPNT được chia thành 3 nhóm: – Nhóm các sản phẩm bảo hiểm tài sản – Nhóm các sản phẩm bảo hiểm TNDS – Nhóm các sản phẩm bảo hiểm con người (hay còn được gọi là bảo hiểm tai nạn cá nhân và chi phí y tế) Ngoài ra, tùy thuộc vào nội dung và ý nghĩa khi triển khai, các sản phẩm bảo hiểm có thể được chia thành: sản phẩm bảo hiểm bắt buộc và sản phẩm tự nguyện; sản phẩm bảo hiểm riêng lẻ và bảo hiểm trọn gói; hoặc phân chia sản phẩm bảo hiểm theo nhóm nghiệp vụ bảo hiểm như: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm máy bay… 1.2.5 Các nhân tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.5.1 Môi trường pháp lý Hoạt động của thị trường bảo hiểm không thể nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia. Nó không chỉ đơn thuần là việc các công ty bảo hiểm trên thị trường phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật, mà chính điều này đảm bảo cho các công ty được cạnh tranh một cách công bằng và lành mạnh trên thị trường, bảo đảm cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, từ đó thúc đẩy thị trường phát triển. 1.2.5.2 Môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội Sự phát triển kinh tế của quốc gia là nhân tố quan trọng tiếp theo ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Trước hết kinh tế phát triển, tức các ngành sản xuất, dịch vụ phát triển, dẫn đến các nhu cầu về bảo hiểm cũng tăng. Ngoài ra, khi kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, nhu cầu về ăn ở mặc được đáp ứng đầy đủ, thì nhu cầu được bảo vệ trở nên quan trọng. Bên cạnh yếu tố kinh tế, các yếu tố văn hoá xã hội cũng có tác động đáng kể đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ như: dân số, trình độ dân trí, văn hóa tiêu dùng… 1.2.5.3 Môi trường kinh tế quốc tế Xu hướng toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay có sự ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Việc mở cửa và hội nhập còn tạo nhiều cơ hội khác cho các công ty bảo hiểm trong nước như tiếp cận công nghệ bảo hiểm tiên tiến, tiếp cận thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng tạo nhiều thách thức đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong nước như cạnh tranh khốc liệt hơn từ thị trường nước ngoài, mất sự bảo trợ của Nhà nước…
8. 8 1.2.5.4 Năng lực của DNBH Sự phát triển của thị trường BHPNT luôn gắn liền với năng lực của DNBH trong việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm ra thị trường. Năng lực của DNBH được thể hiện trên các mặt: năng lực tài chính; năng lực marketing; năng lực tổ chức, điều hành và trình độ cán bộ. 1.2.5.5 Vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Hiệp hội bảo hiểm có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Hiệp hội trước hết là cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các DNBH. Bên cạnh đó, là tổ chức đại diện cho các DNBH, hiệp hội bảo hiểm có thể phát huy sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo hiểm mới, tổ chức đào tạo cho toàn thị trường. Hiệp hội còn là trung tâm cung cấp thông tin và tuyên truyền chung cho các DNBH. 1.2.5.6 Điều kiện kinh tế và nhận thức của khách hàng Khi điều kiện kinh tế của con người càng nâng cao, nhu cầu của họ cũng tăng lên theo các cấp bậc. Vì nhu cầu về bảo hiểm nằm trong cấp độ nhu cầu “an toàn”, ở mức cao hơn nhu cầu cơ bản, nên khi điều kiện kinh tế còn thấp, người dân trước hết còn phải lo đến cái ăn, cái mặc sẽ không có điều kiện để lo đến việc mua bảo hiểm. Khi điều kiện kinh tế tốt hơn, người dân sẽ có điều kiện tài chính để mua bảo hiểm. Nhận thức về sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định lựa chọn sản phẩm bảo hiểm để thoả mãn nhu cầu. Đây là quy luật nói chung không chỉ riêng với sản phẩm bảo hiểm. Thậm chí bảo hiểm còn bị chi phối nhiều hơn bởi bảo hiểm là sản phẩm vô hình, là sản phẩm không mong đợi. 1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.6.1 Chỉ tiêu phản ánh năng lực của thị trường bảo hiểm – Số lượng các DNBH đang hoạt động kinh doanh trên thị trường (1.1) – Số lượng trung gian bảo hiểm (1.2) – Số lượng các sản phẩm bảo hiểm (1.3) – Quy mô vốn của thị trường (1.4) 1.2.6.2 Chỉ tiêu phản ánh quy mô thị trường – Số lượng hợp đồng bảo hiểm (1.5) – Số tiền bảo hiểm (1.6) – Doanh thu phí bảo hiểm (1.7) 1.2.6.3 Đóng góp của thị trường bảo hiểm vào các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước – Đóng góp vào GDP (1.9) – Tạo công ăn việc làm (1.10) – Bù đắp thiệt hại tài chính do rủi ro gây ra (1.11) – Tái bảo hiểm nhằm phát triển quan hệ hợp tác quốc tế và bảo vệ thị trường trong nước: + Phí nhượng (nhận) TBH (1.12) + Phí nhượng (nhận) TBH trong nước, và Phí nhượng (nhận) (1.13) + TBH ra nước ngoài. (1.14) – Giá trị tái đầu tư trở lại nền kinh tế (1.15) – Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
9. 9 + Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí (1.16) + Hiệu quả theo doanh thu: (1.17) + Hiệu quả theo lợi nhuận: (1.18) – Hiệu quả hoạt động đầu tư: + Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tài chính tổng hợp: (1.19) + Tỷ suất lợi nhuận đầu tư:: (1.20) Hệ thống các chỉ tiêu trên là các chỉ tiêu định lượng phản ánh sự phát triển của thị trường BHPNT. Tuy nhiên, mặc dù là các chỉ tiêu định lượng, nhưng đó là sự thể hiện kết quả phát triển của thị trường về mặt chất lượng. 1.3 MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu có đề cập tới sự phát triển của một số thị trường bảo hiểm trên thế giới như Mỹ, Pháp, Đài Loan, và đặc biệt là các nước Asean như Thái lan, Malaysia, luận án nhận thấy rằng muốn phát triển thị trường BHPNT cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Bao gồm các nội dung cơ bản sau: – Quy định về đăng ký và cấp giấy phép kinh doanh: – Quy định về nội dung hoạt động: – Quy định về vốn pháp định và các khoản ký quỹ: – Quy định về dự phòng nghiệp vụ, biên khả năng thanh toán – Quy định về biểu phí và hoa hồng bảo hiểm: – Các quy định khác Thứ hai, thiết lập được một cơ quan quản lý bảo hiểm với đầy đủ quyền lực để thực thi chức năng và quyền lực của mình, được sự thừa nhận và bảo vệ của pháp luật. Thứ ba, tạo sự cạnh tranh hợp lý cho thị trường bảo hiểm phi nhân thọ theo hướng đa dạng hoá về hình thức sở hữu, bảo đảm cơ cấu hài hoà giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Thứ tư, tạo cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty bảo hiểm một cách có hiệu quả, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo thị trường phát triển bền vững.
10. 10 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN 2006 -2010) 2.1 KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM Do đặc điểm lịch sử của nước ta, sự hình thành và phát triển của thị trường BHPNT Việt Nam đến nay được chia và tóm tắt thành 4 giai đoạn: – Giai đoạn 1964-1974 – Giai đoạn 1975-1993 – Giai đoạn 1994- 2005 – Giai đoạn 2006-2010 2.2 TRỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN 2006-2010) 2.2.1 Điều kiện kinh tế – xã hội Việt Nam Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn mà tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam tiếp tục phát triển và tương đối ổn định mặc dù thế giới có nhiều biến đổi và bất ổn cả về mặt kinh tế và chính trị xã hội. Đây là những điều kiện tiền đề hết sức quan trọng đối với sự phát triển của thị trường BHPNT trong giai đoạn này cũng như những năm về sau. Một số chỉ tiêu quan trọng được luận án đề cập tới là: GDP, Sản xuất công nghiệp, Sản xuất nông nghiệp, Xuất nhập khẩu, Đầu tư phát triển, Dân số, Thu nhập dân cư, và Giáo dục. 2.2.2 Thực trạng thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 2.2.2.1 Quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động thị trường a. Luật kinh doanh bảo hiểm b. Các Nghị định c. Các Thông tư d. Các đề án, chiến lược Ngoài ra, khi thực hiện kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm, các DNBH còn chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật khác của Việt Nam như: Bộ Luật dân sự, Luật Hàng hải Việt Nam. 2.2.2.2 Quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường BHPNT Theo quy định, Bộ tài chính là cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm nói chung, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, trong đó có các DNBH phi nhân thọ. Trước đây, Bộ Tài chính có Phòng quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính Ngân hàng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm. Năm 2003, Phòng quản lý bảo hiểm được tách ra thành lập Vụ Bảo hiểm. Trước những yêu cầu mới, do sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm Việt Nam và xu hướng hội nhập quốc tế, năm 2009 Vụ bảo hiểm đã được chuyển thành Cục quản lý, giám sát bảo hiểm. 2.2.2.3 Phân tích các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Luận án phân tích sự phát triển của thị trường BHPNT ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống các chỉ tiêu được xây dựng ở chương 1. Do hạn chế về số liệu, có một số chỉ tiêu luận án không thể tính toán và phân tích được (Ví dụ: chỉ tiêu phản ánh quy mô thị trường như số lượng hợp đồng bảo hiểm,
11. 11 số tiền bảo hiểm; chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh bảo hiểm và đầu tư tài chính như tỷ suất lợi nhuận trên vốn…). Tuy nhiên, việc không tính toán và phân tích được một số chỉ tiêu này có ảnh hưởng không đáng kể đến kết quả phân tích chung của luận án. (1) Năng lực của thị trường bảo hiểm – Số lượng các doanh nghiệp BHPNT hoạt động trên thị trường Nếu như trước năm 1994 ở Việt Nam chỉ có một doanh nghiệp BHPNT thì đến năm 2006 là 22 doanh nghiệp. Năm 2008 thị trường vẫn tiếp tục được mở rộng và phát triển với sự tham gia thị trường của các DNBH như Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng không, Bảo hiểm Than Khoáng sản. Đến năm 2010 số doanh nghiệp hoạt động trên thị trường là 30 doanh nghiệp, trong đó có 29 DNBH gốc và một doanh nghiệp TBH thuộc các thành phần kinh tế khác nhau: doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bảng 2.9 : Số lƣợng các DNBH trên thị trƣờng BHPNT (2006-2010) Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Số lƣợng DNBH gốc 21 22 27 28 29 Số lƣợng doanh nghiệp TBH 1 1 1 1 1 Tổng 22 23 28 29 30 (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) – Số lượng trung gian bảo hiểm Bên cạnh sự gia tăng về số lượng các DNBH, số lượng các trung gian bảo hiểm là đại lý và môi giới bảo hiểm cũng tăng lên. Nếu như năm 2004 số lượng doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là 6 công ty, năm 2007 là 8 công ty, thì đến năm 2010 con số này là 11 công ty (trong đó có 6 công ty cổ phần trong nước và 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài). Bảng 2.10: Số lƣợng các DNMGBH ở Việt Nam Năm 2004 2006 2008 2009 2010 Số lƣợng DNMGBH 6 8 8 10 11 (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) Đại lý BHPNT cũng không ngừng được tăng lên và đa dạng hóa về hình thức, đặc biệt là đại lý tổ chức như ngân hàng, bưu điện, hội phụ nữ. Hầu hết các DNBH, dù ít hay nhiều, đều triển khai hoạt động Bancassurance, nhất là đối với các DNBH lớn như Bảo Việt, hay các DNBH thuộc ngân hàng như ABIC, BIC. Năm 2009 số lượng đại lý bảo hiểm phi nhân thọ là 37.561 người, tăng 3,69% so với năm 2008. Năm 2010 con số này là khoảng 42.000 người. – Số lượng các sản phẩm bảo hiểm triển khai trên thị trường Thị trường BHPNT Việt Nam đã triển khai được hầu hết các sản phẩm bảo hiểm cơ bản bao gồm cả bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm TNDS. Hiện nay theo phân loại của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm và Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, các sản phẩm BHPNT được chia thành 11 nhóm. Năm 2004 số lượng sản phẩm BHPNT được bán trên thị trường là 413 (trong đó chủ yếu là sản phẩm bảo hiểm tài sản với 290 sản phẩm), đến năm 2010 con số này đã tăng lên khoảng 620 sản phẩm. – Quy mô vốn của thị trường Quy mô vốn của các DNBH và thị trường càng tăng, năng lực tài chính của thị trường tăng và khả năng bảo vệ của thị trường đối với nền kinh tế xã hội cũng tăng lên. Số lượng bảng 2.12 cho thấy, năm 2004 vốn chủ sở hữu của thị trường là trên 3.000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 11.027 tỷ đồng
12. 12 tăng gấp 3,65 lần. Bảng 2.12: Quy mô vốn chủ sở hữu của thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ Năm 2004 2008 2010 Quy mô vốn chủ sở hữu (tỷ đồng) 3.020 8.615 11.027 Tăng so với năm 2004 (lần) – 2,85 3,65 (Nguồn: Ban bảo hiểm phi hàng hải, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) (2) Quy mô thị trường Bảng 2.13 cho thấy, doanh thu phí và tốc độ tăng doanh thu phí của toàn thị trường BHPNT Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Tốc độ tăng doanh thu phí cao nhất là năm 2007 với 31%. Tính chung cho cả giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân năm của thị trường là 25,4%. Bảng 2.13: Doanh thu phí bảo hiểm thị trƣờng BHPNT (2006-2010) Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Doanh thu phí bảo hiểm (tỷ đ) 6.381 8.360 10.887 13.644 17.052 Tốc độ tăng (%) 16 31 30 25 25 (Nguồn:Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) – Tạo công ăn việc làm Số liệu bảng 2.18 cho thấy, tổng số lao động làm việc trong lĩnh vực BHPNT là 83.017 người, cán bộ nhân viên bảo hiểm là 17.017 người, đại lý bảo hiểm là 66.000 người. Bảng 2.18: Lao động làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ năm 2010 Đơn vị: người Tổng số lao động Số lƣợng cán bộ, nhân viên Số lƣợng đại lý 83.017 17.017 66.000 (Nguồn: Dự thảo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020 ) Ngành bảo hiểm đang được coi là một trong những ngành “nóng” thu hút lực lượng lao động lớn, có chất lượng cao. Điều này xuất phát từ việc số lượng các DNBH mới được cấp giấy phép hoạt động tăng lên; các DNBH đã thành lập thì mở rộng mạng lưới hoạt động đến khắp các tỉnh thành; thậm chí tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ chí Minh có tới 3 công ty thành viên của cùng một công ty bảo hiểm. – Bù đắp thiệt hại tài chính do rủi ro gây ra Với vai trò là “tấm lá chắn” cho nền kinh tế, thị trường BHPNT đã góp phần quan trọng trong việc bù đắp các thiệt hại tài chính cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội do rủi ro gây ra. Năm 2006 số tiền bồi thường của toàn thị trường là 2.495 tỷ đồng; đến năm 2010 con số này là 6.384 tỷ đồng, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2007 (bảng 2.19). Tỷ lệ bồi thường các năm nhìn chung dao động quanh con số 40%. Bảng 2.19: Tình hình bồi thƣờng bảo hiểm gốc toàn thị trƣờng (2006-2010) Năm 2006 2007 2008 2009 2010 STBT (tỷ đồng) 2.495 3.228 4.511 5.272 6.384 Tốc độ tăng (%) 15,72 29,38 39,75 16,87 21,09 Tỷ lệ bồi thƣờng bq (%) 39,09 38,62 41,43 38,64 37,44 (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam)
13. 13 – Bảo vệ hoạt động bảo hiểm gốc và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế thông qua hoạt động tái bảo hiểm Bảng 2.21: Tình hình nhƣợng TBH của thị trƣờng BHPNT (2006-2010) Năm 2006 2007 2008 2009 2010 1. Tổng phí nhƣợng TBH (tỷ đ) 2.491 3.528 4.220 5.103 6.314 1.1 Phí nhƣợng TBH ngoài nƣớc 1.504 2.082 2.603 3.292 4.128 1.2 Phí nhƣợng TBH trong nƣớc 987 1.446 1.617 1.811 2.186 2. Phí nhƣợng TBH /phí BH gốc (%) 39,04 42,20 38,76 37,40 37,03 3. Tỷ lệ phí nhƣợng TBH ra ngoài nƣớc so với phí BH gốc (%) 23,57 24,90 23,91 24,13 24,20 (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) Số liệu bảng 2.21 cho thấy, tổng phí nhượng TBH qua các năm là tăng dần, năm 2006 đạt 2.491 tỷ đồng, đến năm 2010 con số này là 6.314 tỷ đồng. Trong đó phí bảo hiểm chủ yếu được nhượng tái ra nước ngoài. Năm 2010 phí nhượng tái ra nước ngoài là 4.128 tỷ đồng, chiếm 65,35% tổng phí nhượng tái, phí nhượng tái trong nước chỉ chiếm 34,65%. Tỷ lệ phí nhượng TBH ra nước ngoài của thị trường BHPNT trung bình trong 5 năm qua là 24,14%. Bảng 2.22 cho thấy tình hình nhận TBH của thị trường BHPNT. Năm 2010 phí nhận TBH là 1.340 tỷ đồng, trong đó phần nhận từ trong nước là chủ yếu, 975 tỷ đồng chiếm 72,76%; phần nhận TBH từ nước ngoài là 365 tỷ đồng chiếm 27,24%. Bảng 2.22: Tình hình nhận TBH của thị trƣờng BHPNT (2006-2010) Đơn vị: tỷ đồng Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng phí nhận TBH 557 717 787 1.000 1.340 Phí nhận TBH ngoài nƣớc 100 147 140 179 365 Phí nhận TBH trong nƣớc 457 570 647 821 975 (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) – Giá trị tái đầu tư trở lại nền kinh tế Đầu tư tài chính là hoạt động không thể thiếu đối với các DNBH. Với nguồn vốn lớn từ vốn chủ sở hữu và các quỹ DPNVBH, các DNBH đang tham gia tích cực vào thị trường tài chính Việt Nam. Tổng giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế của thị trường BHPNT năm 2007 là 11.125 tỷ đồng; đến năm 2010 là 23.000 tỷ đồng, gấp 2 lần so với năm 2007 (bảng 2.23). Phần lớn các DNBH đều đã thành lập Phòng đầu tư hoặc Ban đầu tư riêng biệt. Tính đến năm 2010, đã có Bảo Việt, Bảo Minh thành lập Công ty môi giới chứng khoán. Bên cạnh đó, Bảo Việt còn thành lập được ngân hàng, quỹ đầu tư, công ty đầu tư. Có thể nói thị trường BHPNT đã góp phần nhất định vào việc phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Bảng 2.23: Giá trị đầu tƣ trở lại nền kinh tế của thị trƣờng BHPNT (2007-2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Giá trị đầu tƣ (tỷ đồng) 11.125 15.179 17.585 23.000 Tốc độ tăng (%) – 36,44 15,85 30,79 (Nguồn: Cục quản lý, giám sát bảo hiểm)
14. 14 (4) Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm Sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm không thể tách rời với việc kinh doanh có hiệu quả của các DNBH. Xét về hiệu quả kinh doanh chung cho toàn bộ hoạt động kinh doanh (bao gồm cả hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động đầu tư và hoạt động khác), các DNBH đều có lãi. Tuy nhiên, nếu tính riêng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2008 có đến 16 DNBH trong tổng số 25 doanh nghiệp hoạt động bị thua lỗ về nghiệp vụ bảo hiểm, tổng số lỗ nghiệp vụ bảo hiểm toàn thị trường là 163 tỷ đồng. Sang năm 2009, con số cũng không sáng sủa hơn với 10 doanh nghiệp có lãi, với số lãi của từng DNBH từ 1 tỷ đến 52 tỷ đồng, nhưng tổng thị trường lỗ nghiệp vụ bảo hiểm tới trên 200 tỷ đồng. Hậu quả là các doanh nghiệp BHPNT phải lấy lãi từ đầu tư tài chính bằng vốn chủ sở hữu, trong đó có thặng dư vốn phát hành cổ phiếu, và dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để bù đắp. Từ đó cổ tức chia cho cổ đông thấp, kém hấp dẫn trên thị trường chứng khoán. Với tỷ lệ bồi thường chung của toàn thị trường trong 5 năm qua là 39,04% (so với Thái lan là 50%), việc kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp không hiệu quả là một vấn đề lớn đặt ra cho thị trường BHPNT nước ta. 2.2.2.4 Đánh giá chung về thực trạng phát triển của thị trường BHPNT a. Kết quả đạt được (1) Thị trường phát triển đáng kể, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển và ổn định nền kinh tế Thị trường BHPNT trong thời gian qua luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao so với tốc độ tăng GDP. Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 25%/năm. Khá cao so với các nước trong khu vực, như Thái lan là 10%. Thị trường BHPNT có đóng góp đáng kể trong việc khắc phục những thiệt hại do rủi ro gây ra cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tổng số tiền bồi thường tăng liên tục qua các năm, năm 2010 tổng số tiền bồi thường đạt 6.384 tỷ đồng. Bên cạnh đó, thị trường BHPNT tạo lập được nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội với giá trị đầu tư trở lại cho nền kinh tế năm 2010 là 23.000 tỷ đồng. Số lượng lao động trong ngành bảo hiểm trước năm 1999 chỉ có 30.000 người, đến năm 2009 đã lên tới 182.319 người và năm 2010 là trên 200.000 người (bao gồm cả BHNT và BHPNT). (2) Cấu trúc thị trường ngày càng được hoàn chỉnh hơn Năng lực “cung” của thị trường BHPNT từng bước tăng lên đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường. Trước năm 1993, thị trường chỉ có duy nhất Bảo Việt, thì đến hết năm 2010 trên thị trường đã có 28 DNBH gốc, 01 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Nội dung và lĩnh vực hoạt động của các DNBH được mở rộng; số lượng sản phẩm bảo hiểm gia tăng và chất lượng dịch vụ được dần cải thiện. Năng lực tài chính của thị trường tăng nhanh. Việc thành lập Cục quản lý, giám sát bảo hiểm Việt Nam cho thấy công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm được chú trọng, nhằm đảm bảo cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển theo đúng mục tiêu và định hướng của nhà nước đặt ra. Kể từ khi ra đời đến nay, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. (3) Thị trường bước đầu đã hội nhập với thị trường bảo hiểm khu vực và quốc tế Việt Nam tích cực tham gia Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm ASEAN. Mục tiêu của
16. 16 (2) Thị trường đang tiềm ẩn những yếu tố rủi ro mất ổn định Thị trường BHPNT Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm qua nhưng cũng đang tiềm ẩn rủi ro mất ổn định thông qua số lượng các DNBH đang bị thua lỗ kinh doanh bảo hiểm. Theo Hiệp hội bảo hiểm Việt nam, bình quân trên thị trường có đến 80%-85% số lượng chi nhánh của mỗi doanh nghiệp BHPNT có kết quả kinh doanh là con số âm. Trên các diễn dàn, câu nói về thị trường bảo hiểm Việt nam “càng làm càng lỗ” đã trở thành quen thuộc. Xét trong thời gian ngắn việc lỗ này là có thể chấp nhận được, nhưng nếu tình trạng này kéo dài thì sự đổ vỡ của thị trường là điều có thể xảy ra và kéo theo những hậu quả khôn lường: DNBH mất khả năng chi trả, người mua bảo hiểm không được đền bù hoặc đền bù không đầy đủ, sản xuất kinh doanh, đời sống người dân không được ổn định kịp thời sau rủi ro… (3) Thị trường phát triển chưa cân đối và đồng bộ Thị trường BHPNT nước ta trong thời gian qua tăng trưởng nhanh nhưng phát triển chưa cân đối và đồng bộ, từ đó làm hạn chế vai trò của thị trường đối với sự phát triển chung của nền kinh tế nước nhà. Sự phát triển không cân đối và đồng bộ đó được thể hiện ở cả chiều rộng và chiều sâu: – Thị trường phát triển mới chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn. Đại bộ phận người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa không có điều kiện được tiếp cận với các loại hình bảo hiểm. – Sản phẩm bảo hiểm tuy có nhiều nhưng khá giống nhau và vẫn còn thiếu trong một số lĩnh vực, khu vực của thị trường. Nhiều sản phẩm nhu cầu thị trường là lớn nhưng chưa đáp ứng được, nhất là các sản phẩm bảo hiểm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp như bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính, bảo hiểm nghề nghiệp y dược, luật sư… – Trên thị trường hiện nay có 30 DNBH, con số chưa phải là nhiều so với các nước trong khu vực (ví dụ Thái lan là 71 công ty bảo hiểm gốc và 2 công ty tái bảo hiểm), nhưng tình trạng DNBH chuyên ngành cạnh tranh không lành mạnh đang ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của thị trường. – Thị trường vẫn chưa có sự tham gia của các tổ chức bảo hiểm tương hỗ mặc dù đã có cơ sở pháp lý cho việc thành lập loại hình tổ chức bảo hiểm này. Trong khi đó, với đặc thù phương thức sản xuất và đặc thù văn hóa xã hội, hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam hoàn toàn phù hợp cho bảo hiểm tương hỗ hình thành và phát triển. – Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mở cửa nhưng, điều này mới diễn ra theo một chiều từ bên ngoài vào. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chỉ tập trung khai thác thị trường trong nước, chưa có kế hoạch thâm nhập thị trường nước ngoài, đặc biệt là trong khu vực ASEAN. – Mặc dù đã có 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động trên thị trường BHPNT, song hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu mới dừng lại ở việc thu xếp bảo hiểm, đặc biệt là các DNMGBH trong nước. Khối lượng dịch vụ khai thác qua môi giới bảo hiểm cũng còn chiếm tỷ trọng nhỏ. (4) Thị trường phát triển chưa mang tính chuyên nghiệp Thị trường BHPNT thời gian qua mới chỉ được chú trọng phát triển về mặt số lượng mà chưa được quan tâm đầy đủ về mặt chất lượng. Các DNBH chủ yếu cạnh tranh bằng cách hạ phí, mở rộng điều khoản thái quá, sử dụng sức ép hành chính để ép mua bảo hiểm và trả hoa hồng quá cao. Trong khi đó các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm thông qua hoàn thiện các khâu khai thác, giám định bồi thường chưa được chú trọng đúng mức.
18. 18 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM 3.1 ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 3.1.1 Những thuận lợi và khó khăn 3.1.1.1 Thuận lợi Về kinh tế: Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001- 2010, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Đây là những điều kiện tiền đề hết sức quan trọng đối với sự phát triển của thị trường BHPNT ở tất cả các loại hình bảo hiểm: tài sản, TNDS, con người. Về văn hóa-xã hội: Trên cơ sở xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật; dự kiến đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thực tế này sẽ góp phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường BHPNT nước ta. Về kinh tế quốc tế: Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế nước nhà sẽ giúp các DNBH trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các đối tác là tổ chức kinh doanh bảo hiểm nước ngoài có uy tín, có kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính mạnh để hợp tác chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực tài chính, chuyển nhượng tái bảo hiểm và phát triển hoạt động kinh doanh 3.1.1.2 Khó khăn Về kinh tế: Sự phát triển chưa đồng bộ, chưa có sự gắn kết giữa các mảng thị trường tài chính Việt Nam cũng sẽ có những tác động tiêu cực tới sự phát triển của thị trường BHPNT. Một khi chính sách lãi suất còn chưa ổn định; chính sách phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) còn bất cập; tổ chức niêm yết và giao dịch chứng khoán trên thị trường upcom chưa hiệu quả, thị trường TPCP chưa chuyên biệt hóa;… sẽ ảnh hưởng hoạt động đầu tư của các DNBH, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đến kết quả và hiệu quả kinh doanh chung của DNBH. Về văn hóa xã hội: Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm
19. 19 ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị – xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Những điều này sẽ tiềm ẩn những nguy cơ đe dọa tới sự ổn định và hiệu quả kinh doanh của các DNBH. Về kinh tế quốc tế: Việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường bảo hiểm nói chung, thị trường BHPNT nói riêng sẽ tạo áp lực cạnh tranh ngày càng tăng đối với các DNBH trong nước. Năng lực hoạt động của các DNBH trong nước còn nhiều hạn chế, khả năng tài chính chưa thực sự vững mạnh, công nghệ quản trị điều hành còn lạc hậu, trình độ đội ngũ cán bộ bảo hiểm chưa cao và thiếu kinh nghiệm thực tiễn,… là các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các DNBH này. 3.1.2 Mục tiêu phát triển thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Theo dự thảo Chiến lược, mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm nói chung, thị trường BHPNT nói riêng trong giai đoạn tới dự kiến đặt ra như sau: Mục tiêu chung: Chiến lược phát triển TTBH Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cần đạt được các mục tiêu cơ bản sau: – Thị trường bảo hiểm tiếp tục phát triển toàn diện, bền vững, đóng góp quan trọng vào sự ổn định và tăng trưởng kinh tế đất nước; phát huy mạnh mẽ vai trò là tấm lá chắn an toàn của nền kinh tế-xã hội trước các nguy cơ rủi ro và là kênh huy động vốn hữu hiệu cho đầu tư phát triển. – Thị trường bảo hiểm phát triển phù hợp với điều kiện thực tiễn và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng bộ với sự phát triển của các thị trường dịch vụ tài chính khác; tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường bảo hiểm trong khu vực và trên thế giới. – Nhà nước tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và thực hiện quản lý thị trường bảo hiểm bằng pháp luật, phát huy vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam nhằm tạo nền tảng và động lực cho các DNBH, DNMGBH phát triển. Mục tiêu cụ thể: – Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm, nâng cao tỷ trọng dịch vụ bảo hiểm trên GDP: Nâng tỷ trọng đóng góp của ngành bảo hiểm trong GDP lên khoảng 3% năm 2015 và 4% năm 2020. Theo như cơ cấu hiện nay, BHPNT sẽ đóng góp khoảng một nửa (1,5% vào năm 2015 và 2% vào năm 2020) Phấn đấu tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu phí bảo hiểm đạt 18-20% trong giai đoạn 2011-2020, trong đó: tăng trưởng bảo hiểm phi nhân thọ bình quân đạt 29-30%; tăng trưởng bảo hiểm nhân thọ bình quân đạt 16-18%; tăng trưởng môi giới bảo hiểm bình quân đạt 20-25%, tỷ trọng phí bảo hiểm (phi nhân thọ) được thu xếp qua môi giới chiếm 20%. – Ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế-xã hội Đáp ứng yêu cầu bồi thường và trả tiền bảo hiểm nhanh chóng và đầy đủ, bảo đảm ổn định tài chính cho nền kinh tế và cuộc sống dân cư trước các rủi ro. Phấn đấu nâng tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 150.000 tỷ đồng vào năm 2015 (tăng khoảng 2 lần so với năm 2010) và đạt 300.000 tỷ đồng vào năm 2020 (tăng khoảng 3,5 lần so với năm 2010). Theo như cơ cấu trong những năm qua, thị trường BHPNT sẽ đóng góp khoảng gần 50%, còn lại là của thị trường BHNT. – Tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu cho ngân sách nhà nước Tiếp tục mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm một cách sâu rộng, qua đó góp phần tạo thêm việc làm cho xã hội. Theo số liệu mà luận án có được từ Tổng thư ký Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, một số chỉ tiêu dự báo về thị trường BHPNT, trong đó có dự báo về nguồn nhân lực bảo hiểm
22. 22 những chính sách điều chỉnh phù hợp, kịp thời. 3.3.3 Nâng cao năng lực quản lý và giám sát bảo hiểm của Nhà nƣớc Nâng cao năng lực quản lý và giám sát nhà nước đối với thị trường bảo hiểm nhằm mục đích đảm bảo thị trường hoạt động và phát triển theo đúng các quy định pháp luật, các định hướng phát triển thị trường đã được đặt ra. Công tác quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm cần phải được thực hiện toàn diện, trên cơ sở nền tảng pháp luật có vận dụng kết hợp các loại công cụ quản lý, giám sát khác. Việc quản lý giám sát phải dựa trên hệ thống các chỉ tiêu khách quan, phù hợp với yêu cầu thực tiễn kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các nguyên tắc chuẩn mực quốc tế. Để làm được những điều trên, năng lực quản lý của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm cần phải được tăng cường trên tất cả các mặt: trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, trình độ và khả năng áp dụng công nghệ thông tin quản lý. Cụ thể: – Nâng cao trình bộ chuyên môn của cán bộ quản lý nhà nước – Tăng cường quản lý nhà nước thông qua công tác giám sát từ xa và giám sát tại chỗ – Hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm 3.3.4 Nâng cao năng lực bảo hiểm của các DNBH Việc nâng cao năng lực bảo hiểm cho các DNBH cần phải được thực hiện đồng bộ trên các mặt: – Nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn – Chú trọng đến công tác quản lý rủi ro – Phát triển sản phẩm bảo hiểm mới – Mở rộng địa bàn hoạt động và đa đạng hóa kênh phân phối – Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền – Nâng cao chất lượng dịch vụ ở từng khâu triển khai nghiệp vụ – Nâng cao trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực 3.3.5 Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm – Xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả với cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm – Sử a đổi, bổ sung Điều lê ̣Hiê ̣p hội bảo hiểm Viê ̣t Nam cho phù hợp với điều kiện mới – Nghiên cứu đến năm 2015 có thể tách riêng Hiệp hội các nhà bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ và môi giới bảo hiểm 3.3.6 Nâng cao nhận thức của ngƣời dân về bảo hiểm Với một thị trường bảo hiểm đầy tiềm năng nhưng tỷ lệ được khai thác thấp (bảng số liệu 2.23) có một phần lý do quan trọng là do nhận thức của người dân về bảo hiểm chưa có hoặc có nhưng không đầy đủ, trong khi bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ “khó”. Phần lớn lỗi ở đây thường được cho là do các DNBH chưa làm tốt công tác thông tin tuyên truyền vì họ là người cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu nói như vậy là một chiều, bởi bản thân khách hàng, với tư cách là người tiêu dùng, cũng phải tự trang bị kiến thức và có sự hiểu biết để tiêu dùng một cách khôn ngoan nhất. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức của người dân về bảo hiểm một mặt là nhiệm vụ quan trọng của các DNBH, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam; mặt khác cũng là trách nhiệm và quyền lợi của bản thân người dân với tư cách là người tiêu dùng. Lúc này vai trò của Hiệp hội người tiêu dùng, của các hội ngành nghề (như hiệp hội các nhà XNK trong việc mua bảo hiểm hàng hóa XNK), của các tổ chức hội
23. 23 đoàn thể (như hội phụ nữ, hội nông dân) trong việc giáo dục kiến thức bảo hiểm là rất quan trọng. 3.3.7 Giải pháp khác Phát triển thị trường BHPNT phải gắn liền với phát triển “cầu” của thị trường là tất yếu khách quan. Trong khi đó, “cầu” của thị trường phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế-xã hội chung của đất nước và điều kiện cụ thể của từng khách hàng. Với khách hàng cá nhân, đó là điều kiện hoàn cảnh gia đình như thu nhập, số con, độ tuổi con cái, nghề nghiệp, học thức…Với khách hàng là tổ chức đó là đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực của tổ chức, tư duy của người lãnh đạo…Chính vì vậy, phát triển kinh tế nước nhà là tiền đề quan trọng để kích “cầu” trên thị trường. Hoạt động của thị trường BHPNT có thể nói phục vụ cho mọi hoạt động của nền kinh tế: hoạt động XNK có bảo hiểm hàng hóa XNK; hoạt động giao thông vận tải có bảo hiểm máy bay, bảo hiểm tàu hỏa, bảo hiểm xe cơ giới; hoạt động xây dựng lắp đặt có bảo hiểm xây dựng lắp đặt…Chính vì vậy sự phối kết hợp giữa ngành bảo hiểm với các ngành nghề trong nền kinh tế là cần thiết. Sự phối kết hợp có hiệu quả sẽ đem lại nhiều lợi ích: lợi ích cho ngành bảo hiểm, lợi ích cho người mua bảo hiểm và lợi ích quốc gia.
24. 24 KẾT LUẬN Với đề tài nghiên cứu “Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam”, luận án đã đạt được những kết quả chủ yếu sau: (1) Hệ thống hoá và làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ gồm: Tổng quan về bảo hiểm thương mại và BHPNT; thị trường BHPNT, đặc điểm và cấu trúc hoạt động của thị trường BHPNT; các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường BHPNT; hệ thống các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của thị trường BHPNT; và một số bài học kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trường BHPNT. Đây là cơ sở lý luận cho việc phân tích thực trạng phát triển của trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam giai đoạn 1994-2004. Có thể nói, đóng góp mới quan trọng của luận án về mặt lý luận là nghiên cứu và trình bày được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường BHPNT, và hệ thống chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của thị trường BHPNT (2) Phân tích thực trạng phát triển thị trường BHPNT Việt Nam giai đoạn 2006- 2010. Mặc dù có nhiều biến động, đặc biệt là sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhưng nhìn chung các điều kiện kinh tế xã hội Việt nam vẫn khá thuận lợi cho sự phát triển của thị trường BHPNT: GDP và thu nhập bình quân đầu người vẫn tăng qua các năm, kim nghạch XNK, giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tăng liên tục… Nhìn chung thị trường BHPNT Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong thời gian qua: số lượng DNBH cuối năm 2010 là 30 doanh nghiệp (29 DNBH gốc và 01 doanh nghiệp TBH), tốc độ tăng trưởng phí bình quân 5 năm qua là 25%/năm, ngành bảo hiểm đã đáp ứng một phần nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của thị trường về các loại hình dịch vụ bảo hiểm, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Tuy nhiên thị trường BHPNT nước ta trong thời gian qua cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế: (1) Quy mô thị trường còn nhỏ bé, chưa khai thác hết tiềm năng, (2) Thị trường đang tiềm ẩn những yếu tố rủi ro mất ổn định, (3) Thị trường phát triển chưa cân đối và đồng bộ, và (4) Thị trường phát triển chưa mang tính chuyên nghiệp. Luận án cũng trình bày và phân tích 6 nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại này. – Trên cơ sở định hướng phát triển thị trường BHPNT đến năm 2020, luận án xây dựng 3 quan điểm định hướng cho những giải pháp đưa ra nhằm phát triển thị trường đến năm 2020. Các giải pháp luận án đưa ra gồm: (1) Hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, (2) Xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020; xây dựng các chính sách, các đề án, các chương trình bảo hiểm vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội quốc gia, (3) Nâng cao năng lực quản lý và giám sát bảo hiểm của Nhà nước, (4) Nâng cao năng lực bảo hiểm của các DNBH, (5) Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm, (6) Nâng cao nhận thức của người dân về bảo hiểm, (7) Giải pháp khác Mặc dù đã cố gắng học tập và nghiên cứu, song luận án không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót như không thực hiện được điều tra, khảo sát, các số liệu thị trường chưa hoàn toàn đầy đủ do Việt Nam không có số liệu thống kê… Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu để luận án được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.
Tăng Doanh Số Ngành Bảo Hiểm Vượt Bậc Nhờ Tiếp Thị Trực Tuyến
Mua sắm trực tuyến đang ngày càng phổ biến và trở thành thói quen của số đông người tiêu dùng, đặc biệt là những khách hàng trẻ ở khu vực thành phố. Do đó, một số công ty bảo hiểm cũng nên bắt kịp xu hướng này bằng việc triển khai bán bảo hiểm hoàn toàn trực tuyến với sản phẩm đơn giản nhất. Nếu làm đúng những điều trên, các doanh nghiệp sẽ tự tin để tăng doanh số bảo hiểm trong tương lai.
Hình thức nào giúp tăng lợi nhuận ngành bảo hiểm
Doanh thu từ kênh bán bảo hiểm trực tuyến hiện còn khiêm tốn. Theo số liệu ước tính của bảo hiểm nhân thọ, tính đến tháng 7/2018, doanh thu phí mới từ kênh này chỉ chiếm chưa đầy 3% trên tổng doanh thu phí. Các doanh nghiệp nên trau dồi nhiều hơn kiến thức marketing để tăng doanh số ngành bảo hiểm trong thời gian tới. Thị trường có thể sẽ có thêm nhiều hãng bảo hiểm sẽ thâm nhập hình thức bán bảo hiểm “thời thượng” này.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia trong ngành, hình thức bán bảo hiểm trực tuyến (online) là một xu hướng mới đáp ứng nhiều hơn về mặt thị hiếu và thói quen mua sắm của khách hàng (Việt Nam có hơn 50 triệu người sử dụng internet).
Với đặc điểm khá phức tạp của ngành bảo hiểm thì kênh truyền thống phân phối qua đại lý vẫn đóng vai trò chính yếu. Song song đó sẽ là kênh bảo hiểm qua ngân hàng, với sự đổi mới về công nghệ cũng như cải tiến về dịch vụ sản phẩm.
Tăng doanh số là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành bảo hiểm
Thống kê sơ bộ của các doanh nghiệp bảo hiểm tính đến hết tháng 7/2018 doanh thu phí bảo hiểm mới bán qua kênh ngân hàng đạt hơn 2.860 tỷ VND, tăng 12% so với năm ngoái và chiếm 20% tổng doanh thu phí mới từ các kênh của thị trường bảo hiểm. Vậy làm sao để các doanh nghiệp có thể tăng doanh thu ngành bảo hiểm đáng kể như vậy?
Việc bán sản phẩm bảo hiểm trên trực tuyến trong thời gian vẫn chỉ là thăm dò thị trường, nhưng việc đầu tư cho nền tảng công nghệ kỹ thuật số để đảm bảo nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của khách hàng sẽ là vấn đề được các doanh nghiệp bảo hiểm quan tâm.
Tăng doanh thu nhờ marketing online
Nhận định được đưa ra từ CEO một doanh nghiệp bảo hiểm, công ty đáp ứng được nhu cầu đang thay đổi của khách hàng về dịch vụ trong kỷ nguyên kỹ thuật số di động sẽ là người chiến thắng. Hơn nữa, việc tiếp cận với những kiến thức marketing hoàn toàn mới mẻ sẽ giúp bạn tăng doanh số ngành bảo hiểm vượt bậc.
Tăng doanh số cho ngành bảo hiểm có khó không?
Gia tăng doanh số bảo hiểm luôn là một trong các mục tiêu hàng đầu của nhiều doanh nghiệp. Doanh số chỉ tăng lên khi khách hàng tìm đến bạn, đặc biệt trong khi tính cạnh tranh thị trường ngày càng một tăng cao. Adsplus sẽ mách bạn những cách để gia tăng doanh số vượt bậc.
Có thể bạn nên biết: 1Web.vn_Nền tảng thiết kết website miễn phí không cần biết code, kéo thả chuột với giao diện đơn giản như PowerPoint đang được nhiều người quan tâm.
Khởi tạo Website miễn phí ngay!
Bạn đang xem bài viết 5 Cách Tư Vấn Bảo Hiểm Nhân Thọ Để Tăng Doanh Số trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!