Xem Nhiều 3/2023 #️ An Ninh Quốc Gia Là Gì ? Phân Tích Dấu Hiệu Pháp Lý Tội Xâm Phạm An Ninh Quốc Gia ? # Top 3 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # An Ninh Quốc Gia Là Gì ? Phân Tích Dấu Hiệu Pháp Lý Tội Xâm Phạm An Ninh Quốc Gia ? # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về An Ninh Quốc Gia Là Gì ? Phân Tích Dấu Hiệu Pháp Lý Tội Xâm Phạm An Ninh Quốc Gia ? mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Khái niệm an ninh quốc gia ?

An ninh quốc gia là sự ổn định và phát triển vững mạnh về mọi mặt: chế độ xã hội, dân cư, không gian sinh tồn, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khả năng phòng thủ đất nước; sự bảo đảm an toàn, trật tự tổ chức đời sống lao động, sinh hoạt xã hội của dân cư theo pháp luật của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

An ninh quốc gia bao gồm các nội dung an ninh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại… và trật tự, an toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; an ninh đối với những cơ sở quan trọng nhất của sự sinh tồn và phát triển của quốc gia.

Luật an ninh quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá XI, kì họp thứ sáu thông qua ngày 3.12.2004 khẳng định an ninh quốc gia chính là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. An ninh quốc gia có hai mặt cơ bản: 1) Sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ và Nhà nước; 2) Sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Hai yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau, ảnh hưởng, thậm chí quy định lẫn nhau; giải quyết mặt nà.y sẽ tăng cường củng cố mặt kia và ngược lại. Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống lại mọi hoạt động xâm hại an ninh quốc gia; là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân, trong đó công an nhân dân và quân đội nhân dân là những lực lượng nòng cốt.

2. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG):

+ Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, sự quản lí thống nhất của Nhà nước ; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ ANQG làm nòng cốt.

+ Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ ANQG với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – văn hoá, xã hội ; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng với hoạt động đối ngoại.

+ Chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm ANQG.

Cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG bao gồm :

+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ CAND.

+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo quân đội nhân dân.

+ Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và trên biển.

.Các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm : Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.

Trật tự, an toàn xã hội : trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định.

Đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm : Chống tội phạm ; giữ gìn trật tự nơi cộng cộng ; bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ; phòng ngừa tai nạn ; bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường… Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.

3.1 Khách thể của các tội xâm phạm an ninh quốc gia:

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia xâm phạm vào những quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của tất cả các quan hệ xã hội khác.

Khách thể của các tội xâm phạm an ninh quốc gia là xâm phạm vào an ninh chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: xâm hại sự tồn tại của chính quyền nhân dân, xâm phạm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân…

Khách thể trực tiếp của mỗi loại tội phạm được cụ thể trong từng điều luật như: khách thể của tội phản bội Tổ quốc là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…

3.2 Mặt khách quan của các tội xâm phạm an ninh quốc gia:

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia được biểu hiện bằng những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các khách thể nêu trên. Tính chất của những hành vi này là nguy hiểm lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội. Đa số các tội xâm phạm an ninh quốc gia được thực hiện bằng hành động, ví dụ, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, tội gián điệp, tội khủng bố,…Đa số các tội phạm trong nhóm tội này có cấu thành tội phạm hình thức. Chẳng hạn, tội phản bội Tổ quốc (điều 78), tội hoạt động nhằm lật đổ chỉnh quyền nhân dân (điều 79)…Một số tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia khác lại có cấu thành tội phạm vật chất, ví dụ, tội hoạt động phỉ (điều 83), tội khủng bố (điều 84)…

+ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là xâm hại đến độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm hại đến chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thấy trước hành vi đó có thể làm suy yếu hoặc lật đổ chính quyền nhân dân nhưng vẫn mong muốn thực hiện.

+ Mục đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tất cả các tội phạm trong nhóm tội này. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có mục đích chống lại hoặc làm suy yếu chính quyền nhân dân. Đây là dấu hiệu cho phép phân biệt tội xâm phạm an ninh quốc gia với những tội phạm khác có các dấu hiệu của mặt khách quan tương tự.

+ Đông cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Động cơ phạm tội ở các tội này có thể khác nhau (thù hằn giai cấp, vụ lợi,…).

+ Chủ thể của các tội xâm phạm an ninh quốc gia:

Chủ thể của các tội xâm phạm an ninh quốc gia là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch.

4. Quy định về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia

4.1 Nhóm tội trực tiếp uy hiếp sự tồn tại của chính quyền nhân dân:

a. Tội phản bội Tổ quốc (Điều 108 – BLHS 2015): là hành vi của công dân Việt Nam câu kết (là quan hệ qua lại chặt chẽ giữa người phạm tội với người nước ngoài) với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ XHCN và Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam.

b. (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dânĐiều 109 – BLHS 2015): là hành vi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương.

– Hoạt động thành lập tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân có thể được thể hiện bằng một số hành vi như đề xướng chủ trương đường lối hoạt động của tổ chức (viết cương lĩnh, điều lệ, kế hoạch, chương trình hoạt động,…), tuyên truyền, lôi kéo, tập hợp người vào tố chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

– Hoạt động tham gia tổ chức lật đổ chính quyền nhân dân là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ mục đích của tổ chức nhưng đã tán thành và nhận lời tham gia vào tổ chức, thực hiện chương trình, kế hoạch và hoạt động của tổ chức.

4.2 Nhóm tội trực tiếp uy hiếp sự vững mạnh của chính quyền nhân dân:

a. Tội gián điệp (Điều 110 – BLHS 2015 ): là hành vi của người nước ngoài, người không có quốc tịch hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống phá nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc là hành vi của công dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc giúp người nước ngoài hoạt động tình báo phá hoại; cung cấp hay thu nhập nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài hoặc những tin tức,tài liệu khác để nước ngoài sử dụng chống lại nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

b. Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 111 – BLHS 2015): là hành vi xâm nhập lãnh thổ, làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc có hành động khác nhằm gây phương hại cho an ninh lãnh thổ của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Theo đó:

– Xâm nhập lãnh thổ là hành vi vượt qua biên giới vào lãnh thổ Việt Nam một cách trái phép, có vũ trang hoặc bán vũ trang. Hành vi xâm nhập có thể diễn ra một cách lén lút hay công khai, bằng đường bộ, đường thủy hoặc đươngg không. Ngoài ra, hành vi này có thể kèm theo việc cướp, giết người, đốt phá tài sản,…

– Làm sai lệch đường biên giới quốc gia là hành vi làm thay đổi vị trí của các cột mốc biên giới quốc gia.

– Hành động khác có thể là bắn phá từ ngoài biển vào, từ lãnh thổ nước khác sang,…

c. Tội bạo loạn (Điều 112 – BLHS 2015 sửa đổi năm 2017): là hành vi hoạt động vũ trang (tập hợp đông người, trang bị vũ khí và dùng vũ lực công khai như tấn công cơ quan nhà nước, bắn giết cán bộ nhân dân,…) hay bạo lực có tổ chức (lôi kéo, tụ tập nhiều người không có vũ trang hoặc có nhưng không đáng kể tiến hành các hoạt động mít tinh, biểu tình, đập phá tài sản,…) nhằm chống lại chính quyền nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân..

d. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 – BLHS 2015): là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của cán bộ, công chức hoặc công dân nhằm chống chính quyền nhân dân. (Ví dụ: cố ý gây thương tích, bắt giữ, đe dọa giết người,… với những cán bộ cốt cán, thành viên tích cực trong các hoạt động xã hội,…).

f. Tội phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 114 – BLHS 2015): là hành vi phá hủy hoặc làm hư hỏng những giá trị vật chất thuộc các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội nhằm chống chính quyền nhân dân.

g. Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội (Điều 115 – BLHS 2015): là hành vi cố ý cản trở, không chấp hành hay chấp hành không đúng các chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước (như chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi,…)

h. Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116 – BLHS 2015): là hành vi tuyên truyền, kích động hoặc bằng thủ đoạn khác chia rẽ sự đoàn kết thống nhất toàn dân, đoàn kết dân tộc, tôn giáo, đoàn kết quốc tế với mục đích chống chính quyền nhân dân. (Ví dụ: gây hằn thù, kì thị chia rẽ các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tôn giáo,…)

i. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 117 – BLHS 2015): là hành vi nhằm chống Nhà nước mà tuyên truyền, phỉ báng chính quyền nhân dân, xuyên tạc, tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, làm, tàng trữ, lưu hành các văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân.

j. Tội phá rối an ninh (Điều 89 – BLHS 2015): là hành vi kích động, lôi kéo tụ tập đông người gây rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở sự hoạt động của cơ quan nhà nước hay tổ chức xã hội nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc những hành vi đồng phạm khác phá rối an ninh.

k. Tội chống phá trại giam (Điều 118 – BLHS 2015): là hành vi phá trại giam, tổ chức vượt trại giam, đánh tháo người bị giam, người bị dẫn giải hoặc trốn trại giam nhằm chống chính quyền nhân dân.

l. Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 120 – BLHS 2015): là hành vi rời bỏ đất nước một cách bất hợp pháp (như dùng giấy tờ giả mạo để đánh lừa cơ quan có thẩm quyền, đe dọa người co trách nhiệm kiểm soát để ra đi,…) hoặc ra đi hợp pháp nhưng ở lại nước ngoài một cách bất hợp pháp (như ra đi để học tập, công tác nhưng khi đã hoàn thành nhiệm vụ thì không trở về nước theo quy định,..) nhằm chống chính quyền nhân dân.

q.Tội chống phá cơ sở giam giữ

w.Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân

5. Ví dụ về một tình huống phạm tội gián điệp

A (là công dân Việt Nam) là phóng viên của một tờ báo nhưng bất mãn vì không được đề bạt vào vị trí lãnh đạo. A thường tâm sự với B và C ( tổ chức chính trị nước ngoài). Biết rõ thái độ của A, nên B và C đề nghị A sưu tầm những thông tin đăng tải trong nước về những tồn tại, bất cập, khiếm khuyết của đất nước. B đã trả cho A 50 triệu đồng. A biết rõ B, C là thành viên một tổ chức nước ngoài có thái độ thù địch và chống Nhà nước Việt Nam. Hỏi:

1.A phạm tội phản bội Tổ quốc hay phạm tội gián điệp. tại sao?

2.Tội phạm do A thực hiện ở giai đoạn phạm tội nào?

Trả lời:

1. A phạm tội gián điệp

Để xác định A phạm tội gián điệp, chúng ta phải căn cứ vào các yếu tố chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm mà A gây ra trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra xem hành vi phạm tội của A có thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS hay không. Chúng ta thấy rằng:

+ Khách thể của tội phạm: Hành vi phạm tội gián điệp xâm phạm an ninh đối ngoại của nước Công hòa XHCN Việt Nam, xâm phạm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân. An ninh đối ngoại được hiểu là nền độc lập của quốc gia, sự bất khả xâm phạm lãnh thổ và sự vững mạnh quốc phòng. Nền độc lập của quốc gia là chủ quyền của quốc gia, là sự tự quyết trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Sự bất khả xâm phạm lãnh thổ chính là biểu hiện sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia không thể bị chia cắt. Sức mạnh quốc phòng thể hiện khả năng phòng thủ đất nước. Hành vi phạm tội gián điệp nếu được thực hiện sẽ làm ảnh hưởng đến sự độc lập của quốc gia, bất khả xâm phạm lãnh thổ và khả năng phòng thủ đất nước.

+ Mặt khách quan của tội phạm: hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ở trong bài, A đã sưu tầm những thông tin đăng tải trong nước về những tồn tại, bất cập, khiếm khuyết của đất nước cho B và C (là thành viên của một tổ chức chính trị nước ngoài) để họ sử dụng các tài liệu gây nguy hại cho Việt Nam.

Về mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội gián điệp có thể là công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch nếu họ thực hiện hành vi quy định tại Điều 110 BLHS 2015. Chủ thể của tội gián điệp còn có thể BLHS 2015:

1. Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;

c) Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này.

+ Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp. Mục đích của họ là chống chính quyền nhân dân. Đây là dấu hiệu bắt buộc của loại tội này. Động cơ phạm tội rất đa dạng như hận thù giai cấp, vụ lợi… nhưng không có ý nghĩa định tội mà chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình phạt.

+ Một đặc điểm phải lưu ý ở tội gián điệp để không nhầm lẫn với tội phản bội Tổ quốc là hành vi câu kết. Cả hai tội đều giống nhau ở chỗ: có dấu hiệu quan hệ với nước ngoài nhưng khác nhau ở chỗ: Trong tội phản bội Tổ quốc, sự quan hệ có tính chất qua lại chặt chẽ, biểu hiện của sự câu kết. Trong tội gián diệp, sự quan hệ ít chặt chẽ hơn, thể hiện ở hành vi làm theo ” sự chỉ đạo của nước ngoài “. Tội phản bội Tổ quốc nhằm mục đích thay đổi chế độ kinh tế – xã hội, lật đổ chính quyền nhân dân Còn tội gián điệp nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân một cách chung chung. Nếu công dân Việt Nam hoạt động gián điệp nhưng đã câu kết với nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền thì sẽ bị coi là phạm tội phản bội Tổ quốc.

Như vậy, A không câu kết với B và C về việc thu thập những thông tin trong nước về những tồn tại, bất cập, khiếm khuyết của đất nước. Do A là một phóng viên nên việc thu thập những tài liệu đó đối với A là không quá khó khăn, do đó B và C đã lợi dụng và trả cho A 50 triệu vì đã cung cấp tài liệu. Hành vi trên mang tính chất trao đổi mua bán nhưng vật trao đổi lại được dùng vào mục đích chống phá nhà nước, A biết rõ điều này nhưng vẫn làm do đó A đã phạm vào điểm c khoản 1 Điều 110 Bộ luật hình sự “cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy không cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài nhưng A đã có hành vi thu thập, cung cấp tin tức tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy không thể kết luận tội của A là phản bội Tổ quốc mà chỉ có thể kết luận A phạm tội gián điệp.

2. Tội phạm do A thực hiện ở giai đoạn hoàn thành, do:

Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm. Điều đó có nghĩa là: Các hành vi biểu hiện ra bên ngoài: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội, vv… Thông qua biểu hiện bên ngoài ở mặt khách quan của tội phạm có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Có động cơ và mục đích phạm tội. Chủ thể phạm tội là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định mà luật hình sự quy định đối với mỗi loại tội phạm.

Ở đây, A có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi; nhận thức rõ được hành vi của mình là cung cấp những thông tin đăng tải trong nước về những tồn tại, bất cập, khiếm khuyết của đất nước cho tổ chức nước ngoài có thái độ thù địch, chống phá Nhà nước Việt Nam; và tất nhiên biết rõ nó gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện.

Do vậy, tội phạm do A thực hiện ở giai đoạn hoàn thành.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay tới số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật Minh Khuê

Tham Gia Tích Cực Vào Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia

Tổng cục Dự trữ Nhà nước là 1 trong 3 tập thể thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đầu tư được Bộ trưởng Bộ Công an tặng Bằng khen Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. “Đây là niềm vinh dự lớn lao cho toàn thể cán bộ công chức của Tổng cục DTNN, là sự ghi nhận và đánh giá của Lãnh đạo Bộ Công an, Lãnh đạo Tổng cục An ninh II đối với quá trình chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào quá trình bảo vệ an ninh quốc gia”, TS. Phạm Phan Dũng

Bộ trưởng Trần Đại Quang trao tặng Bằng khen cho Tổng cục Dự trữ Nhà nước và một số tập thể

đã có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ năm 2013

Là 1 trong 3 tập thể thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đầu tư đã có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ năm 2013, xin Tổng cục trưởng cho biết cảm tưởng sau khi nhận được phần thưởng này?

Trước tiên, xin chân thành cảm ơn Bộ trưởng Bộ Công an đã quyết định trao Bằng khen cho Tổng cục DTNN trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Đối với Tổng cục DTNN, đây là niềm vinh dự lớn lao cho toàn thể cán bộ công chức của Tổng cục DTNN; Là sự ghi nhận của Lãnh đạo Bộ Công an, Lãnh đạo Tổng cục An ninh II đối với quá trình chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào quá trình bảo vệ an ninh quốc gia.

Trong thời gian qua, ngành DTNN đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, từng bước vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Trong hoạt động của mình, Tổng cục DTNN đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ngành, góp phần thiết thực vào phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Những lĩnh vực đó là gì thưa Tổng cục trưởng?

Tổng cục trưởng Phạm Phan Dũng: Đó là xây dựng nguồn lực hàng hóa dự trữ quốc gia (DTQG) ngày càng phát triển; Tăng cường về số lượng, nâng cao về chất lượng; Đa dạng về chủng loại và ngày càng phục vụ có hiệu quả cho mục tiêu yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, phục vụ quốc phòng, an ninh; Tìm kiếm cứu nạn, công tác cứu trợ, hỗ trợ.

Phóng viên:Thưa Tổng cục trưởng, được biết,công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ cán bộ công chức đối với người làm công tác dự trữ quốc gia được đặc biệt quan tâm. Xin Tổng cục trưởng chia sẻ đôi nét về vấn đề này?

Tổng cục trưởng Phạm Phan Dũng: Tổng cục DTNN đặc biệt quan tâm và quán triệt đến toàn thể cán bộ, công chức nhận thức rõ việc bảo vệ chính trị nội bộ và bảo vệ cán bộ, đảng viên; chú trọng công tác thẩm định tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong việc bố trí sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ trong diện quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm vào vị trí, bộ phận thiết yếu cơ mật. Mỗi cán bộ, đảng viên do nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng của”Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, nên trong suy nghĩ và hành động đã có sự chuyến biến tích cực, tự giác, coi đó là nghĩa vụ và quyền lợi, vì bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng chính là để bảo vệ sự bình yên cho cá nhân, gia đình mình.

Thấu suốt quan điểm kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phòng – an ninh, Tổng cục DTNN thường xuyên phối hợp với Cục An ninh Tài chính, Tiền tệ, đầu tư của Tổng cục An ninh II; Cục Kho Vận của Tổng cục Hậu cần- Kỹ thuật (Bộ Công An) nắm chắc tình hình địa bàn được phân công quản lý; phối hợp chặt chẽ và quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh kinh tế, trước hết là làm tốt công tác bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước trong đó tập trung vào các khâu: xây dựng chính sách và phân bổ nguồn lực DTQG. Đồng thời, đề xuất những vấn đề cần sự phối hợp, giúp đỡ của Tổng cục An ninh II, của Tổng cục Hậu cần- Kỹ thuật nhằm mục tiêu góp phần giữ vững an ninh kinh tế và ổn định trật tự xã hội. Chủ động ngăn chặn không để cán bộ, đảng viên biến chất về tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Không để lọt những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất vào các cơ quan đơn vị của Tổng cục.

Phóng viên: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Tổng cục DTNN có gặp nhiều khó khăn không thưa Tổng cục trưởng?

Tổng cục trưởng Phạm Phan Dũng: Về thuận lợi, có thể khẳng định rằng, đến nay ngành DTQG đã hình thành được hệ thống cơ chế, chính sách quản lý DTQG đồng bộ, tạo điều kiện cho việc quản lý hàng DTQG trong lĩnh vực an ninh được đảm bảo, chặt chẽ. Cùng với sự tăng trưởng chung của lực lượng DTQG, quy mô DTQG trong lĩnh vực an ninh đã có bước phát triển và củng cố, hàng năm ngân sách bố trí cho lĩnh vực này ở mức hợp lý, góp phần đảm bảo nguồn lực DTQG khi có yêu cầu.

Đứng trước yêu cầu về bảo vệ an ninh trong tình hình mới, đòi hỏi mỗi cán bộ công chức của Tổng cục DTNN cần phát huy ý thức trách nhiệm trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, cũng như ý thức chấp hành, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy chế bảo vệ an toàn cơ quan.

Phóng viên: Vậy với vai trò là người đứng đầu ngành DTQG, để tiếp tục đẩy mạnh “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và thực hiện có hiệu quả “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, trong thời gian tới, ngành DTQG sẽ có kế hoạch gì thưa Tổng cục trưởng?

Tổng cục trưởng Phạm Phan Dũng: Tổng cục DTNN sẽ tiếp tục quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về các mặt phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng, các văn bản, chỉ đạo hướng dẫn của Bộ Công an về xây dựng “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, bảo vệ bí mật nhà nước, đấu tranh, phòng chống tội phạm để đóng góp chung vào sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc.

Bên cạnh đó, trong thời gian tới Tổng cục DTNN sẽ phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Công An, Tổng cục Hậu cần- Kỹ thuật tham mưu báo cáo cấp có thẩm quyền về cơ chế chính sách, đề xuất việc bố trí nguồn lực dự trữ quốc gia tham gia có hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ của Bộ Công an trong tình hình mới.

Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (C50) phối hợp Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (C45) cùng Cục An ninh tài chính, tiền tệ và đầu tư (A84) – Bộ Công an

Bắt khẩn cấp Nguyễn Văn Kỳ Chủng, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư tài chính Thiên Việt và Nguyễn Văn Kỳ Thành, Giám đốc chi nhánh chúng tôi của Công ty Thiên Việt để điều tra làm rõ hành vi kinh doanh sàn vàng, ngoại tệ “chui”.

Như vậy, tính từ tháng 9/2014 đến nay, đã có 8 sàn vàng bị đánh sập, bao gồm VGX, Khải Thái, 24 Gold Duệ Bác, HGI, BBG, HLG, IMMS và Thiên Việt. Hầu hết các vụ việc đang được mở rộng điều tra, nên chưa có kết luận cuối cùng, song tổng số tiền mà 8 sàn vàng ảo huy động được ước tính lên đến hàng ngàn tỷ đồng, với ít nhất vài chục ngàn người sập bẫy. Cho đến nay, các nhà đầu tư chưa thể đòi được tiền, thậm chí còn đứng trước nguy cơ bị phạt.

Theo Luật sư Trương Thanh Đức (Công ty Luật BSICO), khi kinh doanh vàng trên tài khoản, người chơi không được pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp người chơi có ký các hợp đồng ủy thác, ranh giới hợp pháp cũng rất khó xác định. Điều quan trọng là, dù cơ quan chức năng có vào cuộc thì cũng rất khó thu hồi được tiền cho người chơi.

Hoạt động ngoài vòng pháp luật, lại có rất nhiều “chiêu” để thao túng giá, thao túng phần mềm giao dịch, nên điều dễ hiểu là 99% nhà đầu tư tham gia sàn đều “cháy” tài khoản. Tuy nhiên, do tỷ lệ đòn bẩy cao, kích thích tâm lý may rủi, nên cho đến nay, nhiều nhà đầu tư vẫn nhắm mắt lao vào các sàn vàng chui như những con nghiện cờ bạc.

Anh Hoàng Nam, một nhà đầu tư forex cho hay: “Cách đây một năm, nghe nhiều người môi giới ca ngợi sàn IronFX, tôi đã mở tài khoản đầu tư vào đây. Từ đầu năm 2015, tôi đã nhiều lần thực hiện lệnh rút tiền mà không được. Lên công ty hỏi thì được hướng dẫn phải rút tiền qua ngân hàng và gửi giấy tờ sang nước ngoài để duyệt, nhưng 3 tháng sau vẫn chưa thấy giải quyết. Cách đây mấy tháng, qua thông tin từ nước ngoài, tôi mới biết sàn này đã bị sập”.

Cũng theo nhà đầu tư này, không chỉ IronFX mà nhiều “nhà cái” ở nước ngoài bị phát hiện lừa đảo như: Youtradefx, Caesartrade… Xót tiền, nhiều nhóm nhà đầu tư đã hùn tiền cử một vài cá nhân sang tận nước ngoài để đòi tiền nhưng phải tay không ra về.

Ngay cả với các sàn đang tồn tại, thì chủ sàn cũng có nhiều mánh khóe móc tiền nhà đầu tư như: rớt mạng, giãn tỷ giá mua bán, báo lệnh lỗ trong lịch sử giao dịch dù nhà đầu tư đóng lệnh tại giá có lãi…

Lãnh đạo NHNN khuyến cáo, các sàn vàng dù hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, song về Việt Nam có thể trở thành bất hợp pháp. Người dân đầu tư vào đây cũng là trái phép và không được pháp luật bảo vệ, nguy cơ mất tiền rất cao.

Nội Dung Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia

Khái quát nội dung bảo vệ an ninh quốc gia

Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia

1. An ninh quốc gia là gì?

An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. An ninh quốc gia bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.

2. Bảo vệ an ninh quốc gia là gì?

Bảo vệ an ninh quốc gia: Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại an ninh quốc gia.

Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xâm phạm.

Mục tiêu về an ninh quốc gia là: những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ sở chúng tôi quy định của pháp luật.

Bảo vệ an ninh quốc gia là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân.

3. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia

+ Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

+ Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

+ Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia.

+ Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

+ Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại bỏ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia.

4. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia

+ Bảo vệ an ninh chính trị nội b ộ. Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt Nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngoài. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đoàn kết, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ luôn là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp.

+ Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

+ Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn định và phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn, vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ, thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

+ Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước; ngăn ngừa, phát triển, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

+ Bảo vệ an ninh tôn giáo. Bảo vệ an ninh tôn giáo là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá

+ Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lý trước pháp luật đảm bảo đúng người, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt; có thể tái hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.

+ Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh, sẽ tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng – nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của con người.

+ Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông.Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính…) mà là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật Giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phải được xử lý nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.

5. Quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia

+ Tham gia lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

+ Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Phát hiện, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia khắc phục sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

+ Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

+ Giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

+ Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa nội dung giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia và chương trình dạy học trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học.

Biện Pháp Và Mục Đích Của Việc Đảm Bảo An Ninh Quốc Gia Là Gì?

Như thế nào được gọi là an ninh quốc gia là gì?

Đối với một đất nước có sự ổn định và phát triển bền vững thì đất nước đó được coi là một quốc gia có an ninh cực kỳ tốt và được các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm đến sự an toàn và ổn định của đất nước đó.

An ninh quốc gia được xem như là một biện pháp cho việc thực thi hay thực hiện những công việc, hoạt động, chiến lược nhằm đảm bảo sự an toàn và ổn định. Một ví dụ đơn giản để bạn đọc có thể hiểu an ninh quốc gia là gì đó chính là khi trong trường hợp ở một thời điểm, một chế độ, hay một giai thoại nào đó việc các cấp chính quyền sử dụng các nguồn lực từ mọi phương diện như: kinh tế, ngoại giao, sức mạnh vũ trang để nhằm trấn an, đảm bảo trật tự an toàn cho cả đất nước. Ngoài ra tùy vào từng trường hợp có thể xem như là việc huy động nguồn lực để chống lại những âm mưu của những đối tượng thù địch bên ngoài đảm bảo cho đất nước có sự bình ổn và an toàn.

An ninh quốc gia còn được hiểu là sự ổn định cũng như sự phát triển của chế độ xã hội nhà nước bằng việc đảm bảo sự yên ổn cho đất nước không bị rối loạn bởi những tên phản động, hay những sự quấy nhiễu phá hoại, xâm phạm từ những thế lực thù địch bên ngoài.

Ngoài ra an ninh quốc gia còn có thể hiểu bao gồm việc một quốc gia có đầy đủ sự ổn định về mặt kinh tế, năng lực, lương thực, đạo đức, an toàn của xã hội,.. để chống lại những mối nguy cơ đe dọa từ các thế lực muốn phá hoại, quấy nhiễu đất nước cả trong và ngoài nước

An ninh quốc gia của đất nước Việt Nam

Đối với nước ta, an ninh quốc gia được coi là sự ổn định và phát triển cực kì bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến cho không một kẻ thù nào có thể xâm phạm. An ninh quốc gia của Việt Nam đảm bảo cho đất nước có chủ quyền, thống nhất cũng như giữ gìn đươc trọn vẹn lãnh thổ Việt Nam

Theo luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11 vào ngày 03/12/2004 tại khoản 1 điều 3 có đề cấp đến việc được coi là xâm phạm an ninh quốc gia là việc có những hành vi đe dọa gây ra lỗi lầm gây thiệt hại rất lớn đối với pháp luật ( không tôn trọng và phá hoại an ninh của quốc gia), hay có những hành động vi phạm pháp luật hình sự.

Cũng theo Bộ luật hình sự 2015, ở Chương XIII có nói đến việc những đối tượng mắc phải những tội như: tội phản bội Tổ quốc, có những hành động với mục đích muốn lật đổ chính quyền của nhân dân, tội gián điệp, tội vi phạm an ninh lãnh thổ, tội hoạt động phỉ bám đất nước, tội phá hoại chính sách nhằm gây mất đoàn kết, tội gây rối phá hoại an ninh, tội bỏ trốn ra nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền, tội có những hành động gây rối, phá hoại cơ sở vật chất, kỹ thuật của quốc gia,tội truyền bá phản động đất nước

Các biện pháp của pháp luật để đảm bảo an ninh quốc gia của đất nước Việt Nam

Trong thời đại bùng nổ của khoa học kỹ thuật của khắp nơi trên toàn thế giới thì việc đảm bảo an ninh quốc gia càng được quan tâm và chú trọng.

Có rất nhiều biện pháp để đảm bảo an ninh quốc gia và đặc biệt trong việc bảo vệ an ninh quốc gia thì không thể không xem nhẹ hoặc quá xem trọng bất cứ biện pháp nào. Vậy các biện pháp mà nhà nước sử dụng nhằm mục đích để bảo vệ an ninh quốc gia là gì?

Các biện pháp được pháp luật sử dụng để giữ gìn trật tự an ninh là:

Thứ 1, đó là việc đưa ra những biện pháp có tác dụng hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an ninh quốc gia

Thứ 2, nhà nước đã đưa ra các biện pháp nhằm ngăn chặn và sớm phát hiện kết hợp với xử lý, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, hoàn thiện thể chế

Thứ 3, nhà nước đưa ra các biện pháp, quy định để quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm phạm luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

Thứ 4, nhà nước đã đưa ra các chính sách về pháp luật giành cho lực lượng công an nhân dân với mục đích cao cả là bảo vệ nhân dân của đất nước. Ở một đất nước mà quyền con người và quyền công dân được coi trọng và thể hiện rõ ràng ở quyền công dân cũng như các quy định trong Hiến pháp và pháp luật vì vậy mà mọi hành động có ý đồ xâm phạm đến quyền công dân và quyền con người đều sẽ bị pháp luật Nhà nước xử phạt.

Thứ 5, nhà nước cũng đưa ra các biện pháp, chính sách pháp luật nhằm đảm bảo an ninh trật tự bằng cách giáo dục cán bộ hay các sĩ quan, chiến sĩ cảnh sát công an nhằm mục đích nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật,, tôn trọng nhà nước chính quyền pháp luật. Cùng với những việc đó nhà nước cũng đưa ra những biện pháp quy định chặt chẽ nhằm tác động lên ý thực của các cán bộ, sĩ quan công an nhân dân có ý thức tự giác, linh hoạt, nghiêm chỉnh để có thể đấu tranh phòng trống tội phạm bảo vệ an toàn, an ninh quốc gia cho tổ quốc

Cuối cùng là ngoài những biện pháp đã được nêu ra ở trên, nhà nước ta cũng đang cố gắng tiếp tục tìm các biện pháp, chính sách để có thể linh hoạt, hài hòa hơn giúp cho việc bảo vệ an ninh quốc gia trở nên đầy đủ và hiệu quả hơn.

Tại sao an ninh quốc gia lại quan trọng đến vậy?

Như đã nói ở trên an ninh quốc gia được xem như yếu tố quan trọng giúp cho một đất nước có thể phát triển, đời sống của nhân dân trở nên bình an và có thể tập trung đóng góp vào sự phát triển của đất nước và xã hội. An ninh quốc gia có vai trò vô cùng to lớn và bất cứ ai mà bất cứ hay bất cứ cá thể nào cũng cần phải tự giác và có trách nhiệm trong việc bảo vệ và giữ gìn an ninh của một quốc gia.

Trong hơn 20 năm đổi mới và xây dựng đất nước, thực hiện theo những chính sách và cương lĩnh chính trị của nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cùng với đó khoảng mười lăm năm thực thi chiến lước nhằm mục đích giúp cho đất nước phát triển toàn diện về mọi mặt từ kinh tế cho đến xã hội trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2010, sự phát triển đó được nhìn thấy rõ rang khi đất nước ta đến nay đã phát triển về mọi mặt cả về tầm vóc, trí tuệ, vị thế thay đổi và cả con người và xã hội đều thay đổi và đổi mới hơn theo hướng tích cực.

Để có được ngày hôm nay cùng với những thay đổi vô cùng tích cực và to lớn đó không thể không nhắc đến việc nhà nước ta hay nhân dân ta đã vô cùng có ý thức trong việc giữ gìn và bảo vệ an ninh quốc gia bằng các biên pháp và hành động cũng như đưa là những điều luật nhằm giúp cho đất nước của chúng ta ngày hôm nay ngày một giàu có và vững mạnh. Chúng ta đã và đang làm tốt giữ vững chủ quyền độc lập, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam thân yêu cũng như chế độ XHCN bền vững đảm bảo cuộc sống cho nhân dân an tâm và yên vui, đảm bảo sự ổn định chính trị và xã hội, môi trường hòa bình và hợp tác, tạo lên một đất nước hùng mạnh tránh được những âm mưu đen tối của những thế lực thù địch.

Ngoài ra chúng ta cũng phải biết ơn những người lãnh đạo vô cùng tuyệt vời của đất nước ta, và đã luôn luôn ra sức, tìm cách để làm sao có thể khiến cho đất nước ta trở thành một đất nước dân giàu nước manh, xã hội công bằng chủ nghĩa văn minh. Bằng việc thường xuyên và trực tiếp thực hiện quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch hay quan điểm chủ trương mà Đảng hay các chính sách pháp luật của nhà nước đề ra về tất cả các lĩnh vực như an ninh quốc phòng, an ninh trật tự và cũng được các cấp, các ngành, những lực lượng vũ trang ra sức, liên tục và kịp thời thực hiện và xử lý. Ngoài ra nhờ việc tuyên truyền và giáo dục liên tục và nâng cao để mỗi cá nhân trong nước đều có ý thức nâng cao tinh thần trách nhiệm của bạn thân, nâng cao được ý thức tự giác bảo vệ đất nươc và nâng cao ý thức xây dựng bộ máy chính trị cũng như việc nâng cáo nhận thức trong việc giữ gìn an ninh quốc gia cho toàn Đảng, toàn dân và toàn dân tộc để đạt được những kết quả tốt nhất.

Vai trò và ý thức của mỗi cá nhân trong việc xây dựng và bảo vệ an ninh quốc gia là gì?

Cùng với những biến động của lịch sử, sự phát triển của thế giới và những chuyển biến liên tục, khó có thể lường trước điều gì có thể ảnh hưởng và tác động đến quốc gia của chúng ta. Vì vậy những biến động của sự phát triển về mọi mặt như : kinh tế, xã hội, chính trị, khoa học kỹ thuật,..từ khắp nơi trên thế giới có thể vừa là lợi thế vừa là nguy cơ đe dọa của chúng ta. Vì vậy không chỉ là một bài toán khó với nhà nước chúng ta làm sao để cân bằng và giảm nguy cơ mất an toàn trật tự và vẫn đảm bảo cuộc sống của người dân mà mỗi chúng ta đều phải có ý thức tự giác bảo vệ an toàn quốc gia chống lại các tác động tiêu cực từ sự phát triển của mọi mặt trên toàn thế giới.

Bạn đang xem bài viết An Ninh Quốc Gia Là Gì ? Phân Tích Dấu Hiệu Pháp Lý Tội Xâm Phạm An Ninh Quốc Gia ? trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!