Xem Nhiều 6/2023 #️ Bài Tham Luận Một Số Biện Pháp Nâng Cao Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên # Top 9 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Bài Tham Luận Một Số Biện Pháp Nâng Cao Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Tham Luận Một Số Biện Pháp Nâng Cao Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

2. Một số yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên

3. Một số biện pháp nâng cao kết quả học tập của sinh viên

Theo nội dung cuộc họp Hội đồng 14h00 ngày 27/9/2016, Phòng Đào tạo công bố kết quả học tập học kỳ 2 năm học 2015 – 2016 của sinh viên toàn trường như sau:

Trong đó, số sinh viên diện cảnh báo học tập, buộc thôi học chủ yếu là sinh viên khóa 1 ngành Công nghệ.

Lớp K1CN bao gồm 208 SV chuyển từ các khoa khác trong trường sang khoa SPKT. Đây là số các em sinh viên sẽ bị buộc thôi học theo Quy chế đào tạo do kết quả học tập rất thấp.

Tuy nhiên, Nhà trường đã tạo thực hiện một chính sách nhân văn tạo điều kiện cho SV được tiếp tục theo học bằng cách cho các em chuyển hệ đào tạo sang hệ đào tạo ngành Kỹ sư Công nghệ dựa trên những nhu cầu, nguyện vọng tha thiết và chính đáng của các em.

+ Không vượt qua học kỳ thử thách: 7 (2,25%)

Điều này gây ra thiệt hại không nhỏ về nhiều mặt (tài chính, thời gian, công sức, tuổi trẻ, sức khỏe, cơ hội,…) cho sinh viên, gia đình sinh viên, nhà trường và xã hội.

Kết quả quá trình học tập của SV trong công tác giáo dục và đào tạo phụ thuộc một số yếu tố và được xếp vào hai nhóm nguyên nhân: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.

* Chủ quan: Động cơ học tập, tính tích cực học tập, PP học tập của SV;

* Khách quan: PPGD của GV, CTĐT, CSVC của Nhà trường, …

Trong đó động cơ học tập là yếu tố tâm lí đầu tiên ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của sinh viên. Do chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn dẫn đến một số lượng không nhỏ SV không thể hoàn thành đúng tiến độ học tập của mình.

chính là Động cơ học tập động lực bên trong của mỗi người, người học hành động để đạt được mục đích học tập của mình.

Hay, động cơ học tập chính là yếu tố thôi thúc người học tiến hành các hành động học tập nhằm thỏa mãn các nhu cầu của bản thân.

– Động cơ hoàn thiện tri thức: Xuất phát từ nhu cầu, khao khát chiếm lĩnh, khám phá, tìm tòi, mở rộng tri thức.

Tuy nhiên Động cơ hoàn thiện tri thức mới là động cơ đúng đắn. ” Học để biết, học để làm việc, học để chung sống với nhau và học để làm người”.

Các động cơ xã hội góp phần giúp sinh viên hình thành được động cơ học tập đúng đắn, tăng niềm vui và hứng thú cho người học; Tuy nhiên, chỉ khi có được động cơ học tập đúng đắn, người học mới học tập tự giác, tích cực học tập, rèn luyện từ đó phát triển nhân cách một cách bền vững.

VD: Nếu người học chỉ học vì điểm cao thì có rất nhiều cách thức để đạt được điều đó. Người học có thể không học tập nhưng do gian lận trong học tập, thi cử vẫn có thể đạt được mục đích của mình, tuy nhiên khi đó điểm cao không thể đem lại cho người học năng lực hành động thực sự.

Nếu học vì cho rằng học là để cho cha mẹ chứ không phải học cho chính bản thân mình thì người học sẽ không chủ động, không có đam mê, cảm giác bị ép buộc nên học một cách thụ động, chống đối, hình thức, dẫn đến kết quả học tập không cao mà việc học lại trở thành cực hình đối với bản thân.

Chính động cơ học tập hoàn thiện tri thức sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy người học phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt kết quả học tập tốt nhất, qua đó có thể thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, phát triển bền vững nhân cách bản thân, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, góp phần xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh.

Bên cạnh đó, để thực hiện được các động cơ/mục tiêu học tập quan hệ xã hội thì người học về thực chất vẫn phải giải quyết được nhiệm vụ học tập để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo theo mục đích học tập.

Ví dụ để sau này kiếm được nhiều tiền và trở lên giàu có, ta phải có năng lực, có tay nghề, làm được việc, muốn làm được việc thì phải có kiến thức và kỹ năng, thái độ đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai.

Quay trở lại số liệu thống kê kết quả học tập của sinh viên khoa ta trong năm học 2015 – 2016, ta có thể thấy:

Số lượng sinh viên không hoàn thành tiến độ học tập, thuộc diện cảnh báo học tập hay bị buộc thôi học chủ yếu tập trung vào số sinh viên khóa 1 ngành Công nghệ (Công nghệ Kỹ thuật Điện – Điện tử và Công nghệ Chế tạo máy), một số SV thuộc ngành SPKT, và K51 CN. Kết quả học tập của các em này rất thấp.

Thực tế, điểm thi đầu vào đại học của các em khá cao, có những em đạt trên 20 điểm. Nhưng do chưa thích nghi kịp với cách dạy và học ở môi trường đại học, chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn, chưa xây dựng được kế hoạch học tập đúng đắn, dẫn đến không tìm thấy hứng thú và niềm vui trong học tập và rèn luyện mà bỏ bê việc học tập, học hành ngày càng sa sút.

Đặc biệt, một số em khi đăng ký học phần chỉ dựa vào việc hỏi bạn bè, các bạn sinh viên năm trước, chưa căn cứ vào chương trình đào tạo và kế hoạch đào tạo của Ngành, đặc biệt là chưa căn cứ vào năng lực của bản thân và tham khảo ý kiến của cố vấn học tập – là giáo viên chủ nhiệm dẫn đến chương trình học tập mỗi học kỳ có thể lại quá nặng hay quá nhẹ, và kết quả học tập sẽ không được như mong đợi.

Nhà trường, Khoa, thầy cô và cán bộ phòng ban chức năng là những nhà giáo dục, có vai trò lãnh đạo, tổ chức, tư vấn, giúp đỡ SV, tạo ra môi trường học tập tốt nhất có thể cho người học. Nhưng SV mới là người có vai trò quyết định đến kết quả của quá trình học tập, quyết định đến tương lai cuộc đời của chính mình.

Đầu mỗi năm học, mỗi học kỳ, sinh viên phải xây dựng bảng kế hoạch học của mình, có chữ ký của lớp trưởng, giáo viên chủ nhiệm và nộp về khoa. Trên cơ sở bảng kế hoạch học tập cá nhân, khoa và GVCN sẽ tư vấn về kế hoạch học tập cho phù hợp với từng em.

Như vậy, tổng số SV K1 CN đã tốt nghiệp trong năm 2016 là 111 SV. Đây là một kết quả rất đáng mừng.

VD: Em Trịnh Trọng Đại, SV K1 CN CTM, từ khoa Môi trường chuyển sang, khi quy đổi điểm thì số tín chỉ tích lũy được khoảng 30 TC, tương đương với trình độ sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai. Em rất hoang mang, không biết bắt đầu từ đâu.

Vậy mà chỉ sau 2 năm học tập, với sự giúp đỡ của Nhà trường, BCN khoa, đội ngũ GV của khoa, cùng với sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành chương trình học tập và ra trường trong HK 1 (15-16).

Hầu hết các em SV K1CN sau khi tốt nghiệp ra trường đều đã có việc làm:

Thầy giáo Khổng Tử đã dạy: ” Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học ” .

Các em sv để có được kết quả học tập tốt, trước hết cần phải xác định cho mình động cơ học tập đúng đắn, xây dựng mục tiêu và kế hoạch học tập khoa học và phù hợp với điều kiện và năng lực bản thân. Bên cạnh đó cần phải có phương pháp học tập khoa học, chủ động, tích cực.

Xin trân trọng cảm ơn quý vị đại biểu, quý thầy cô và các em sinh viên đã chú ý lắng nghe.

Bài Viết: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên Ở Các Trường Đại Học

Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của qúa trình dạy học. Đây cũng là khâu quan trọng tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Việc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng hướng sẽ là động lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên trong học tập của sinh viên, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của sinh viên.

Khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào quá trình đào tạo của hệ thống giáo dục Đại học của từng nước, nơi ngoài những năng lực nhận thức cơ bản về chuyên môn, phải rèn luyện cho sinh viên những kĩ năng sống, làm việc trong môi trường thực, luôn thay đổi và nhiều thử thách. Hiện nay, nền giáo dục đại học Việt Nam đang tiến hành một quá trình đào tạo mang tính hàn lâm, không tạo ra sự khát khao trong học tập để có thể cho ra trường những công dân của thế kỉ 21. Trong quá trình đào tạo ấy, việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập – một khâu trọng yếu chỉ được tiến hành thông qua những hình thức truyền thống như các câu hỏi trắc nghiệm khách quan hoặc trắc nghiệm tự luận. Những bài kiểm tra – đánh giá kiểu này chỉ đòi hỏi sinh viên miêu tả lại những sự kiện riêng rẽ, hiếm khi yêu cầu sinh viên vận dụng những kiến thức đã học vào một tình huống thực trong cuộc sống.

Các trường đại học phải giúp sinh viên phát triển những kĩ năng, những năng lực trong cuộc sống thực, bối cảnh thực và những sinh viên tốt nghiệp phải trình diễn được những năng lực được đánh giá bằng các bài kiểm tra – đánh giá thực, chứ không phải chỉ bằng giấy bút như hiện nay.

Thực tế cũng cho thấy, một bộ phận lớn sinh viên đã tốt nghiệp vẫn chưa được xã hội chấp nhận do không đủ năng lực để phục vụ được các nhiệm vụ thực tế, mà sự bất cập trong hệ thống đánh giá kết quả học tập là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Đánh giá quá trình học tập phải được thể hiện thông qua bảng điểm của sinh viên và hệ thống chuẩn mực dùng để xác định các điểm số đó. Một nền giáo dục tiến bộ cần phải có một hệ thống điểm số đánh giá được chuẩn hoá, sao cho vừa có thể chuyển tải được hết mục đích của giáo dục, vừa giúp xã hội đánh giá chính xác mức độ có ích năng lực của sinh viên, đồng thời có thể giúp người học định hướng được mục tiêu và điều chỉnh được hành vi, để tự nâng cao kết quả học tập của bản thân.

Điểm số tự thân nó cao hay thấp không phải là một vấn đề, mà vấn đề ở chổ chất lượng của hệ thống xác định nó. Chất lượng càng cao mức độ chuẩn hoá càng lớn, khả năng quốc tế hoá nền giáo dục đó càng rộng. Trước yêu cầu hội nhập càng đến gần, việc nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá và nhanh chóng hoàn thiện một hệ thống đánh giá kết quả học tập chất lượng cao là một yêu cầu tất yếu. Đối với các trường Đại học và Cao Đẳng vấn đề này lại càng có tầm quan trọng đặc biệt hơn.

Thực trạng hệ thống đánh giá kết quả học tập sinh viên Đại học hiện nay.

Thông thường kết quả học tập của các môn học được đánh giá theo thang điểm 10 với các điểm bộ phận như sau:

10% đánh giá tính chuyên cần của sinh viên (Gộp vào đánh giá kết quả kiểm tra giữa kì)

30% đánh giá kết quả kiểm tra giữa kì (Có thể đến 50%)

60% đánh giá kết quả thi cuối kì

Đánh giá tính chuyên cần của sinh viên

Để đánh giá tính chuyên cần của sinh viên, giảng viên dựa vào

Số buổi tham gia lớp học của sinh viên

Đánh giá kết quả kiểm tra giữa kì

Hình thức kiểm tra giữa kì của giảng viên rất phong phú:

Giảng viên có thể kiểm tra nhiều lần trong quá trình học với thời gian và hình thức thích hợp. Thời lượng cho bài kiểm tra giữa kì có thể cả tiết học hoặc ngắn hơn. Việc kiểm tra như vậy sẽ giúp giảng viên hiểu được trình độ học tập của sinh viên và giúp sinh viên tích cực hơn trong học tập.

Với nhiều môn học, giảng viên đánh giá kết quả giữa kì dựa trên trình bày của cá nhân và nhóm về từng vấn đề được phân công. Đối với môn thiết bị boong sinh viên đươc kiểm tra thực hành. Hình thức này giúp sinh viên có các kĩ năng làm việc theo nhóm, tranh luận, trao đổi trong quá trình chuẩn bị và tăng cường khả năng thuyết trình của sinh viên trước đám đông.

Đánh giá kết quả thi cuối kì

Có nhiều hình thức đánh giá mà các giảng viên thường sử dụng để đánh giá kết quả thi cuối kì của sinh viên. Có 2 hình thức chính là các bài thi viết (Trắc nghiệm khách quan, tự luận ở hai dạng được tham khảo tài liệu hoặc không) và thi vấn đáp. [2]

Về quy trình ra đề thi, sử dụng ngân hàng đề thi, nhân đề thi, coi thi, chấm bài thi, lưu giữ bài thi… Thì tuân theo quy định của nhà trường.

Những bất cập phát sinh

Thưc̣ tế hiện nay, mặc dù phương pháp đánh giá đã có nhiều cải tiến tích cực nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn để tiếp tục hoàn thiện:

Hình thức thi và kiểm tra: chưa phong phú, chủ yếu vẫn là thi và kiểm tra viết

Phạm vi thi và kiểm tra: vẫn còn tình trạng một số môn học giới hạn phạm vi quá hẹp trên một diện rất rộng kiến thức sinh viên được học, do đó dẫn tới tình trạng sinh viên học tủ, học lệch, học đối phó.

Nội dung thi và kiểm tra: các câu hỏi thi và kiểm tra còn nhiều trùng lắp, thiếu sáng tạo. Nhiều câu hỏi chủ yếu là tái hiện kiến thức lý thuyết, thậm chí ra đúng như đề mục trong bài, vì vậy nhiều sinh viên bỏ tiết không đi học nhưng vẫn thi đươc̣ là nhờ học thuộc lòng (học vẹt, không cần hiểu) hoặc quay cóp.

Ngoài ra một vấn đề nữa mà theo tôi cũng cần phải quan tâm đó là vẫn còn có tình trạng (mặc dù rất là cá biệt) giáo viên, khoa, bộ môn do chạy theo thành tích nên dẫn tới tâm lý dễ dãi trong vấn đề đánh giá sinh viên của mình, ảnh hưởng đến tính động viên thi đua trong sinh viên và giữa các khoa bộ môn.

Vấn đề tuỳ tiện trong cách đánh giá kết quả học tập. Kết quả là hệ thống điểm số đánh giá khác nhau không chỉ xảy ra ở cấp trường, cấp khoa, bộ môn, mà cả giữa các giáo viên trong từng bộ môn. Trên bình diện xã hội nhiều trường có tên tuổi, có điểm số tuyển sinh đầu vào cao nhưng lại có điểm số bình quân khá thấp, số sinh viên bị buộc thôi học hàng năm chiếm tỷ lệ khá lớn, trong khi tình hình lại xảy ra ngược lại ở các trường mới hình thành. [3]

Phương pháp đánh giá sinh viên chưa thực sự động viên sinh viên phấn đấu vươn lên trong học tập. Việc đánh giá sinh viên của mỗi giảng viên chưa thực sự đồng nhất, còn nhiều sai biệt khác nhau, có môn thì quá chặt, có môn thì quá lỏng.

Bệnh chạy theo thành tích, đã tạo thêm cơ hội cho chủ nghĩa thực dụng có đất phát triển, điểm số trở thành công cụ để tăng thêm thu nhập cho một số nhà giáo. Tâm lý dễ dãi trong vấn đề đánh giá sinh viên của mình, ảnh hưởng đến tính động viên thi đua trong sinh viên và giữa các khoa, bộ môn. Kết quả mô hình học tủ, thi tủ, giới hạn chương trình thi, ra đề tủ, đến phương pháp học tủ xuất hiện phổ biến, nhiều sinh viên tốt nghiệp với điểm cao nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu thực tế, gây khó khăn cho việc tuyển dụng và tốn kém chi phí để đào tạo.

Một số biện pháp nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá kết quả học tập cho sinh viên trường Đại học.

Nhìn chung có 5 cấp độ “đánh giá” quá trình dạy và học:

– Nhớ (Knowledge): là khả năng ghi nhớ và nhận diện thông tin.

– Hiểu (Comprehension): là khả năng hiểu, giải thích hoặc suy diễn (dự đoán được kết quả và ảnh hưởng).

– Vận dụng (Application): là khả năng sử dụng thông tin và kiến thức từ một sự việc này sang sự việc khác.

– Phân tích (Analysis) và tổng hợp (Synthesis): là khả năng nhận biết, phát hiện và phân biệt các bộ phận cấu thành của thông tin hay tình huống và khả năng khái quát, hợp nhất.

– Đánh giá (Evaluation): là khả năng phán xét giá trị hoặc sử dụng thông tin theo các tiêu chí thích hợp.

Hiện nay phương pháp đánh giá truyền thống vẫn có những ưu điểm của nó (có thể đánh giá hiệu quả của quá trình nhận thức của sinh viên, và cũng có thể tái nhận hay tái hiện một vấn đề gì đó trong cuộc sống thực. Thí dụ, mục tiêu của bài học chỉ là nắm vững kiến thức nào đó, thì một vài câu hỏi nhiều lựa chọn hoặc câu trả lời ngắn có thể đánh giá được mức độ đạt mục tiêu này) do đó cần tiếp tục duy trì. Trong mô hình đánh giá truyền thống, sinh viên ít có cơ hội để trình diễn những gì họ học được bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, đề thi được thiết kế tốt cho phép xác định vị trí của từng sinh viên so với những sinh viên khác trong cùng một lĩnh vực.Trong quá trình thực hiện tôi thấy cần chú ý các biện pháp sau: (Về vấn đề này không có gì mới, chỉ có điều là phải xác định thái độ kiên quyết thực hiện và có cơ chế tổ chức để thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả)

– Áp dụng nhiều hình thức thi kiểm tra một cách linh hoạt phù hợp, như: thi viết, thi vấn đáp, thi trắc nghiệm… Mỗi hình thức có những ưu nhược điểm riêng.Tuỳ vào đặc trưng môn học, khối lượng kiến thức, đặc trưng nghề nghiệp tương lai của sinh viên, mà chúng ta có sự lựa chọn, phối hợp vận dụng linh hoạt các hình thức phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao và công bằng.

– Nội dung thi phải đảm bảo toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn, tránh tình trạng tái hiện đơn thuần lý thuyết và thiếu tính vận dụng sáng tạo, nhằm hướng đến mục đích vừa kiểm tra được trên diện rộng những kiến thức cơ bản mà sinh viên cần nắm, vừa tạo điều kiện cho người học được rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ và được bộc lộ các khả năng tư duy phong phú của mình.

– Tuỳ từng môn học, có thể áp dụng kết cấu đánh giá: dành bao nhiêu % cho đánh giá giữa kì, dành bao nhiêu % cho đánh giá kết thúc môn học… cho phù hợp nhằm đảm bảo tính chính xác, tính toàn diện và tính động viên thi đua.

– Tránh tình trạng chạy theo thành tích mà “vượt rào” các quy chế, nội quy thi và kiểm tra, làm ảnh hưởng đến sản phẩm đào tạo, ảnh hưởng đến thương hiệu mà trường đang cố gắng tạo dựng.

– Theo Tôi hệ thống điểm số đánh giá khác nhau (không chỉ xảy ra ở cấp trường, cấp khoa, bộ môn, mà cả giữa các giáo viên trong từng bộ môn) là do chúng ta chưa xây dựng được “Chuẩn” (Mặc dù đã có chuẩn đầu ra KAS)

Nhắc lại điểm số tự thân nó cao hay thấp không phải là một vấn đề, mà vấn đề ở chổ chất lượng của hệ thống xác định nó

chính là lời tuyên bố về cái sinh viên cần biết và có thể làm được. Tuy nhiên, so với mục đích, chuẩn có phạm vi hẹp hơn, dễ thay đổi hơn trong cách đánh giá

Sứ mạng (Chuẩn đầu ra) là tuyên bố rộng và chung nhất của một trường đại học về những gì sinh viên của họ cần biết và có thể làm được khi ra trường. Sứ mạng được công bố cho toàn thể xã hội biết về tôn chỉ, mục đích giáo dục của nhà trường đó.

hẹp hơn sứ mạng song vẫn đủ rộng cho một bài học hay cấp học, xác định những kỳ vọng chung đối với sinh viên, học sinh ở cấp học đó. Sứ mạng và mục đích thường chỉ cung cấp những kỳ vọng mang tính định hướng, không đo lường đánh giá và quan sát được.

đuợc chia nhỏ hơn thành các chuẩn. Nếu mục đích là những kỳ vọng chung cho một cấp học thì chuẩn có xu hướng cụ thể hoá cho một lớp học ứng với một đơn vị nội dung (1-2 chương) và một đơn vị thời gian (2-3 tuần).

“Chuẩn” phải có tính bao quát cao trên nhiều mặt, phản ánh chính xác năng lực của sinh viên, phù hợp với các chuẩn mực khoa học theo từng học phần, thống nhất giữa các trường ở trong nước. Trên cơ sở đó tuỳ theo yêu cầu của mỗi giai đoạn và đặc thù riêng có, mỗi trường có thể được gia giảm thêm một biên độ hợp lý.

Như trong phần đặt vấn đề đã nói việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập – một khâu trọng yếu chỉ được tiến hành thông qua những hình thức truyền thống như các câu hỏi trắc nghiệm khách quan hoặc trắc nghiệm tự luận. Những bài kiểm tra – đánh giá kiểu này chỉ đòi hỏi sinh viên miêu tả lại những sự kiện riêng rẽ, hiếm khi yêu cầu sinh viên vận dụng những kiến thức đã học vào một tình huống thực trong cuộc sống.

Đánh giá thực là gì: Đánh giá thực là một hình thức đánh giá trong đó người học được yêu cầu thực hiện những nhiệm vụ thực sự diễn ra trong cuộc sống, đòi hỏi phải vận dụng một cách có ý nghĩa những kiến thức, kĩ năng thiết yếu

Đặc trưng của đánh giá thực là:

Yêu cầu sinh viên phải kiến tạo 1 sản phẩm chứ không phải chọn hay viết ra 1 câu trả lời đúng.

Đo lường cả quá trình và cả sản phẩm của quá trình đó.

Trình bày 1 vấn đề thực – trong thế giới thực cho phép sinh viên bộc lộ khả năng vận dụng kiến thức vào tình huống thực tế.

Cho phép sinh viên bộc lộ quá trình học tập và tư duy của họ thông qua việc thực hiện bài thi.

Ưu việt của đánh giá thực:

– Đánh giá thực yêu cầu sinh viên thể hiện sự hiểu biết thông qua việc hoàn thành 1 nhiệm vụ

– Đánh giá thực yêu cầu sinh viên trình diễn năng lực của họ trong 1 công việc cụ thể.

– Đánh giá thực thường yêu cầu sinh viên phải phân tích, tổng hợp một cách có phê phán những kiến thức họ học được trong bối cảnh thực và trong quá trình đó họ sáng tạo ra ý tưởng mới.

Đánh giá truyền thống và đánh giá thực không loại trừ nhau, mà ngược lại, bổ sung cho nhau nhằm đánh giá một cách toàn diện và chính xác nhất việc đạt mục tiêu của chương trình khoá học, môn học hay bài học. Mục tiêu của chương trình khoá học, môn học hay bài học có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau (nhận thức, tình cảm, kĩ năng, năng lực v.v.) và cũng không phải mục tiêu nào cũng yêu cầu sinh viên phải trình diễn năng lực vận dụng kiến thức hay kĩ năng.

Trong nhà trường, thường chúng ta chỉ quan tâm đến lượng kiến thức mà sinh viên thu nhận được chứ ít khi đánh giá được họ sẽ sử dụng những kiến thức đó trong cuộc sống ra sao. Do vậy một bài thi chỉ có ý nghĩa khi nó yêu cầu sinh viên thực hiện một nhiệm vụ thực.

Đánh giá truyền thống dùng để đánh giá sự tiếp nhận kiến thức, kỹ năng của sinh viên và thường được xây dựng từ những câu hỏi nhiều lựa chọn và một số câu tự luận kiến tạo. Ngược lại, đánh giá thực bao gồm những nhiệm vụ như trình diễn, sản phẩm và cả những câu hỏi kiến tạo đòi hỏi sinh viên có sự vận dụng trực tiếp kiến thức, kỹ năng vào đời sống thực.

Đánh giá thực không loại trừ đánh giá truyền thống mà chỉ là sự bổ sung hoàn hảo giúp người dạy cũng như người học gắn kết những kiến thức, kỹ năng được học trong trường với cuộc sống thực, giúp người học có ý thức hơn với những nhiệm vụ mà họ sẽ phải thực hiện khi tốt nghiệp. Quá trình dạy học trong trường cũng nhờ đó mà trở nên sống động hơn, giảng viên sẽ tìm tòi, sáng tạo hơn để tìm ra các bài tập hay, hỗ trợ sinh viên thực hiện các nhiệm vụ đó. Sinh viên sẽ khát khao hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức, rèn luyện kỹ năng để làm một việc có ý nghĩa hơn ngay từ khi còn trên ghế nhà trường.

Để thực hiện được kiểu đánh giá thực trong phạm vi toàn trường, người lãnh đạo phải thể hiện quyết tâm chính trị của mình, hỗ trợ giảng viên, sinh viên thay đổi cách dạy, cách học, loại bỏ cách kiểm tra đánh giá theo những mục tiêu hạn hẹp, lạc hậu. Đổi mới kiểm tra đánh giá phải bắt đầu từ việc xác lập những mục tiêu học tập gắn chặt với đời sống thực, rồi từ đó phát triển đội ngũ, đổi mới chương trình, tài liệu học tập. Đây là công việc khó, phải tiến hành trong thời gian dài, tốn nhiều công sức, nhưng đã đến lúc phải bắt đầu!

Đối với đánh giá thực thì khái niệm chuẩn phù hợp hơn cả, bởi lẽ cũng như mục tiêu, chuẩn là những phát biểu có thể quan sát được, đánh giá được, là điều kiện thiết yếu để xây dựng nhiệm vụ thực. Hơn nữa, chuẩn có phạm vi bao quát một đơn vị nội dung lớn hơn bài học và có thời gian dài hơn, phù hợp hơn với việc thiết kế một bài đánh giá thực. Vì vậy cần phải xây dựng chuẩn

Nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung là một vấn đề bức xúc. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta phải tiến hành một cách vội vàng, mà phải coi đó là phương châm giáo dục, là chiến lược giáo dục cần kiên trì thực hiên lâu dài đồng bộ. Đặc biệt, nếu được các cấp lãnh đạo quan tâm đầu tư thích đáng, được cán bộ giáo viên nhận thức sâu sắc và hưởng ứng hợp tác thì chắc chắn sẽ thành công./.

Tài liệu tham khảo

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Nguyễn Đức Chính (chủ biên), Đo lường và đánh giá trong Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI – Chiến lược phát triển, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Tập Của Học Sinh Thcs

CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THCS I Mở đầu :

Mục tiêu của giáo dục THCS là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục ở Tiểu học; có học vấn phổ thông trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động

Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như : “Hai không”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục . Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THCS còn khá nhiều yếu kém . Yêu cầu đặt ra cho chúng ta là phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật một cách khách quan .Từ đó bình tỉnh đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế để từng bước nâng cao chất lượng . Vấn đề này cần phải có thời gian, công sức của mọi người trong toàn xã hội.

Phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong bất kỳ trường THCS nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dạy học còn yếu kém và một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS hiện nay .

II/ Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém : 1/ Đối với học sinh:

Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập.

Mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới .Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để học tập lớp đang học ( ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học ( hội chứng sợ học).

Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của mình. Khả năng học tập của HS rất khác nhau, cùng một độ tuổi và 1 lớp nhưng trình độ các em có thể chênh nhau khá lớn . Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai đặc biệt là môn ngoại ngữ .Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết .

Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, la cà quán xá .

Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ), học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu .

Học sinh yếu không chịu đi học phụ đạo .

2/ Phụ huynh :

Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất lượng học tập cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác với nhà trường là chưa chúng tôi đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô. Việc phụ huynh vùng biển đi làm ăn trên biển lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là rất hạn chế .Một số gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh . Người lớn chưa làm gương về chuyện học .

3/ Giáo viên

Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng có trường hợp chỉ thành công trong đối tượng là học sinh khá trở lên, còn đối với học sinh yếu kém thì chưa hiệu quả, hoặc ngược lại. Trong quá trình dạy học còn mắc phải :

Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm .

Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của ĐDDH.- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù hợp.

Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế.

Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.

Một số giáo viên không làm tròn trách niệm trong việc kiểm tra đánh giá học sinh, cho học sinh lên lớp khi các em chưa đủ chuẩn hậu quả các em phải gánh chịu khi học lên lớp trên .

Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học tập của HS, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.Tinh thần trách nhiệm một số đồng chí chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích vẫn còn, không đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.

Có đồng chí thì quá khắt khe làm các em lo sợ khi học giờ của mình, thậm chí còn làm các em thui chột tinh thần học tập .Một số giáo viên giảng dạy thiếu nhiệt tình do xã hội và các em xem nhẹ bộ môn mình đang dạy .

Một số GV còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, chưa nhiệt tình giảng dạy, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học, chưa nắm chắc chuẩn kiến thức cần đánh giá nên nhiều lúc yêu cầu quá cao so với chuẩn, chưa đầu tư cho việc ra đề kiểm tra , chỉ dạy tốt những giờ thao gỉang .

Việc dạy cho học sinh tự học và sáng tạo hình như ít thực hiện, chỉ lo dạy hết nội dung đã qui định, lo cháy giáo án. Một số đồng chí còn lệ thuộc vào sách tham khảo, coi đây là “sách gối đầu giường” . Khi giảng bài trên lớp còn phụ thuộc quá nhiều vào SGK, giáo án , ít khi xuống gần học sinh, giọng nói một số giáo viên còn hạn chế .

4/ Đối với chương trình và sách giáo khoa:

Chương trình học quá ôm đồm nhiều thứ và nặng nề, thiếu thực hành, cung cấp kiến thức sự kiện là chính, một số nội dung chưa phù hợp với lứa tuôi học sinh, nhiều học sinh không theo kịp chương trình vì nặng kiến thức và nhiều môn , nội dung nhiều trong một tiết học nên giáo viên khó thực hiện đổi mới PP dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của HS vì sợ cháy giáo án .

5/ Đối với nhà trường :

Còn thiếu thốn quá nhiều về cơ sở vật chất và các trang thiết bị dạy học .Số học sinh trong một lớp còn quá nhiều nên làm cho giáo viên khó khăn trong việc quan tâm đầy đủ đến các đôí tượng HS và các em dễ quay cóp trong thi cử .

Chưa thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh (ngân hàng đề, bốc thăm đề kiểm tra, quản lý đề , duyệt đề ….).

Kế hoạch phụ đạo học sinh yếu còn chậm .

6/ Đối với Phòng vá Sở :

Lịch kiểm tra cuối HK chưa phù hợp. Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh chưa được cụ thể . Cần xem xét lại mức độ khó của đề kiểm tra học kỳ .

7/ Đối với địa phương và các lực lượng xã hội :

Chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để tham gia giáo dục học sinh ở địa phương .

Quản lý các quán Internet chưa tốt .

Nhiều biểu hiện tiêu cực trong xã hội, nhiều thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, sống thiếu lành mạnh vẫn chưa được xử lý đúng mức làm tác động xấu đến quá trình học tập và rèn luyện của các em . Nhiều quán xá còn lợi dụng học sinh để kinh doanh .

III/ Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học : 1/ Đối với Nhà nước:

Cần có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất giáo dục đảm bảo theo tiêu chuẩn qui định của Quốc gia cho tất cả các trường học để có điều kiện tổ chức tốt các hoạt động giáo dục theo mục tiêu GD&ĐT qui định, trang bị đủ các trang thiết bị để thực hiện chương trình giáo dục (có nơi dạy dỗ và học tập đường hoàn sẽ tổ chức dạy học có nền nếp và chất lượng hơn).

2/ Đối với các cấp quản lý giáo dục :

Cần xác định lại triết lý Giáo dục của ViệtNam.

Có kế họach nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên và nhân viên để đáp ứng yêu cầu của từng vị trí công tác một cách tốt nhất (ai không đảm bảo yêu cầu thì cho đi học lại, chuyển làm công tác khác hoặc cho nghỉ theo chế độ qui định, đừng để người yếu kém trong ngành GD)

Tập trung trí tuệ và nguồn lực để xây dựng một chương trình giáo dục mềm dẽo và phù hợp; biên soạn sách giáo khoa chuẩn mực và phù hợp với trình độ học sinh ViệtNam. Đừng để học sinh phải học quá sức mình !

Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn các cơ sở giáo dục một cách nghiêm túc .Bồi dưỡng nghiệp vụ cho CBQL nhà trường (Tổ trưởng , HT, PHT) và có kế hoạch đánh giá đội ngũ quản lý các trường học mộtt cách nghiêm túc và thưòng xuyên .

3/ Đối giáo viên :

Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu .

Đối tượng học sinh phải học phụ đạo là những học sinh có điểm kiểm tra không đạt trung bình và những học sinh tuy có đạt trung bình nhưng do chính giáo viên bộ môn lập danh sách đề nghị cho phụ đạo vì không chắc với kết quả ấy. Vì vậy giáo viên cần lưu ý một số biện pháp sau :

Lập danh sách học sinh yếu báo cáo cho Tổ trưởng theo mẫu :

Phân loại học sinh: học sinh mất căn bản hoàn toàn từ lớp dưới và học sinh có khả năng học được nhưng lười học, ít được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên mê chơi ít dành thời gian cho học tập để thuận lợi trong quá trình phụ đạo.

Phân tích nguyên nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.

Đề xuất với Tổ Trưởng, nhà trường về cách khắc phụ để tất cả cùng tập trung giải quyết có hiệu quả tốt nhất.

Giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường, ở nhà (đề xuất với Tổ trưởng, nhà trường, phụ huynh…) .Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.

Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế hoạch dạy học cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ học sinh đó.

Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu. Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh yếu có tiến bộ.

Trong quá trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp… Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm bài học, nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho học sinh, nắm chắc các đối tượng trong từng lớp đẻ có biện pháp giảng dạy phù hợp, tránh tình trạng dạy học theo kiểu cào bằng (em nào cũng như em đó), đặc biệt chú ý giúp đỡ các em học tập còn yếu kém để các em tiến bộ, sẵn sàng tham gia phụ đạo học sinh yếu theo phân công.Phải thự hiện tốt việc đổi mới phương pháp và ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng cường giáo dục động cơ thái độ học tập bộ môn, thầy phải giỏi, dạy hay, đánh giá chất lượng học sinh phải đúng chuẩn kiến thức bộ môn, đề kiểm tra phải chính xác và khoa học .Cống hiến hết sức mình cho công việc mình phụ trách .Xây dựng tốt mối quan hệ thân thiện tích cực trong thầy trò để dạy và học tốt hơn .

Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và giáo viên trong tổ , từ đó giáo viên nào còn vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung.

4/Đối với Tổ trưởng

Tập hợp danh sách học sinh yếu báo cáo nhà trường.

Họp tổ, nhóm chuyên môn để phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục học sinh yếu.

Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu. Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu. Giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường .

Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn với nhà trường Tổ trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu .

5/Đối với lãnh đạo nhà trường :

Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn nghiệp .

Tổ chức thực hiện tốt phong trào ” xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, và các phong trào khác .

Lập kế hoạch và phân công dạy phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu mỗi năm học phù hợp với tình hình cơ sở vật chất và con người của nhà trường .

Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng . Do đó lãnh đạo nhà trường phải thuyết phục cho được những thầy cô có kinh nghiệm, có tâm huyết theo dạy những đối tượng này. Có thể nói phải vừa dạy vừa dỗ các em đi từ những cái cơ bản nhất của bộ môn.

Thực tế có nhiều thầy rất giỏi nhưng khi dạy những đối tượng học sinh này thì không hiệu quả. Ngược lại có những thầy không phải siêu sao gì nhưng kỹ lưỡng, tỉ mỉ và kiên trì với học sinh thì mới hiệu quả hơn. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học sinh yếu kém vừa trên cơ sở tự nguyện vừa trên cơ sở dựa vào tâm huyết, sự tận tụy, chu đáo, quan tâm của từng giáo viên và tổ trưởng bộ môn cũng không đứng ngoài việc này.

Phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và ban đại diện cha mẹ học sinh, đặc biệt là những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết được sự lo lắng, quan tâm và trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ. Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học.

Có những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ như: có chế độ điểm thưởng cho học sinh tiến bộ, tìm nguồn bồi dưỡng cho giáo viên phụ đạo. Đồng thời cần quan tâm theo dõi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của giáo viên và học sinh về phòng học, photo bài học, bài tập…

Nếu gặp trường hợp học sinh yếu không chịu học, ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm cần phải tiếp xúc với phụ huynh học sinh để giải thích, thuyết phục. Học sinh học phụ đạo được miễn phí hoàn toàn .

Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo khối lớp báo cáo UBND xã, Ban đại diện phụ huynh, Phòng GD. Tổ chức hội thảo để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu.

Mời phụ huynh có học sinh yếu, Ban đại diện phụ huynh, đại diện UBND xã, các thôn trưởng, giáo viên có học sinh yếu, Tổ trưởng để bàn biện pháp khắc phục học sinh yếu, đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của nhà trường mà toàn xã hội.

Thường xuyên kiểm tra việc giáo viên phụ đạo ở trường, ở nhà. Thường xuyên họp với BĐDphụ huynh, UBND xã, thôn trưởng, giáo viên, phụ huynh có học sinh yếu để đánh giá kết quả đạt được, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.

Định kỳ báo cáo cho Phòng GD về tiến độ chất lượng học sinh yếu

6/ Đôí với học sinh :

Cần xác định việc học là học để có kiến thức cho mình, để làm người, để hoà nhập với cộng đồng, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức của nhân loại thành kiến thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp; học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân .

Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng. Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.

Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức .

Thực hiện tốt đôi bạn cùng tiến .

7/ Đối với phụ huynh học sinh

Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho HS. Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. Nhắc nhở con đi học phụ đạo. Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.

Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập.

Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.8/Đối với Ban đại diện phụ huynh Ban đại diện phụ huynh mời phụ huynh có con em học yếu họp bàn về cách khắc phục. Ban đại diện phụ huynh có biện pháp hỗ trợ về vật chất cho giáo viên, học sinh (nếu có). Ban đại diện phụ huynh thường xuyên trao đổi với phụ huynh có con em học yếu, với giáo viên, với nhà trường. Đặc biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh cho con đi học chuyên cần.

8/Đối với Đảng và chính quyền địa phương :

Cần quan tâm đúng mức đến sự nghiệp GD&ĐT của địa phương , chú ý đến diện tích sân trường, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường các trang thiết bị, xây dựng tốt môi trường GD….

Huy động mọi nguồn lực của xã hội để chăm lo cho giáo dục . Cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh .

Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó thôn, UBND xã có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ huynh này.

Cần có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn. IV/ Kết luận :

Học sinh yếu là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản. Một phần là do các em không thích học, không biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so với trình độ chung của lớp…. Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết, không nóng vội, có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, có kế hoạch riêng cho mỗi học sinh.

Phụ đạo cho học sinh yếu kém trong nhà trường là việc làm hết sức tế nhị và đòi hỏi có nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy và cố gắng của thầy và trò.

Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu.

Có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu. Nếu có được những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh thì kết quả mới khả quan được.

Làm thế nào để Nâng cao chất lượng giáo dục?” là một câu hỏi đặt ra và suy nghĩ rất nhiều của những người thầy Tận Tâm với nghề giáo trong thời điểm hiện nay khi chúng ta đã làm nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của nhà trường, của bộ môn.

Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của từng năm ở từng khối lớp mà nhà trường có kế hoạch và biện pháp thích hợp để nâng cao được trình độ cho học sinh lỡ mất căn bản trong học tập – giúp các em có cơ hội hội nhập cùng với bạn bè. Kế hoạch phải được lập ngay từ đầu năm và phải tổ chức thực hiện thật chu đáo . Để thành công trong công tác phụ đạo học sinh yếu nhà trường phải biết huy động mọi nguồn lực của xã hội để cùng làm cho hiệu quả .

Phải xác định : Mỗi thầy cô giáo phải có trách nhiệm giúp đỡ học sinh yếu kém để các em này cải thiện tình hình học tập của mình một cách tốt nhất (Dạy học là dạy cho người chưa biết để họ được biết).

Làm gì thì làm kết quả cuối năm trường mình, môn học của mình phải đạt tỉ lệ cao và có chất lượng thật sự . Không thể để chất lượng yếu kém nhiều . Nếu để học sinh yếu kém nhiều là ta có lỗi với Đảng, Nhà nước và nhân dân .

Nguyễn Hạnh -HT THCS Trần Hưng Đạo

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Ý Thức Tự Giác Trong Học Tập Cho Học Sinh

Công cuộc đổi mới đồng bộ và toàn diện giáo dục nói chung và ở bậc Tiểu học nói riêng, để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, tiếp cận trình độ giáo dục của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, vấn đề đặt ra là từng bước đổi mới phương pháp dạy và học sao cho hiệu quả cao. Và một trong những tư tưởng đổi mới Giáo dục- Đào tạo hiện nay là giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật Giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo; trong Luật Giáo dục 2005 đã xác định: ” Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…”.

Đã nhiều năm, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ luôn luôn song song vói các công việc trong công tác cũng như cuộc sống của người giáo viên- đảng viên. Cũng chính vì điều này, bản thân tôi đã có thêm những kinh nghiệm để giáo dục đạo đức cho học sinh, nhất là đối với học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy. Đối với học sinh phổ thông nói chung và học sinh tiểu học nói riêng thì vấn đề giáo dục đạo đức tốt cho học sinh là công việc đặc biệt quan trọng được đặt ra, bởi đây là bậc học nền móng của các cấp học trên. Hơn nữa, ở cấp học nào thì giáo dục đạo đức cũng là việc làm thường xuyên và quan trọng không thể thiếu. Vì ” Trong giáo dục, không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài, như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp gì được ai”. ( Hồ Chí Minh)

Vì những lẽ đó, hơn nữa bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy lớp 5 tại một trường trên địa bàn còn rất khó khăn về điều kiện kinh tế- xã hội và nhận thức về hành vi đạo đức chuẩn mực của các em ở đây còn nhiều hạn chế nên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.

I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

Nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 5, trường Tiểu học …… ( vùng có điều kiện kinh tế- xã hội còn rất khó khăn).

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.

– Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 5, trường Tiểu học ……….. nói riêng và lớp 5 vùng khó khăn nói chung trong năm học ………

– Giáo dục đạo đức cho học sinh qua các họat động học tập trong các môn học; thông qua giáo dục kĩ năng sống, giáo dục môi trường biển đảo, An toàn giao thông,…và các hoạt động ngoài giờ lên lớp để giáo dục đạo đức cho học sinh tốt hơn.

I.5. Phương pháp nghiên cứu.

– Phương pháp nghiên cứu lý luận: Trên cơ sở những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Đánh giá xếp loại, khen thưởng và kỷ luật học sinh.

– Phương pháp quan sát: Tự đánh giá, nhìn nhận lại thực trạng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường Tiểu học …. trong những năm học vừa qua. Đưa ra một số biện pháp về thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho học sinh của trường nói chung và lớp 5 vùng khó khăn nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

– Phương pháp nêu gương: Nêu những gương người tốt, việc tốt điển hình ở trường, ở địa phương và nơi khác; giáo viên sống và làm việc gương mẫu để nêu gương cho học sinh.

– Phương pháp đàm thoại.

– Phương pháp thống kê.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

Việc đổi mới toàn diện giáo dục tiểu học đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong thời kì hội nhập. Và cũng đã từ lâu, Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác Hồ. Nghị quyết hội nghị Trung ương 4, khóa V ( 1983) đã yêu cầu: Đề cao việc học tập đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với giáo dục, nâng cao ý chí chiến đấu và đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước trong tất cả mọi ngành.

Trước hết, chúng ta cần hiểu về khái niệm đạo đức: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và người và con người với tự nhiên. Và để giáo dục đạo đức cho học sinh ở lứa tuổi này thật tốt thì mỗi người giáo viên phải luôn bám sát và tích cực chủ động thực hiện tốt theo các chỉ thị, kế hoạch, công văn, hướng dẫn…, chỉ đạo của các cấp thì mới có thể kết hợp vận dụng vào việc dạy học và giáo dục đạo đức cho học sinh một cách có hiệu quả. Như Chỉ thị số 40/ CT- BGD- ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về phát động phong trào thi đua và Kế hoạch số 307/ KH- BGD- ĐT ngày 22/ 7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kế hoạch triển khai ” Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2011- 2015.

Chỉ thị số 2516/ CT/ BGD & ĐT ngày 18/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo về cuộc vận động ” Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” lồng ghép với cuộc vận động ” Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và ” Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.

Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.

Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản của học sinh được hình thành ở tiểu học và được sử dụng suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông; đặt cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện con người. Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định, vì thế làm tốt giáo dục tiểu học là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

Trường Tiểu học …… nằm trên địa bàn …., là một thôn có điều kiện kinh tế và địa lí cũng như về mọi mặt nhìn chung tương đối thuận lợi hơn các thôn khác trong xã. Bên cạnh đó, được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và Nhà nước cũng như các cấp chính quyền ở địa phương, Ban giám hiệu trẻ- nhiệt tình- năng động cùng với đội ngũ giáo viên phần lớn là giáo viên trẻ, có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình và tâm huyết với nghề. Học sinh ở đây tương đối ngoan và còn nhỏ nên còn dễ uốn nắn, giáo dục.

Mặc dù được sự quan tâm của các cấp nhưng cơ sở vât chất của nhà trường vẫn còn chưa được đầy đủ. Ví dụ: Phòng học chưa đủ 1 lớp/ phòng, nhiều phòng đã xây dựng từ rất lâu, chất lượng không còn được đảm bảo tốt cho việc dạy và học. Phòng truyền thống, phòng hội đồng của nhà trường chưa có nên những buổi sinh hoạt tập thể về chuyên môn của giáo viên hoặc học sinh trong tuần còn gặp nhiều khó khăn.

Học sinh của trường gồm nhiều dân tộc khác nhau ( Tày, Nùng, Chứt, Thái, Kinh); khối 5 với tổng số 74 học sinh, trong đó học sinh dân tộc 33 em- chiếm 44,6 % số học sinh trong khối, riêng lớp 5B do tôi chủ nhiệm với tổng số 18 học sinh, trong đó nữ 11em, dân tộc 03 em và 06 em thuộc con gia đình hộ nghèo. Chính vì điều này mà việc giáo dục cho các em về kiến thức cũng như đạo đức còn khó đồng đều về chất lượng và thời gian tiếp thu của học sinh. Hơn nữa, hầu hết các em là con em thuộc gia đình có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hộ nghèo,…nên việc đề ra các khoản thu quỹ tự nguyện từ phụ huynh học sinh để phục vụ thêm cơ sở vật chất cho nhà trường là rất chậm và khó khăn.

Các em đi học là hầu hết phải tự đi bộ hoặc đạp xe đạp tới trường ( một số em nhà ở xa trường, một số khác thì nhà lại ở cách trường vài con suối, ngọn đồi,…) chứ không hoàn toàn được đón đưa bằng các phương tiện của cha mẹ như các em ở những nơi có điều kiện kinh tế khá giả. Hơn nữa, sự quan tâm đến việc học cũng như vấn đề giáo dục kĩ năng sống, giáo dục đạo đức cho các em là rất hạn chế vì hầu hết 100% phụ huynh học sinh có nghề làm nông nên điều kiện về thời gian, vật chất cũng như hiểu biết xã hội, tâm lí lứa tuổi,…để giáo dục và trang bị cho con em mình còn chưa cao.

Về đời sống văn hóa nơi đây mặc dù có chút chuyển biến hơn xưa nhưng cũng còn rất lạc hậu và thiếu thốn so với mặt bằng chung của xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Chính vì lẽ đó mà vô tình các em đã không được giáo dục đạo đức một cách đúng chuẩn mực và đến nơi đến chốn, nhất là với lứa tuổi học sinh lớp 5. Lứa tuổi này rất nhạy cảm và rất cần nhiều sự quan tâm, tâm lí của cha mẹ và những người xung quanh cũng như nhà trường để giúp các em hình thành tốt nhân cách của bản thân và giúp các em tự giác tích cực trong mọi hoạt động mà không cần đòn roi.

Một khó khăn nữa là một số học sinh rất thích ” thể hiện mình” với bạn bè, thầy cô,…nên có những hành vi đạo đức chưa đúng mực. Một số ít học sinh quá tuổi cùng lớp lại có cách thể hiện mình là người lớn, muốn các bạn đều phải nghe lời minh trong mọi việc, mọi ý kiến đưa ra.

Một số học sinh lại quá nhút nhát, chưa mạnh dạn trong việc giao tiếp với các bạn cũng như với mọi người xung quanh. Trong quá trình giao tiếp với mọi người, các em thường có cách xưng hô chưa thân thiện và lịch sự, nói năng chưa đủ câu và còn hay nói tục chửi thề.

Một số em chưa có ý thức học tập nghiêm túc, học và làm bài theo cách đối phó, chưa chăm chú vào các hoạt động học tập cùng các bạn trong nhóm, trong lớp.

Các em không có điều kiện đi chơi, tham quan, học hỏi giao lưu với những bạn ở nơi có điều kiện tốt về kinh tế- văn hóa- xã hội.

“Vì tương lai con em chúng ta” – đây là điều mà ai trong chúng ta cũng cố gắng phấn đấu trong mọi lĩnh vực, mọi hoàn cảnh để vì thế hệ tương lai của đất nước. Mục tiêu ở đây đặt ra là làm thế nào để giáo dục đạo đức cho các em học sinh lớp 5 vùng khó khăn nơi đây một cách có hiệu quả nhất bởi các em đã thiệt thòi hơn các bạn ở nơi khác rất nhiều. Nhưng giáo dục đạo đức phải mang tính thẩm mĩ giáo dục, phải có sự hiểu biết tâm lí lứa tuổi và giáo dục đúng cách, đúng thời điểm thì mới đạt hiệu quả. Giáo dục đạt đến sự công bằng và văn minh.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.

* Giải pháp: Qua nghiên cứu, tìm hiểu thì thấy một số em do ảnh hưởng của lối sống tự do của những người xung quanh, do cách giáo dục quá dễ dàng và lỏng lẻo của gia đình mà có đạo đức chưa tốt; một số học sinh khác lại chịu ảnh hưởng từ cách giáo dục quá nghiêm khắc của gia đình, thường xuyên dùng đòn roi khi dạy bảo con nên cũng dẫn đến các em có những hành vi chưa ngoan; một số khác thì lại do hoàn cảnh gia đình éo le nên dẫn đến các em có những hành vi hơi khó hiểu và một số người cho đó là những em chưa ngoan. Số còn lại không rơi vào những hoàn cảnh trên thì lại là những học sinh thích thể hiện bản thân với các bạn, với mọi người mà có những hành vi chưa đúng. Nói chung là có rất nhiều lí do dẫn đến hành vi đạo đức của học sinh chưa được như mong muốn của cha mẹ, của người lớn. Vì thế mà vai trò của người giáo viên hết sức quan trọng để đưa các em đến những hành vi đạo đức tốt và đúng chuẩn mực. Ngoài gia đình thì giáo viên là người có nhiều điều kiện nhất để trang bị cho các em những kỹ năng sống, phẩm chất đạo đức tốt đẹp để làm hành trang cho các em bước tiếp lên cấp học trên.

* Biện pháp: Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu về đề tài tôi có đề xuất một số biện pháp sau:

+ Biện pháp 1: Tìm hiểu tâm lý học sinh.

Giáo dục đạo đức phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh, giáo viên phải có sự hiểu biết về tâm lý giáo dục, tìm hiểu kỹ tâm lý, nhu cầu của đối tượng học sinh mà mình cần giáo dục. Như vậy, bằng những vốn kiến thức đã được học ở trường sư phạm về tâm lý học cộng với kinh nghiệm giảng dạy đạo đức cho học sinh tiểu học những năm qua để vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh một cách có hiệu quả nhất. Khi học sinh thấy cô giáo tâm lý và là chỗ cho các em có thể bày tỏ tâm sự của mình thì đó chính là một lợi thế để giáo viên hiểu về học sinh nhiều hơn và sẽ có cách trao đổi, giáo dục đạo đức cho các em thuận lợi rất nhiều.

+ Biện pháp 2: Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh trong lớp.

Giáo dục đạo đức phải phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình của từng học sinh bởi các em có hoàn cảnh gia đình không hoàn toàn giống nhau. Có em thì đầy đủ kinh tế, gia đình hạnh phúc; có em thì có cha mẹ nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình hết sức khó khăn, thiếu thốn; có em lại có hoàn cảnh gia đình éo le không cha mẹ (do hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ); có em lại mang căn bệnh hiểm nghèo, có những em lại là học sinh dân tộc thiểu số và có vốn tiếng Việt rất hạn chế. Nếu giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, hết lòng vì học sinh và hiểu rõ hoàn cảnh của từng học sinh mà mình phụ trách thì việc giáo dục đạo đức cho các em không phải là vấn đề phải than phiền.

+ Biện pháp 3: Trao đổi với đồng nghiệp.

Để làm tốt việc giáo dục đạo đức cho học sinh thì việc trao đồi với đồng nghiệp về kinh nghiệm giáo dục học sinh, về tình hình của lớp mà giáo viên năm trước chủ nhiệm và giảng dạy ở lớp 4. Mặt khác, trao đổi với tổng phụ trách Đội, giáo viên bộ môn, … để hiểu hơn về học sinh và từ đó có cách giáo dục phù hợp và hiệu quả hơn.

+ Biện pháp 4: Sắp xếp chỗ ngồi trong lớp cho phù hợp.

Với những học sinh chưa ngoan, những học sinh hay có những hành vi đạo đức chưa tốt thì cần xếp cho các em có chỗ ngồi ở gần bàn giáo viên, ngồi ở những vị trí bàn mà giáo viên dễ quan sát và giúp đỡ nhất. Không xếp cho các em thuộc đối tượng này ngồi cùng một bàn hoặc ngồi gần sát nhau. Nhưng chúng ta cũng không để các em bị cách ly hoặc cô lập với các bạn khác. Nếu như vậy vô tình giáo viên đã làm cho các em đó có những hành vi tệ hơn nữa.

+ Biện pháp 5: Xây dựng đội ngũ cán sự lớp giỏi.

Bồi dưỡng, xây dựng được một đội ngũ cán sự giỏi thì sẽ giúp cho giáo viên đỡ vất vả rất nhiều trong công tác quản lý học sinh. Bởi các em đó sẽ giúp giáo viên kèm cặp, hướng dẫn, trao đổi và giúp đỡ các bạn trong lớp để xây dựng nề nếp lớp tốt hơn, vì lẽ “học thầy không tày học bạn”. Các bạn cán sự lớp giỏi, ngoan, mẫu mực thì sẽ làm tấm gương để các bạn khác noi theo.

+ Biện pháp 6: Xây dựng mô hình đôi bạn cùng tiến.

Không chỉ trong học tập mà trong vấn đề đạo đức thì học sinh cũng có thể giúp đỡ, theo dõi, hỗ trợ, kèm cặp nhau để bạn của mình phát triển theo hướng tích cực hơn, tốt hơn. Ví dụ: hai bạn ngồi cùng nhau, hai bạn cùng chơi với nhau thì sẽ phát hiện ra những điểm tốt và chưa tốt của nhau, giáo viên phân công cho bạn ngoan hơn giúp đỡ bạn còn lại và cho thi đua trong lớp theo từng tuần, từng tháng để phát hiện cặp nào, tổ nào có nhiều điểm cộng và ít điểm trừ về nề nếp nhất. Như thế các em sẽ thi đua một cách tích cực để không vi phạm nội quy của lớp, của trường và cũng như tác phong khác khi ra khỏi trường trở về nhà.

+ Biện pháp 7: Phối hợp kịp thời với phụ huynh học sinh.

Có nhiều cách để kết hợp với phụ huynh học sinh như thông qua sổ liên lạc để chuyển thông tin trao đổi về cho phụ huynh, gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi, trao đổi qua điện thoại, họp phụ huynh học sinh theo định kỳ hoặc tổ chức những buổi tiếp thu, trao đổi ý kiến với phụ huynh học sinh về phương pháp, cách thức giáo dục đạo đức cho học sinh.

+ Biện pháp 8: Chủ động lồng ghép giáo dục đạo đức cho học sinh vào các môn học.

Lồng ghép trong các môn học bằng những kiến thức về kỹ năng sống, hoạt động ngoài giờ lên lớp; các hoạt động vui chơi có nội dung tích cực để qua đó giáo dục hành vi đạo đức chuẩn mực cho học sinh dễ tiếp thu và vận dụng.

+ Biện pháp 9: Tích cực áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.

Sau khi áp dụng các biện pháp, giải pháp mà bản thân cho là phù hợp với học sinh của mình thì tôi thấy các em đã thật sự rất ngoan. Các em đã có ý thức tự giác cao và nhiệt tình hơn trong các phong trào của lớp, của trường.

Hầu hết các em trong lớp biết tự giác lễ phép chào hỏi khi gặp người lớn.

100% số học sinh trong lớp không còn hiện tượng, chửi thề.

100% số học sinh trong lớp đi học chuyên cần, nếu có đau ốm không thể đi học thì đã gửi giấy xin phép hoặc nhờ người nhà gọi điện thoại xin phép cô giáo.

Tập thể lớp luôn đoàn kết và sát cánh nhau trong mọi hoạt động; biết yêu thương, đùm bọc nhau lúc khó khăn, hoạn nạn và hỏi thăm, chúc tụng nhau những ngày lễ tết, dịp vui nào đó.

Mỗi buổi sáng đến trường các em đều háo hức, vui tươi.

Phụ huynh học sinh cũng rất phấn khởi tin tưởng giáo viên, hầu hết phụ huynh trong lớp đã có sự kết hợp kịp thời với giáo viên chủ nhiệm để tìm hiểu, uốn nắn và giáo dục đạo đức đúng chuẩn mực cho các em. Cụ thể, cuối học kì I ( năm học ….) vừa qua về chất lượng hai mặt giáo dục của lớp đạt như sau:

Ngoài ra,về hoạt động của trường và Liên đội, lớp cũng đạt được nhiều kết quả đáng biểu dương nhờ vào sự nhận thức tốt từ vấn đề giáo dục đạo đức cho các em. Măc dù gia đình các em rất khó khăn và bản thân các em cũng phải cố gắng lắm mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nhưng đây cũng chính là thành công khởi đầu đáng mừng vì tính tự giác và biểu hiện vâng lời cô giáo của học sinh trong lớp.

Bên cạnh đó, với sự tích cực rèn ” nết người” nên lớp 5B đã có 1 học sinh dân tộc từ chữ viết chưa đẹp ở các năm học trước, đến năm học này đã phấn đấu học theo tiêu chí giáo viên đưa ra ” Nét chữ, nết người” và đã đạt giải Nhì vở sạch- chữ đẹp cấp trường, tham gia cấp huyện đạt giải Ba ( chữ viết đẹp trong đợt Giao lưu Tiếng Việt vừa qua). Với ý thức tự giác rèn luyện thân thể nên một em nữ đã đạt giải Ba trong hội thi Hội khỏe Phù Đổng cấp huyện vừa qua.

Hơn thế nữa, từ đầu năm học đến nay, các em luôn phấn đấu rèn giữ nề nếp thật tốt để luôn giữ xếp loại thi đua tuần đứng thứ nhất, thứ hai mỗi tuần.

III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.

Qua điều tra, phân tích và cũng đã vận dụng một số phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh vào thực tế giảng dạy thì tôi thấy có nhiều cách, nhiều phương pháp có thể vận dụng hoặc kết hợp thông qua các môn học khác, tiết học khác cũng có thể giáo dục đạo đức cho học sinh chứ không phải chỉ giáo dục đạo đức ở tiết Đạo đức. Và càng đối với những em học sinh ở vùng khó khăn như trừng chúng ta và một số trường nằm trên địa bàn khó khăn về kinh tế- văn hóa- xã hội thì trách nhiệm của nhà trường, giáo viên và các cấp lại đặc biệt chú ý hơn. Bởi sau này các em lớn lên, ra ngoài xã hội thì các em không còn phải bỡ ngỡ với thế giới xung quanh, để các em có thể tự tin về bản thân mình vì nhờ đã được trang bị đầy đủ kiến thức cũng như các kĩ năng sống cơ bản và các hành vi đạo đức đúng mực ngay từ bây giờ. Để đạt được điều này, người giáo viên trong quá trình dạy học phải quyết tâm với nghề, yêu nghề mến trẻ, luôn trau dồi trong nghề nghiệp, học hỏi, cập nhật thông tin, bổ sung nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Từ đó tìm ra phương pháp dạy học mới phù hợp với từng đối tượng học sinh của mình để cùng nâng cao chất lượng dạy- học- đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của gia đình, nhà trường và xã hội, sao cho con em chúng ta- thế hệ tương lai của đất nước đều là những người được phát triển toàn diện và cống hiến, góp phần đưa đất nước Việt Nam được ” sánh vai với các cường quốc” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi gắm và mong đợi ở các thế hệ tương lai. Làm được điều đó sẽ là góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh toàn trường nói riêng và góp phần vào thành tích của toàn ngành Giáo dục nói chung.

Các cấp chính quyền thì cố gắng tạo điều kiện để nhà trường có đầy đủ hơn về cơ sở vật chất để giúp cho việc dạy và học đạt chất lượng mong muốn.

Mỗi thầy, cô giáo cần hoàn chỉnh hơn nữa về tác phong, phong cách,cử chỉ, lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức lối sống để làm gương cho các em noi theo.

Qua đây, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của các đồng chí, đồng nghiệp để có thêm những phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 5 vùng khó khăn nói riêng và toàn thể học sinh nói chung để đạt hiệu quả cao hơn nữa.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Bạn đang xem bài viết Bài Tham Luận Một Số Biện Pháp Nâng Cao Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!