Xem Nhiều 6/2023 #️ Bảo Vệ Thành Công Luận Án Tiến Sĩ Chính Sách Công “Thực Hiện Chính Sách Pháp Luật Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Ở Việt Nam Hiện Nay” # Top 13 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Bảo Vệ Thành Công Luận Án Tiến Sĩ Chính Sách Công “Thực Hiện Chính Sách Pháp Luật Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Ở Việt Nam Hiện Nay” # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Bảo Vệ Thành Công Luận Án Tiến Sĩ Chính Sách Công “Thực Hiện Chính Sách Pháp Luật Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Ở Việt Nam Hiện Nay” mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

NCS. Lý Thị Ngọc chụp ảnh lưu niệm cùng Hội đồng tại buổi Lễ

Theo đó, Luận án đã khái quát được bức tranh toàn cảnh về những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới về chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia như: khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam; vấn đề, mục tiêu, giải pháp, công cụ chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam; thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia… Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam, cũng như chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của vấn đề. Luận án phân tích được những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam; trình bày phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

Đánh giá kết quả đạt được của Luận án, Hội đồng nhất trí cho rằng: về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay. Về mặt thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, trong hoạt động thực tiễn cũng như trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia.

Luận án được các thành viên Hội đồng nhất trí thông qua./.

Phạm Vĩnh Hà

(Nguồn Học viện KHXH)

 

Thực Hiện Pháp Luật Về Bảo Vệ Môi Trường Ở Việt Nam

Vấn đề bảo vệ môi trường (BVMT) đang được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm và đặt ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội của mình. Bởi lẽ, môi trường là một điều kiện cốt tử bảo đảm cho sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia. Ngày nay sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới không phải là khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo ra năng suất và sản lượng bằng mọi giá mà phải bảo đảm sự cân đối với việc duy trì, bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau. Trong xu thế ấy, Việt Nam cũng đang tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, cùng với việc nỗ lực tham gia các công ước quốc tế, cũng như tích cực nội luật hoá các cam kết quốc tế về BVMT nhằm BVMT hiệu quả hơn trước yêu cầu của phát triển bền vững.

1. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường

Pháp luật nước ta quy định, có hai hình thức xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực BVMT là cảnh cáo và phạt tiền, trong đó mức quy định phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm là 70 triệu đồng. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả: buộc thực hiện có thời hạn các biện pháp BVMT do cơ quan quản lý nhà nước về BVMT yêu cầu; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường do hành vi vi phạm gây ra; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm gây ô nhiễm môi trường; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây ô nhiễm môi trường.

Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Tội phạm môi trường đã làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Một số lĩnh vực điển hình thường xuất hiện những vi phạm pháp luật về BVMT là:

– Lĩnh vực sản xuất, nhất là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất: Lợi dụng chủ trương mở cửa, chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước và chính quyền các địa phương cùng với những sơ hở về pháp luật trong lĩnh vực BVMT của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh, nhưng không chú trọng việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải, coi đây là giải pháp giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Cả nước có gần 200 khu công nghiệp, trong đó có đến 70% chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải (rắn và lỏng), nhất là các nhà máy, cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp đang trong giai đoạn hoàn thiện và các cơ sở nằm trên lưu vực sông. Đáng lo ngại là các doanh nghiệp tuy có hệ thống xử lý chất thải, nhưng luôn cố tình vi phạm, thủ đoạn tinh vi, lén lút để xả thải ra môi trường như xây dựng hệ thống bí mật, phức tạp, được ngụy trang bằng hệ thống đạt tiêu chuẩn nên rất khó phát hiện, như vụ Công ty Vedan Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty giấy Việt Trì…

– Lĩnh vực sản xuất làng nghề, nông nghiệp:Hiện cả nước có khoảng trên 2.790 làng nghề thuộc 7 nhóm ngành nghề[1] như: chế biến lương thực, thực phẩm, dược liệu; ươm tơ, dệt vải, đồ da; thủ công mỹ nghệ, thêu ren; sản xuất vật liệu xây dựng và các ngành nghề khác. Các làng nghề này cơ bản đã mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các làng nghề cũng đặt môi trường trong tình trạng báo động. Chất thải từ hoạt động sản xuất của các làng nghề nhìn chung không được xử lý mà xả trực tiếp ra mương, rãnh, ao, ruộng lúa. Nhiên liệu sử dụng phổ biến là than, củi làm sản sinh các loại khí nhà kính như SO 2, CO 2, CO,, H 2S, NH 3, CH 4. Các chất thải độc hại khó phân hủy tại các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề thuộc da, dệt nhuộm và tái chế kim loại, đã làm cho các chỉ tiêu BOD, COD, SS đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe của nhân dân. Nguyên nhân là do hầu hết làng nghề đều có quy mô sản xuất nhỏ lẻ ở hộ gia đình, trình độ sản xuất thủ công theo kinh nghiệm, công nghệ sản xuất thô sơ, nên thường không quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải. Trong khi đó, công tác quản lý môi trường ở nông thôn nói chung còn ít được quan tâm, chưa có giải pháp đồng bộ của chính quyền các cấp về quy hoạch và cải thiện môi trường làng nghề.

Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, những vi phạm phổ biến là trong quá trình nuôi trồng sử dụng tùy tiện, tràn lan các loại thuốc kháng sinh, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật đã gây nguy cơ tồn dư thuốc kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm. Việc xử lý chuồng trại, chất thải trong chăn nuôi chưa được chú ý, thường thải ra cống rãnh tự nhiên.

– Lĩnh vực nhập khẩu: Có tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, kể cả thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi rác thải công nghiệp, với thủ đoạn rất tinh vi như “tạm nhập, tái xuất”, khi bị phát hiện thì khai là “gửi nhầm hàng” và xin được chuyển trả lại… Một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế kiểm hóa bằng xác suất (10% khối lượng hàng nhập), thậm chí móc nối với nhân viên hải quan, kiểm định, lấy mẫu trong các lô hàng đảm bảo yêu cầu chất lượng đã được chuẩn bị sẵn, từ đó dễ dàng được thông quan nhập rác vào nước ta. Nhiều doanh nghiệp biết có vi phạm nhưng vẫn cố tình đưa phế liệu rác về cảng, xin nộp phạt để thông quan, coi như “đã lỡ”. Đây là một trong những hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận cao vì doanh nghiệp “ăn hai mang”, vừa được tiền do các chủ nguồn chất thải chi trả để thu gom, vận chuyển, vừa được các cơ sở sản xuất trong nước mua lại để tái chế sử dụng. Hơn nữa, đây lại là một nguồn nguyên liệu sản xuất dồi dào, giá rẻ nên các doanh nghiệp, từ công ty vận tải, nhập khẩu cho đến các cơ sở tái chế bất chấp quy định của pháp luật, liên tục phạm pháp với quy mô và số lượng lớn. Trong 5 năm gần đây, đã có khoảng 4.000 container chứa ắc quy chì đã qua sử dụng, nhập vào Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế, vi phạm nghiêm trọng Công ước Basel, Luật BVMT và Quyết định số 155/1999/QĐ-TT ngày 16/4/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý chất thải nguy hại.

Hoạt động nhập, phá dỡ tàu cũ ở Hải Phòng và một số tỉnh cũng đặt môi trường khu vực vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Các chất thải độc hại như: dầu mỡ, bụi xỉ chứa kim loại nặng, nước thải khó có thể khắc phục, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng. Điển hình như Công ty Huyndai Vinashin (Khánh Hòa) thải ra hàng trăm nghìn tấn hại xỉ (hạt NIX) và các loại chất thải độc hại khác. Kết quả phân tích mẫu đất tại khu vực có hạt xỉ đồng và nước thải cho thấy hàm lượng Asen vượt 23,5 lần giới hạn cho phép, hàm lượng chì gấp 21 lần so với mẫu đối chứng, thành phần kim loại nặng khác như đồng, cadimi cũng vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần.

– Lĩnh vực khai thác lâm sản, khoáng sản, nước ngầm, bảo vệ đa dạng sinh học: Thời gian qua, nạn chặt phá rừng ở nước ta vẫn đang diễn ra rất bức xúc, đặc biệt là tình trạng chặt phá các khu rừng nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng phòng hộ. Điển hình là vụ phá rừng Quốc gia Konkakinh, vụ chặt hạ 5.000 ha rừng phòng hộ huyện Phú Ninh (Quảng Nam). Ngay tại Hà Nội cũng diễn ra tình trạng xâm hại hệ thống cây xanh với việc chặt hạ hàng chục cây gỗ trắc, gỗ sưa gây bức xúc trong dư luận. Năm 2007, cả nước phát hiện 5.922 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là lợi dụng chính sách chuyển đổi “rừng nghèo”, xây dựng thủy điện, phát quang biên giới để khai thác rừng bừa bãi. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng tuy giảm nhưng tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, nạn phá rừng kèm theo tình trạng chống người thi hành công vụ gây phức tạp tình hình an ninh trật tự ở nhiều địa phương như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Bình… Tại các khu vực khai thác khoáng sản, do sử dụng hóa chất như thủy ngân, kim loại nặng, nên nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu bị ô nhiễm. Khai thác cát, sỏi bừa bãi cũng làm cho nhiều dòng sông bị xói lở, biến đổi dòng chảy. Các hiện tượng trên làm ảnh hưởng hệ sinh thái, gây phong hóa, rửa trôi, biến rừng thành đất trống đồi núi trọc, tiềm ẩn nguy cơ lũ quét cao. Nguồn nước ngầm bị khai thác bừa bãi, tràn lan. Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở không thuộc diện phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ) đều tự ý khoan giếng để khai thác và sử dụng nước mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền.

Tình trạng săn bắn, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, quý hiếm diễn ra công khai ở nhiều nơi. Qua một số vụ việc do lực lượng cảnh sát môi trường điều tra, khám phá cho thấy vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này tiếp diễn phức tạp, nhất là buôn bán các loài động vật quý hiếm có lợi nhuận cao như hổ, tê tê. Các đường dây mua bán, vận chuyển động vật hoang dã qua biên giới thủ đoạn tinh vi, che giấu bằng nhiều hình thức, nhất là lợi dụng chính sách “tạm nhập, tái xuất”, như vụ Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Talu nhập trên 23 tấn tê tê che phủ bằng cá đông lạnh qua cảng Hải Phòng, vụ nhập khẩu 2800 kg rùa, rắn qua cửa khẩu Cầu Treo… Việc nuôi nhốt động vật hoang dã (có hoặc không có giấy phép) diễn ra tràn lan, công khai, khó kiểm soát.

Hoạt động khai thác có tính chất hủy hoại nguồn lợi thủy hải sản có biểu hiện phức tạp. Đã phát hiện tình trạng lợi dụng hoạt động đánh bắt thủy hải sản để khai thác trái phép các loài quý hiếm như rùa biển, san hô đen… Ở khu vực nông thôn hiện vẫn còn tình trạng sử dụng kích điện, chất nổ để đánh bắt cá trên các sông ngòi, kênh rạch nhỏ, dẫn đến tình trạng hủy diệt hàng loạt nhiều loài thủy sinh và gây ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó, môi trường sinh thái biển cũng đang có nguy cơ bị ô nhiễm do các hoạt động nuôi trồng thủy sản trên cát hoặc khu vực cửa sông, vận tải hàng hải, thăm dò dầu khí, thậm chí đã xảy ra việc một số doanh nghiệp hoạt động nạo vét luồng lạch, các tàu thuyền đưa hàng trăm tấn chất thải đổ ra biển (như vụ tàu Merci của Hoa Kỳ đổ 500 tấn chất thải ra biển Đà Nẵng).

– Lĩnh vực quản lý và xử lý chất thải:Tại các bệnh viện, lượng chất thải hàng ngày ra môi trường rất lớn, nhưng đến nay mới có khoảng trên 20% bệnh viện, cơ sở y tế có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn, hầu hết rác thải chưa được quản lý và xử lý chặt chẽ theo quy chế xử lý chất thải y tế. Nhiều loại rác thải y tế nguy hại như bệnh phẩm, vỏ chai, dây chuyền dịch, bơm kim tiêm đã qua sử dụng để lẫn lộn với rác thải thông thường. Nhân viên bệnh viện không nắm rõ quy trình thu gom, xử lý, thậm chí một số bệnh viện còn cho phép thu gom để bán cho cơ sở tái chế để “tận thu”. Điển hình, năm 2007 lực lượng Cảnh sát môi trường đã kiểm tra và phát hiện một số bệnh viện lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (như Bệnh viện K, Bạch Mai, Chợ Rẫy, Chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh) đã vi phạm các quy định về quản lý, xử lý chất thải y tế, trong đó đã phát hiện hàng nghìn kg chất thải y tế nguy hại được các bệnh viện trên bán cho tư nhân bên ngoài, gồm dây chuyền dịch, bơm kim tiêm…(trong đó có nhiều loại còn dính máu và dịch truyền).

– Đối với rác thải công nghiệp, rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm giảm chi, đã xử lý rác thải tại chỗ bằng phương pháp đốt hoặc chôn lấp thông thường, hoặc thuê xe vận chuyển rác đi nơi khác đổ trái phép. Tập đoàn Điện lực còn lỏng lẻo trong việc quản lý dầu thải chứa chất đặc biệt nguy hại (PCB), dẫn đến tình trạng thu mua, tái chế trái phép chất thải nguy hại diễn ra tại nhiều địa phương. Nhiều tổ chức, cá nhân hành nghề thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải không thực hiện đúng quy định như sử dụng phương tiện không chuyên dụng, không phân loại chất thải sau khi thu gom, chôn lẫn rác thải nguy hại với rác thải thông thường… như vụ Công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Đức Thảo (thành phố Hồ Chí Minh), Công ty trách nhiệm hữu hạn Song Tinh (Vĩnh Phúc), Công ty trách nhiệm hữu hạn Sông Xanh (Bà Rịa Vũng Tàu) chôn lấp hơn 4.600m 3 chất thải và cát nhiễm dầu. Hoạt động thu mua, vận chuyển và tái chế trái phép ắc quy chì vẫn diễn ra ở nhiều nơi, có vụ diễn ra với quy mô lớn như vụ doanh nghiệp tư nhân Hưng Nhung (Hưng Yên) vận chuyển trái phép 100 tấn ắc quy chì từ Nam ra Bắc…

– Rác sinh hoạt, phế thải xây dựng không tập kết đúng chỗ, đổ bừa bãi ở hai bên đường. Các bãi rác Phước Hiệp (thành phố Hồ Chí Minh), Như Quỳnh (Hưng Yên), Phù Chẩn (Bắc Ninh)… quá tải gây ô nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí tại các bãi rác tập trung, rác thải sinh hoạt đổ lẫn với rác thải công nghiệp có chứa thành phần nguy hại, không được xử lý đúng quy trình, chủ yếu được chôn lấp hoặc thiêu đốt thông thường (không có lò thiêu chuyên dụng), nước thải rò rỉ từ các bãi rác, ngấm vào đất, nguồn nước ngầm, chảy ra đồng ruộng.

– Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, dịch bệnh: Liên tục phát hiện các vụ việc thực phẩm có chứa chất có hại cho sức khỏe con người như nước tương chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine, kẹo bột đá… Nhiều cơ sở sản xuất hoặc không chấp hành quy trình xử lý chế biến thực phẩm, nước uống, hoặc cố tình thêm các loại hóa chất và phụ gia bảo quản, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, như vụ sản xuất kẹo có chứa bột đá tại Hoài Đức (Hà Nội), vụ công ty Hanosa (Hà Nội) sản xuất rượu giả, rượu kém chất lượng… Tại các chợ đầu mối có tình trạng dùng hóa chất ngâm tẩm, tẩy rửa thực phẩm kém chất lượng, như vụ tẩy trắng mực quá hạn tại chợ đầu mối Long Biên, bán thịt lợn bệnh tại Đồng Nai… Hoạt động giết mổ gia súc, gia cầm tùy tiện, không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch thú y, các cơ sở giết mổ không đảm bảo vệ sinh theo quy định; gia súc, gia cầm bị bệnh chết không được chôn lấp hợp vệ sinh; thường xuyên có biểu hiện che giấu thông tin về dịch bệnh để tránh bị tịch thu tiêu hủy mà lén lút mang đi tiêu thụ. Phần lớn nhà hàng, quán ăn sử dụng nguyên liệu thực phẩm không rõ nguồn gốc hoặc không có kiểm định về chất lượng, thậm chí tận dụng các loại thực phẩm hỏng, quá hạn sử dụng; thêm các chất phụ gia, hóa chất nhằm kích thích khẩu vị; không có biện pháp bảo quản, che đậy hợp vệ sinh; người chế biến không có đầy đủ kiến thức về y khoa; chất thải không được xử lý đúng quy định. Những vi phạm trên là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lây lan dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm hàng loạt tại nhiều địa phương.

Tình trạng nhập lậu vào tiêu thụ trong nội địa các loại gia súc, gia cầm chưa được kiểm dịch từ Trung Quốc, Campuchia… diễn ra hết sức nhức nhối. Tính riêng trong năm 2008, Công an tỉnh Lạng Sơn bắt giữ 154 vụ buôn bán, vận chuyển trên 111 tấn gia cầm, 54.840 quả trứng. Ngoài ra, mỗi năm còn có hàng trăm tấn nội tạng động vật, chân gà… ngâm tẩm mầu, hóa chất được đưa trái phép vào nước ta, bán tại các chợ đầu mối và cung cấp chủ yếu cho các quán ăn, nhà hàng, là nguồn gây bệnh rất nguy hiểm cho một bộ phận lớn người tiêu dùng.

– Tình trạng trốn hoặc gian lận trong việc nộp phí BVMT diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh và các bệnh viện. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ quan quản lý nhà nước chưa tuyên truyền rộng rãi, chưa có cơ chế thu, nộp phí BVMT rõ ràng, mặt khác đối với những trường hợp vi phạm chưa có chế tài xử phạt đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa (vụ công ty Vedan truy thu trên 127 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Việt Trì truy thu trên 1 tỷ đồng…).

Việc BVMT không những được quy định trong Luật BVMT, mà còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hoạt động của con người khi tác động vào thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sống.

Nhìn chung, cho đến nay hệ thống pháp luật về môi trường ở nước ta đã phát triển cả nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các thành tố tạo nên môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn của môi trường cũng đã được ban hành làm cơ sở cho việc kiểm soát, đánh giá tác động môi trường. Các văn bản pháp luật được ban hành bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về BVMT, nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân đối với vấn đề môi trường. Với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc và Chương trình môi trường Liên hợp quốc, Việt Nam đã rất quan tâm đến việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BVMT. Tính đến nay, nước ta đã tham gia 14 công ước, hiệp định quốc tế về môi trường; đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương với các nước trong và ngoài khu vực về BVMT.

Tuy nhiên, nhìn vào tổng thể hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các quy định của pháp luật về BVMT còn rất nhiều bất cập và hạn chế trước yêu cầu của phát triển bền vững:

Một là, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy định về BVMT. Yếu tố môi trường chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá trình xây dựng và ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm BVMT như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác BVMT không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân môi trường”.

Hai là, các quy định của pháp luật về BVMT tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, Các chế tài chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức. Các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chặt phá rừng… vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.

Ba là, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Cụ thể như, Điều 27 Luật Tài nguyên nước quy định cấm tổ chức, cá nhân gây nhiễm mặn nguồn nước. Nếu coi đây là hành vi gây ô nhiễm nguồn nước thì phải được xử phạt hành chính về hành vi gây ô nhiễm nguồn nước nói chung nhưng rất tiếc là Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT lại không quy định về vấn đề này. Vì vậy, mặc dù Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng khó có thể thực hiện trong thực tiễn được vì chưa bị xử lý vi phạm hành chính… Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.

Bốn là, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực BVMT còn quá chung chung, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật BVMT, Bộ luật Dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường.

Trước yêu cầu thực tế và thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” việc thực hiện pháp luật BVMT phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Hai là, xã hội hóa các hoạt động thực hiện pháp luật về BVMT bằng cách tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc tham gia quản lý, tổ chức thực hiện và giám sát công tác BVMT. Chính quyền các cấp cần phối hợp và hỗ trợ về mọi mặt để phát huy tối đa vai trò công tác xã hội, đa dạng hoá các hoạt động BVMT, có cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế thực hiện dịch vụ BVMT. Xây dựng mối quan hệ cộng tác giữa các tổ chức đảng – Nhà nước – Mặt trận, đoàn thể – doanh nghiệp. Nội dung của việc xã hội hóa công tác BVMT là huy động ở mức cao nhất sự tham gia của xã hội vào công tác BVMT; xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân khi tham gia hoạt động BVMT; nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong công tác BVMT; đưa BVMT vào nội dung hoạt động của các khu dân cư và phát huy vai trò của các tổ chức này trong công tác BVMT;

Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Cần tìm cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hoá các cam kết quốc tế về BVMT mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế đó. Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế đó tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta ký kết tham gia. Ưu tiên mở rộng quan hệ quốc tế về BVMT trong phạm vi khu vực dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Chú ý mở rộng mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi;

Bốn là, tăng nguồn chi cho sự nghiệp BVMT. Từ năm 2006, ngân sách cho BVMT đã được bố trí thành một nguồn riêng (chi sự nghiệp môi trường) với quy mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nhằm giải quyết những vấn đề môi trường cấp thiết, cần phải tăng chi ngân sách. Tăng mức chi cho sự nghiệp BVMT cần phải cải thiện được chất lượng môi trường hướng đến một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tăng thụ hưởng cho người dân./

Giải Pháp Xã Hội Hóa Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Ở Việt Nam Hiện Nay

Viện Nhà nước và Pháp luật – Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Từ đó đến nay, chủ trương xã hội hóa công tác BVMT luôn luôn được quán triệt trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua cũng đã khẳng định: “BVMT phải là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân”[1]. Để giải quyết tốt nhiệm vụ này, Đảng cũng cho rằng cần ” Đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT, phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải“[2].

Về mặt xây dựng thể chế, thời gian qua, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Một trong những thành tựu của hệ thống pháp luật về BVMT là việc xây dựng, xác định được hệ thống nguyên tắc cơ bản trong chính sách, pháp luật về BVMT. Những nguyên tắc, chính sách cơ bản xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế – xã hội theo mô hình bền vững (vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế, BVMT và ổn định, công bằng xã hội). Bên cạnh việc quán triệt nguyên tắc BVMT phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; BVMT quốc gia phải gắn với BVMT khu vực và toàn cầu thì hệ thống pháp luật về BVMT ở Việt Nam thời gian qua cũng đã quán triệt nguyên tắc cơ bản là coi BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

Vì vậy, trong hệ thống pháp luật về BVMT ở Việt Nam đều có những quy định trong đó quán triệt nguyên tắc xã hội hóa công tác BVMT nói trên. Từ văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật như Hiến pháp sửa đổi 2013 (Điều 43) quy định nghĩa vụ “bảo vệ môi trường” là một nghĩa vụ pháp lý của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đến rất nhiều các văn bản luật và dưới luật khác cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của toàn xã hội trong việc BVMT. Có thể kể đến là các văn bản luật và dưới luật như: Luật BVMT 2015 và các đạo luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố môi trường (còn gọi là các đạo luật, pháp lệnh về tài nguyên). Cụ thể, đó là các đạo luật, pháp lệnh như: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Luật Đất đai năm 2003; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Dầu khí năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2008); Luật Tài nguyên nước năm 1998; Luật Khoáng sản năm 2010.v.v.

Ngoài ra, quy định về nghĩa vụ BVMT hoặc nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật về BVMT đối với các tổ chức, cá nhân, quy định cụ thể việc xử lý vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường… còn nằm rải rác trong nhiều đạo luật khác. Trong số đó phải kể đến:

– Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Thanh niên năm 2005; Bộ luật Hàng hải năm 2005; Luật Du lịch năm 2005; Luật Quốc phòng năm 2005; Luật Giáo dục năm 2005; Luật Điện lực năm 2005; Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2004; Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2004; Luật Hợp tác xã năm 2003; Luật Xây dựng năm 2003; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Hải quan năm 2001; Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật Phòng cháy, chữa cháy năm 2001; Luật Giao thông đường bộ năm 2001; Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000; Luật Hàng không dân dụng năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 1995)….

– Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1999, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002…

– Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003; Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Pháp lệnh Thuế tài nguyên, Pháp lệnh Phí và lệ phí…

Rà soát lại trong hầu hết các văn bản pháp luật vừa kể trên, có thể thấy các văn bản pháp luật về BVMT đã tạo cơ sở pháp lý, định hướng cho các hoạt động kinh tế – xã hội và bước đầu phát huy tác dụng nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc BVMT. Đặc biệt là đối với vấn đề xã hội hóa BVMT, hầu hết các văn bản pháp luật luôn khẳng định BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động BVMT. Khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ BVMT trong các lĩnh vực thu gom, tái chế, xử lý chất thải; quan trắc, phân tích môi trường, đánh giá tác động môi trường; phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, công nghệ môi trường; tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường; giám định về môi trường đối với máy móc, thiết bị, công nghệ; giám định thiệt hại về môi trường và các dịch vụ khác về BVMT.

Có thể nói, xã hội hóa công tác BVMT sẽ là một công cụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về BVMT. Vì vậy, trong những năm qua, công tác xã hội hóa và phát triển dịch vụ công đã được quy định trong hệ thống chính sách pháp luật về BVMT một cách khá đầy đủ và toàn diện. Nhìn lại công tác BVMT trong thời gian qua, hoạt động xã hội hóa đã có những thành tích đáng ghi nhận. Rõ nét nhất là trong lĩnh vực thu gom, xử lý chất thải rắn. Tại TP Hồ Chí Minh tỷ lệ tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt giữa các thành phần tư nhân và nhà nước là 40% và 60%. Ở Hà Nội, hiện nay ngoài công ty URENCO còn có các đơn vị ngoài quốc doanh tham gia thu gom chất thải rắn như công ty cổ phần Thăng Long, Công ty cổ phần Xanh, hợp tác xã Thành Công. Nhiều địa phương khác cũng đã có các đơn vị tư nhân thực hiện như Công ty thị chính Kiến An và Công ty công trình công cộng Đồ Sơn ở Hải Phòng, Công ty cổ phần công nghiệp Cẩm Phả và công ty TNHH An Lạc Viên ở Quảng Ninh, công ty TNHH Huy Hoàng ở Lạng Sơn… Trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn cũng đã có sự tham gia của khối tư nhân như công ty SERAPHIN, Tâm Sinh Nghĩa, Thủy lực máy…

Trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế, xây dựng các công trình xử lý chất thải… cũng đã có nhiều công ty, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia. Nhiều viện nghiên cứu, trung tâm tư vấn tư nhân, quy tụ những chuyên gia môi trường, đang là lực lượng chính trong việc tư vấn, thực hiện các báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các doanh nghiệp, đánh giá môi trường chiến lược cho các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của nhiều cơ quan quản lý.

Thời gian qua, công tác phổ biến, thúc đẩy BVMT trong các tầng lớp quần chúng nhân dân cũng đã được hình thành và bước đầu thực hiện có hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã ký kết với Bộ TNMT các Nghị quyết liên tịch về thúc đẩy BVMT. Giải thưởng môi trường được công bố hàng năm, các phòng trào BVMT ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Vấn đề xã hội hóa BVMT cũng đang có nhiều bất cập. Cụ thể là chưa xây dựng được các quy định pháp lý để khuyến khích khối tư nhân tham gia sâu rộng hơn nữa vào BVMT, ví dụ như trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô nhiễm, lĩnh vực công nghiệp môi trường; chưa có cơ chế cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tham gia BVMT. Vẫn còn những đối xử chưa thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia BVMT. Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ và kiến thức về BVMT luôn thiếu và yếu đã cản trở hiệu quả hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng. Bên cạnh đó là kinh phí dành cho công tác BVMT chưa tưng xứng với vai trò của ngành trong phát triển kinh tế xã hội. Trong khi, ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, đầu tư cho môi trường trung bình năm chiếm 1% GDP hay ở một số nước phát triển từ khoảng 3 – 4% GDP, thì nguồn tài chính cho sự nghiệp môi trường ở Việt Nam chỉ chiếm 1% tổng chi ngân sách Nhà nước.

Trước những bất cập vừa nêu, cần thúc đẩy xã hội hóa mạnh mẽ hơn nữa để có thể đạt được những kết quả tốt hơn trong công tác BVMT thời gian tới. Để đạt mục đích đó, cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

Thứ nhất, tích cực thực hiện chủ trương kinh tế hóa ngành TN&MT theo Nghị quyết số 27/NQ-BCS của Ban cán sự đảng bộ Bộ TN&MT, theo đó cần rà soát lại và chuyển đổi các cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ những lĩnh vực nhà nước cần thực hiện, những lĩnh vực cần kêu gọi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện.

Thứ hai, xây dựng và thực hiện các mô hình hợp tác công tư, nhà nước và nhân dân cùng làm trong BVMT, đặc biệt là trong việc khắc phục, cải tạo các điểm nóng về môi trường. Việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ và khu vực tư nhân (hợp tác công-tư, PPP) sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy các sáng kiến môi trường bền vững.

Thứ ba, xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về các chính sách ưu đãi về đất đai, về vốn, về thuế, về tín dụng cho các hoạt động BVMT cụ thể. Mức độ hưởng lợi của cộng đồng từ các chính sách môi trường cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự tham gia của cộng đồng. Vì vậy, để đảm bảo cho các quy định về QLNN đối với BVMT được thực thi thì các quy định đó phải cụ thể, gắn bó, sát với thực tế cuộc sống của cộng đồng. Cộng đồng dân cư phải biết rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia các hoạt động BVMT. Xuất phát từ nét đặc thù của tính cộng đồng, cần chú trọng phát huy vai trò chủ động và tích cực của các đoàn thể xã hội như Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân… trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định của địa phương, cũng như các quy định về BVMT của nhà nước.

Thứ năm, thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng dịch vụ môi trường và thành lập các công ty cổ phần mới, các tổng công ty, các tập đoàn tham gia cạnh tranh cung cấp các dịch vụ môi trường.

Nói tóm lại, dù đã có những bước tiến đáng kể trong công tác BVMT nhưng hiệu quả công tác BVMT chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của thực tiễn và xã hội, chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Để đạt được những mục tiêu trong tương lai, cần thực hiện các giải pháp có lộ trình hoàn chỉnh, cũng như đòi hỏi sự đầu tư xứng đáng nguồn lực từ Nhà nước và xã hội nhằm giải quyết những vấn đề môi trường bức xúc, từng bước nâng cao chất lượng sống của người dân và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững./.

[1] Đảng cộng sản Việt nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 43.

………………………………………………………………………………………………….

Nguồn trích dẫn: Kỷ yến Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức, Hà Nội, 29/9/2015

Mua bán piano Nhật

, Dạy Học mat xa, dạy massage body, Mi Katun

Đối Nội Là Gì? Những Chính Sách Đối Nội Hiện Nay Ở Việt Nam

Đối nội là gì?

Đối nội hay chính sách đối nội được hiểu là những quy định của Nhà nước ban hành nhằm mục đích duy trì sự trật tự về kinh tế, xã hội, an ninh trong nước. Những chính sách này sẽ được pháp luật hóa, được thực hiện nhờ sức cưỡng chế của bộ máy Nhà nước, ban hành, áp dụng rộng rãi. Người dân trong cả nước cần phải tuân thủ.

Đối nội là gì?

Nếu có người dân làm trái, vi phạm vào bất kì quy định nào đều sẽ phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Mức độ trừng phạt sẽ tùy vào độ nghiêm trọng mà người dân phạm phải.

► XEM NGAY: Trọn bộ kiến thức ngành nghề giúp bạn dễ dàng chọn lựa công việc phù hợp bản thân

Chức năng của các chính sách đối nội

Có thể đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, không riêng gì Việt Nam, chính sách đối nội đều vô cùng quan trọng và cần thiết. Không chỉ là những đường nối cho sự phát triển đất nước mà còn là nền tảng giữ vững trật tự quốc gia, đảm bảo sự bình yên cho nhân dân.

Một số chức năng mà chính sách đối nội cần thực hiện đối với một quốc gia như:

Bảo vệ chế độ Chủ nghĩa xã hội

Đây được coi là chức năng quan trọng nhất của các chính sách đối nội ở Việt nam. Bảo vệ an ninh, chính trị trật tự xã hội luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Chỉ khi đất nước giữ được sự bình yên từ bên trong mới có thể tiến hành những chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa cho người dân.

Chức năng của đối nội

Một Nhà nước cần phải có đủ sức mạnh để có thể đàn áp những thế lực chống đối, phản động từ bên trong. Ngăn chặn kịp thời những âm mưu phá hoại, chia rẽ nội bộ. Vậy nên, chính sách đối nội ở Việt Nam luôn đề cao chức năng cơ bản này.

Bảo vệ quyền tự do, dân chủ cho nhân dân

Tiếp theo phải nói đến chức năng đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Đây là việc làm thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước kiểu mới đó là một Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đồng thời, khi đã đảm bảo được chức năng này sẽ tạo sức mạnh cho việc thực hiện các chức năng khác.

► XEM NGAY: Các thông tin việc làm mới nhất, chia sẻ kinh nghiệm làm việc của các ngành nghề

Giữ vững trật tự kỉ cương nước nhà

Tổ chức và quản lý kinh tế đất nước

Trong các chính sách đối nội, đây có lẽ là chính sách được quan tâm rất nhiều. Để có thể tổ chức và quản lý tốt kinh tế điều kiện tiên quyết chính là đảm bảo được trật tự xã hội đất nước. Một đất nước có nền hoàn bình, độc lập thì kinh tế mới có cơ hội để đầu tư phát triển.

Quản lý, tổ chức văn hóa, giáo dục, khoa học

Muốn có kinh tế phát triển thì việc quan tâm đến giáo dục chính là điều hết sức quan trọng. Bên cạnh đó là những ngành khoa học, đầu tư các ngành khoa học mũi nhọn sẽ có được nền kinh tế phát triển. Khi con người được sống trong một môi trường có đủ điều kiện phát triển, tiên tiến thì chắc chắn chất lượng, hiệu quả làm việc sẽ được nâng cao.

Đối nội có vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước

Bên cạnh việc đưa ra những chính sách đối nội hiệu quả, thì nước ta cũng rất quan tâm đến chính sách đối ngoại. Muốn đất nước phát triển không chỉ cần đảm bảo được sự phát triển bên trong mà còn cần hợp tác với những nước khác. Việc hợp tác làm ăn sẽ giúp sự tăng trưởng kinh tế nhanh vượt bậc hơn.

► XEM THÊM: Cách tạo CV đẹp nhưng không phải ai cũng biết

Bạn đang xem bài viết Bảo Vệ Thành Công Luận Án Tiến Sĩ Chính Sách Công “Thực Hiện Chính Sách Pháp Luật Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Ở Việt Nam Hiện Nay” trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!