Xem Nhiều 6/2023 #️ Cải Thiện Mạnh Mẽ Môi Trường Đầu Tư, Tạo Niềm Tin Cho Các Doanh Nghiệp Đến Hà Nội # Top 8 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Cải Thiện Mạnh Mẽ Môi Trường Đầu Tư, Tạo Niềm Tin Cho Các Doanh Nghiệp Đến Hà Nội # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cải Thiện Mạnh Mẽ Môi Trường Đầu Tư, Tạo Niềm Tin Cho Các Doanh Nghiệp Đến Hà Nội mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Ý kiến của ông Nguyễn Mạnh Quyền được đưa ra trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Báo Điện tử Chính phủ về những mục tiêu và giải pháp của Hà Nội về thu hút đầu tư trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đã có những tác động đến Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng trong những tháng đầu năm nay, và hiện vẫn còn diễn biến phức tạp trên thế giới.

Thưa ông, việc tổ chức hội nghị sau khi dịch Covid-19 đã được kiểm soát và cơ bản được đẩy lùi tại Việt Nam. Trong khi tình hình dịch bệnh còn diễn biến căng thẳng trên thế giới, năm nay, Hội nghị có điểm gì khác so với các năm trước?

Ông Nguyễn Mạnh Quyền: Thực hiện lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Kết luận số 77-KL/TW của Bộ Chính trị tại ngày 05/6/2020 về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước; Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban chấp hành Thành uỷ, Chỉ thị 31 của Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội; nhằm thu hút mạnh mẽ các nguồn lực, tăng cường kết nối cung cầu hàng hóa giữa các Tỉnh, Thành phố với Thủ đô Hà Nội để khôi phục, phát triển kinh tế sau đại dịch COVID-19 nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế – xã hội năm 2020 và cho các năm tiếp theo;

Thiết thực chào mừng kỷ niệm 1010 năm Thăng Long- Hà Nội, chào mừng Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, tiếp nối thành công của các Hội nghị xúc tiến đầu tư những năm vừa qua, thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị “Hà Nội 2020 – Hợp tác Đầu tư và Phát triển” vào ngày 27/6/2020, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (số 01 Đại lộ Thăng Long, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội).

Tham dự Hội nghị dự kiến có 1.850 đại biểu, bao gồm lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ ngành, cơ quan Trung ương và thành phố Hà Nội; lãnh đạo 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các quận, huyện của Thành phố, Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng Thủ đô; 29 đại sứ, đại diện các cơ quan ngoại giao, 8 tổ chức quốc tế, các chuyên gia kinh tế; cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước… Đặc biệt, Hội nghị chào đón hơn 1.200 nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp tham dự để nhận quyết định chủ trương đầu tư dự án hoặc đề xuất đầu tư dự án mới trên địa bàn Thành phố. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tham dự, chủ trì và chỉ đạo Hội nghị.

Việc tổ chức Hội nghị “Hà Nội 2020 – Hợp tác Đầu tư và Phát triển” sau khi dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát và cơ bản được đẩy lùi sẽ là thông điệp mạnh mẽ của thành phố Hà Nội trong kiên trì thực hiện chỉ đạo của Trung ương về thực hiện nhiệm vụ “kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế- xã hội; khẳng định Hà Nội là điểm đến an toàn, hấp dẫn cho các nhà đầu tư; kết quả của Hội nghị không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của Hà Nội và cả nước trong năm 2020 mà còn cho những năm tiếp theo.

Qua hội nghị, thành phố Hà Nội tiếp tục thể hiện quyết tâm là địa phương tiên phong đi đầu trong hồi phục và phát triển kinh tế sau dịch bệnh trong năm 2020; đây cũng giải pháp căn cơ nhằm tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, vượt qua mọi khó khăn thách thức, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các chỉ tiêu kinh tế- xã hội năm 2020, tăng trưởng GRDP cao hơn 1,3 lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước.

Các nhà lãnh đạo thành phố Hà Nội luôn nhấn mạnh giải pháp ưu tiên cho phát triển Thủ đô là tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh để kêu gọi đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Với vai trò là của mình, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã đạt được những kết quả gì trong việc tham mưu các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI)?

Ông Nguyễn Mạnh Quyền: Sở Kế hoạch và Đầu tư với vai trò là cơ quan đầu mối tham mưu cho UBND Thành phố về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đã tham mưu trình UBND Thành phố hàng năm ban hành các Kế hoạch và Chỉ thị về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI). Được sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, Hội đồng nhân dân Thành phố, Ủy ban nhân dân Thành phố và nhận được sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, môi trường kinh doanh của Hà Nội đã có cải thiện rõ rệt.

Từ cuối năm 2017, Hà Nội đã đạt và hiện nay đang duy trì thực hiện 100% hồ sơ đăng ký kinh doanh qua mạng. Triển khai mô hình “Cơ quan Đăng ký kinh doanh thân thiện”; triển khai tích hợp 4 dịch vụ tiện ích hỗ trợ doanh nghiệp trong đăng ký kinh doanh để giảm thời gian khởi sự kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Thành phố đã ban hành các cơ chế, chính sách để thúc đẩy khởi nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo. Năm 2018, Thành phố đã ban hành Đề án Hỗ trợ khởi nghiệp. Năm 2019, ban hành Đề án chính sách hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo giai đoạn 2019 – 2025. Đã khai trương và vận hành Cổng thông tin Hệ sinh thái khởi nghiệp (startupcity.vn).

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thuế, hiện nay chúng tôi đã triển khai việc cấp mã số doanh nghiệp tự động cho doanh nghiệp thành lập mới không quá 30 phút; kê khai thuế qua mạng đạt 98,11%; tỷ lệ tiền thuế nộp điện tử đạt trên 95%; trao đổi thông tin với doanh nghiệp 100% qua thư điện tử.

Trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, tỷ lệ đơn vị sử dụng lao động thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử đạt 97,3% trên tổng số số đơn vị tham gia BHXH, BHYT bắt buộc.

Thực hiện liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước và Tổng công ty điện lực Thành phố để giảm thời gian tiếp cận điện năng (theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới).

Bên cạnh cải thiện các nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: đất đai, vốn, lao động, Thành phố rất chú trọng đến hoạt động hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV, tăng cường đối thoại chính quyền – doanh nghiệp.

Trong 7 năm liên tiếp từ năm 2012, Chỉ số PCI của Hà Nội duy trì tăng hạng và tăng điểm (trong đó 6 năm liên tiếp – từ 2012 đến 2018, Chỉ số PCI tăng hạng; năm 2019 tăng điểm và giữ nguyên mức xếp hạng). Chỉ số PCI năm 2019 của Hà Nội đạt 68,8 điểm (tăng 3,4 điểm so với năm trước), xếp thứ 9/63 tỉnh, thành phố (không thay đổi xếp hạng so với năm trước), tăng 15 bậc so với năm 2015, tăng 42 bậc so với năm 2012. Năm 2019 là năm thứ 2 thành phố Hà Nội thuộc nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về Chỉ số PCI. Năm 2019 là năm đầu tiên Chỉ số PCI của Hà Nội có tới 9/10 chỉ số thành phần tăng hạng và giữ nguyên mức xếp hạng (trong đó có 8/10 chỉ số thành phần tăng hạng và 01 chỉ số thành phần giữ nguyên mức xếp hạng).

Kết quả chỉ số PCI năm 2019 đã đạt mục tiêu của Thành phố đề ra là: “Đến năm 2020, Chỉ số PCI của Hà Nội thuộc nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước”. Kết quả Chỉ số PCI năm 2019 đã góp phần thực hiện mục tiêu khâu đột phá số 2 của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI là “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ công chức; cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy nâng cao hiệu quả đầu tư và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thủ đô”.

Ông có thể nói rõ hơn về kết quả của chỉ số PCI?

Ông Nguyễn Mạnh Quyền: Có thể nới, kết quả Chỉ số PCI đã ghi nhận sự nỗ lực của Thành phố đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; đồng thời cũng khẳng định sự quyết liệt, sáng tạo của Thành phố trong chỉ đạo điều hành với phương châm “lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm để phục vụ”.

Năm 2020, Hà Nội phấn đấu duy trì Chỉ số PCI trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước. Để đạt được mục tiêu đã đề ra, Thành phố tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Theo đó, chúng tôi tiếp tục duy trì các chỉ số thành phần có truyền thống xếp hạng tốt của Hà Nội là Chỉ số “Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp” và chỉ số “Đào tạo lao động”. Đồng thời, duy trì kết quả của Chỉ số “Gia nhập thị trường” là chỉ số đã có sự cải thiện đột phá trong thời gian vừa qua, hiện đang trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước.

Tiếp tục tập trung cải thiện các chỉ số như thiết chế pháp lý, Tiếp cận đất đai, Chi phí không chính thức, Tính minh bạch là các chỉ số có xếp hạng trung bình và 01 chỉ số có xếp hạng thấp (môi trường cạnh tranh bình đẳng) để tiếp tục nâng cao

Tiếp tục cải cách hành chính sâu rộng theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tăng tính minh bạch để giảm thời gian, giảm chi phí chính thức và không chính thức cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh phục hồi kinh tế do tác động của dịch Covid-19.

Đồng thời, Thành phố chuẩn bị tốt các điều kiện để sẵn sàng đón thời cơ mới, làn sóng chuyển hướng đầu tư ra ngoài Trung Quốc, từ các quốc gia tham gia hiệp định EV-FTA và EV-IPA.

Thành phố tiếp tục triển khai các chính sách về phát triển doanh nghiệp và khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp. Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi, hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin và khai thác, mở rộng thị trường. Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu và thực hiện các chương trình hỗ trợ, phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến tới các doanh nghiệp.

Phát huy tốt hơn vai trò “cầu nối” của các Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề để các chính sách của Thành phố lan tỏa nhanh chóng đến các doanh nghiệp cũng như Thành phố nhanh chóng, kịp thời nắm bắt các khó khăn của doanh nghiệp để có giải quyết, tháo gỡ.

Năm 2020 sẽ tiếp tục đánh dấu sự quyết tâm, quyết liệt của Lãnh đạo thành phố Hà Nội trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển. Ngay từ đầu năm, Thành phố đã đưa ra mục tiêu đấu thành lập mới thêm 30.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đã tác động lớn đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội kéo theo số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm sút, Sở Kế hoạch và Đầu tư cam kết luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, nỗ lực phấn đấu để đạt mục tiêu cao nhất về phát triển doanh nghiệp.

Vậy kết quả thu hút đầu tư nước ngoài tính từ đầu năm đến nay, và mục tiêu thu hút đầu tư đến hết năm 2020 sẽ như thế nào? Ông có dự báo gì cho lĩnh thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm tới, các giải pháp thu hút đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng của Hà Nội trong năm nay và những năm tiếp theo?

Ông Nguyễn Mạnh Quyền: Hà Nội dự kiến thu hút FDI 6 tháng đầu năm 2020, sẽ thu hút được 2.764 triệu USD, trong đó, nhóm đã cấp phép đến ngày 24/6/2020: 1.217 triệu USD. Trong đó: Cấp mới 286 dự án với vốn đầu tư đăng ký 341,3 triệu USD; 79 lượt dự án tăng vốn với vốn đầu tư đăng ký 384 triệu USD; 549 lượt chấp thuận góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam với trị giá 490,85 triệu USD.

Một số dự án lớn đã cấp Giấy phép đầu tư là Dự án Nidec Chaun Choung Việt Nam (NĐT Nhật Bản đầu tư qua Đài Loan) – 174,5 triệu USD; Dự án Hanoi Lotte World Aquarium (Hàn Quốc) – 47 triệu USD; Dự án Công trình văn phòng 29 Liễu Giai (Twin Peaks) tăng vốn – 246 triệu USD; Dự án Trung tâm tài chính thương mại và các công trình phụ trợ (TSQ Việt Nam) tăng vốn – 67,5 triệu USD.

Dự kiến tại Hội nghị “Hà Nội 2020 – Hợp tác Đầu tư và phát triển” trong ngày mai Hà Nội sẽ trao Giấy phép cho 05 dự án, vốn đăng ký 1.547 triệu USD gồm Nhà đầu tư Viking Asia Holdings II Pte. Ltd và Credit Suisse AG mua vốn góp trong Công ty CP Vinhomes trị giá 650 triệu USD; Khu trung tâm KĐT Tây Hồ Tây tăng vốn 774 triệu USD; Khu chung cư Quốc tế Booyoung tăng vốn 35,8 triệu USD; Đầu tư xây dựng các công trình Trường mẫu giáo, Tiểu học và Trung học cơ sở Gateway vốn đăng ký 32,5 triệu USD.

Trong 2 năm 2018 và 2019, Hà Nội liên tiếp dẫn đầu cả nước trong thu hút FDI với vốn đăng ký 7,5 tỷ USD (2018) và 8,669 tỷ USD (2019). Năm nay, Hà Nội dự kiến thu hút FDI từ 5-6,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài.

Đứng trước cơ hội và thách thức nêu trên, Thành phố Hà Nội xác định và đề ra chiến lược, giải pháp cụ thể nhằm thu hút FDI trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 và Chính phủ tại Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27/4/2020, cụ thể là tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh tin tưởng và lựa chọn đầu tư; quyết liệt cải cách hành chính, xây dựng “chính quyền điện tử” theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết số 02/NQ-CP và Nghị quyết số 35/NQ-CP.

Thành phố Hà Nội tiếp tục có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài chọn lọc, tập trung kêu gọi các Tập đoàn, doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật cao để đầu tư trong các lĩnh vực có tính chất lan tỏa phát triển các thành phần kinh tế khác như kết cầu hạ tầng giao thông, logistics; tập trung đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đẩy mạnh phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và các trung tâm xử lý số liệu datacenter; chú trọng đầu tư về môi trường, xử lý rác thải. Bên cạnh đó chú trọng đầu tư khu đô thị vệ tinh, khu đô thị thông minh và các hệ thống hạ tầng xã hội phục vụ nhu cầu giao thương, du lịch (trung tâm thương mại, outlet…).

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Minh Anh (thực hiện)

Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Kinh Doanh

Báo cáo Chỉ số thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng thế giới được công bố vào cuối năm 2016 cho biết: Môi trường kinh doanh của Việt Nam được ghi nhận có sự cải thiện mạnh mẽ nhất trong vòng một thập kỷ qua.

Theo đó, thứ hạng của Việt Nam hiện đã tăng 9 bậc, từ vị trí 91/189 quốc gia lên vị trí thứ 82 của bảng xếp hạng. Những cải thiện về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy thông điệp mạnh mẽ cùng định hướng rõ ràng, đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và Doanh nghiệp.

Đầu tiên phải kể đến việc Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị quyết 35/NQ-CP về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững. Tiếp đó là Nghị quyết 19 về các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với mục tiêu đến năm 2017 Việt Nam đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên một số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh thuộc nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả.

Bên cạnh đó, nhờ sự nỗ lực vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, hàng nghìn thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con bất hợp lý đã được bãi bỏ… tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Năm 2016, lần đầu tiên, số doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam đạt con số kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp. Đây là tín hiệu đáng mừng thể hiện chủ trương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp của Chính phủ đã đi đúng hướng, phấn đấu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh.

Mặc dù đã có sự chuyển biến đáng kể, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, tuy nhiên ở một số cơ quan, cơ sở và địa phương, tình hình chuyển biến còn khá chậm, hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn còn bị cản trở, gây khó khăn, thậm chí là bị sách nhiễu.

Để xảy ra tình trạng như vậy, ngoài những nguyên nhân khách quan như: trình độ năng lực của cán bộ còn yếu kém, tư duy bảo thủ trì trệ trong lề lối làm việc… thì nguyên nhân chính được chỉ tên đó là: lợi ích cá nhân và cục bộ tràn lan, sự thờ ơ vô trách nhiệm cũng như sự vào cuộc thiếu quyết liệt của các cấp, các ngành.

Đúng 13h30, buổi tọa đàm bắt đầu.

Toàn cảnh buổi tọa đàm

Tham gia tọa đàm có ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI; ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế; ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW; Ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh; Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên; Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Phần 1: Thực trạng tình hình cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế, VCCI – Điều phối chính buổi tọa đàm: Đối với VN, ít có giai đoạn nào môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển DN được nhắc nhiều đến như thời gian qua. Người đứng đầu Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã tổ chức nhiều buổi đối thoại với doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp, điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI

Có thể nói một không khí mới đang bao trùm trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các biện pháp nhằm phát triển DN. Xu hướng tìm ra giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thể chế đang được đẩy mạnh. Có những vấn đề gai góc như thay đổi hạn điền, bãi bỏ điều kiện kinh doanh…đã có những thay đổi lớn. Nhiều địa phương cũng đã có những biện pháp mới để thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp nhiều hơn cho địa phương. Vào tháng 4 tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ gặp gỡ doanh nghiệp. Việc tổ chức tọa đàm hôm nay cũng như việc VCCI đang triển khai thu thập nhiều ý kiến của DN để đưa ra những hành động nhằm cải thiện môi trường kinh doanh là những tín hiệu rất tích cực.

– Thưa ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW là đơn vị đầu mối thực hiện Nghị quyết 19, theo ông đâu là điểm tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết này?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW: Thông thường, bất kỳ cuộc cải cách nào đó cũng có 2 câu hỏi cơ bản: Làm gì, làm như thế nào? Khi xác định được phương hướng thì tổ chức thực thi, thực hiện ra sao?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW

Chúng ta không nên bàn nhiều về câu hỏi làm gì, làm như thế nào vì Nghị quyết 19 đã trả lời đầy đủ câu hỏi này. Nghị quyết 19 lần này đã xác định 250 giải pháp, có nghĩa là chúng ta có 250 công việc cụ thể để làm nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Không chỉ tính đến biện pháp ngắn hạn là cải thiện trực tiếp chất lượng, Nghị quyết 19 lần này còn tính đến giải pháp dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Như vậy, về mặt chủ trương, làm gì, chúng ta đã đi đúng hướng và được xác định. Vấn đề chính nằm ở chỗ chúng ta tổ chức thực thi giải pháp, biện pháp đặt ra thế nào?

Qua theo dõi 3 năm thực hiện Nghị quyết 19 và 1 năm thực hiện Nghị quyết 35, tôi cho rằng thách thức lớn nhất của chúng ta là làm thế nào để thực hiện đúng và đủ. Hiện, tôi vẫn chưa nhìn thấy việc thực hiện có chuyển biến. Cho đến năm 2017, chúng ta mới đạt được chuyển biến về nhận thức. Còn lại, kết quả đạt được còn hạn chế, còn khoảng cách rất lớn so với kỳ vọng của doanh nghiệp và cộng đồng xã hội.

Theo quan sát của tôi, trong thời gian sắp tới chúng ta sẽ gặp thách thức lớn, bởi để đạt được mục tiêu thì chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Nếu cứ duy trì cải cách đều thì thì chúng ta không thể có bước tiến, thậm chí còn có bước đi lùi.

– Từ góc nhìn của mình, TS Nguyễn Minh Phong đánh giá như thế nào về việc tạo dựng môi trường kinh doanh? Đã đạt yêu cầu chưa? Nếu lấy thang điểm 10, ông sẽ đánh giá như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế

TS Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế: Đây là câu hỏi rất hay nhưng cũng rất khó. Tôi đồng tình với ý kiến chia sẻ của anh Hiếu. Tôi bổ sung thêm hai câu hỏi: thứ nhất là mục tiêu của cải cách, hỗ trợ DN và Cách thực hiện như thế nào?

Về mục tiêu cải cách, tôi cho rằng giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn cực kỳ quan trọng bởi thời điểm này đã kế thừa những gì của giai đoạn trước đó, DN đổ vỡ hàng loạt, áp lực hội nhập rất lớn và đặt ra yêu cầu phải quyết liệt cải cách với các mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu thứ nhất là giảm thiểu gánh nặng cho DN, trong đó giảm thuế, tài chính; chi phí vốn cho DN (lãi suất, điều kiện tiếp cận, yêu cầu thế chấp); thể chế của DN – một gánh nặng tồn tại dai dẳng đối với DN.

Mục tiêu thứ hai là hội nhập quốc tế.

Do đó, chúng ta phải chủ động thích ứng với việc đưa ra các định hướng, quy định theo thông lệ quốc tế. Đây là cái đích để xây dựng cho phù hợp.

Mục tiêu thứ ba và đồng thời cũng là cách làm đó là chúng ta chuyển từ một Nhà nước – nhà đầu tư trở thành 1 Nhà nước kiến tạo, pháp quyền, hành động, liêm chính hỗ trợ cho DN. Chính phủ trong suốt 4 năm qua từ 2011-2016 đều rất nhất quán. Việc đưa ra các Nghị quyết 19 lặp lại 4 lần, nghị quyết 35, các chỉ thị… tạo điểm nhấn, khác biệt và thể hiện quyết tâm nhất quán.

Về kết quả: Rõ ràng về mặt chấm điểm, các tổ chức trong và ngoài nước đều đánh giá là tốt hơn, tiêu biểu là WB và Diễn đàn kinh tế thế giới. Ở góc độ Luật, những ghi nhận trong pháp lý được rõ hơn. Người đứng đầu Chính phủ và hệ thống quản lý Nhà nước đã tỏ ra quyết tâm chính trị cao. Do vậy, chưa bao giờ tâm lý hứng khởi và niềm tin đầu tư vào Việt Nam được thể hiện rõ như vậy.

Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải thận trọng bởi: Đội ngũ cán bộ thừa hành vẫn như vậy cả về chất lượng, lợi ích nhóm vẫn còn, chưa có nhiều thay đổi trong cải cách tiền lương… , thậm chí các Nghị quyết Chính phủ mới được chép lại vào các chương trình hành động ở địa phương, chứ chưa được cụ thể hoá thành các dự án, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện.

Chất lượng của các văn bản pháp lý chưa phải là cao, hiện tượng chậm trễ, copy paste… vẫn còn tồn tại. Thậm chí, các chỉ số bôi trơn và tham nhũng còn rất nặng, với trên 80% DN buộc phải bôi trơn và Việt Nam hiện đứng thứ 2 về tham nhũng nhất Châu Á chỉ sau Ấn Độ theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch thế giới. Nếu chấm điểm, về pháp lý tôi chấm 7 điểm nhưng về thực tiễn tôi chấm 5 điểm.

– Thưa ông Nguyễn Văn Thời, tại các tỉnh đều có Chương trình hành động về NQ 19 và NQ 35, từ góc nhìn của một doanh nghiệp địa phương đang hoạt động, anh cho biết những cảm nhận, đánh giá về môi trường kinh doanh ở địa phương, các doanh nghiệp của tỉnh Thái Nguyên có ý kiến gì môi trường kinh doanh?

Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên.

Ông Đậu Anh Tuấn: Những câu chuyện ông Thời đưa ra tại địa bàn Thái Nguyên đã chuyển tải những thông điệp rất ý nghĩa. Vừa qua Chính phủ đã đưa ra những quyết sách từ những yêu cầu thực tiễn. Trước đây chính quyền địa phương không quan tâm lắm nhưng từ khi có PCI thì chính quyền đã có những hành động thiết thực nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Hay như Nghị quyết 35 cũng xuất phát từ thực tiễn khi trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng và DN, nhiều DN đã đưa ra nhiều khúc mắc mà DN đang gặp phải…

– Nghị quyết 35 cũng có đề cập đến vấn đề Lãnh đạo tỉnh phải thường xuyên đối thoại với doanh nghiệp trong năm, tôi muốn đặt câu hỏi với ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, vậy trong bối cảnh này, các doanh nghiệp tư nhân có bị mất lợi thế không? Làm thế nào để doanh nghiệp tư nhân có được tiếng nói đối với lãnh đạo tỉnh?

Ông Nguyễn Nhân Phượng, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Ngay sau khi có Nghị quyết, Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp. Hội nghị đã quyết định thành lập tổ công tác giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Lần đầu tiên sau 10 năm hoạt động, Hiệp hội DN tỉnh Bắc Ninh được tỉnh tạo điều kiện đến việc giải quyết khó khăn, kiến nghị. Cụ thể, Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo: Các sở, ban ngành phải trả lời tất cả những kiến nghị, khó khăn vướng mắc của DN từ Hiệp hội bằng văn bản. Đây là điểm rất mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, tránh tình trạng lảng tránh hoặc chỉ trả lời bằng miệng như trước đây.

Bắc Ninh có nhiều DN nước ngoài đầu tư, hoạt động trên địa bàn tỉnh, Hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị với tỉnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm công nghiệp phụ trợ và cung cấp các dịch vụ nhà ở, ăn nghỉ,…phục vụ cho người nước ngoài.

Việc cung cấp các dịch vụ hiện đã thực hiện tốt, các doanh nghiệp đã được tham gia. Tuy nhiên, về công nghiệp phụ trợ hiện còn khó khăn. Bởi riêng việc DN gặp gỡ được người có quyền trong DN nước ngoài đã là rất khó khăn, đa phần chỉ thông qua đại diện người Việt, mà người Việt thường đã có những mối làm ăn của người Việt rồi, khó để DN tỉnh tham gia vào. Do đó, việc gắn kết và quan hệ giữa DN trong địa bàn tỉnh với DN nước ngoài còn khó khăn. Đặc biệt, thực hiện Nghị NQ 35, sau khi thực hiện tổ công tác, tỉnh Bắc Ninh đã thành lập đề án “Bác sĩ doanh nghiệp”. Thậm chí, những khó khăn của doanh nghiệp có thể báo trực tiếp đến chủ tịch tỉnh. Đây là việc làm có tác dụng tốt.

DN trên địa bàn còn gặp khó về thủ tục hành chính. Cụ thể, DN phải thực hiện một “chặng đường dài” của những thủ tục. Ví dụ 1 DN có thủ tục xin đất được chủ tịch tỉnh đồng thuận, mà đây lại là dự án xử lý nước thải và chuyển đổi từ đất công mà cũng mất đến 1 năm dài để thực hiện cấp đất. Trong rất nhiều biện pháp Nhà nước đề ra, khó nhất với DN vẫn là vấn đề đất. Nhà nước nếu đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp giải phóng mặt bằng thì sẽ đơn giản hơn. Nhưng Nhà nước lại “đá bóng” sang chân DN, mà DN tự thỏa thuận với dân là việc vô cùng khó khăn. Vì vậy, tôi mong nhà nước có chính sách giúp đỡ DN, để hiện thực hóa mục tiêu 1 triệu DN của Thủ tướng CP.

Chúng ta muốn phát triển DN mà không có đất thì phát triển vào đâu. Nếu để từng DN xin thuê ở địa phương sẽ thành manh mún sau xử lý môi trường rất khó, thậm chí một số dự án giao DN đền bù nhưng nhiều yếu tố dẫn đến viêc không thể thực hiện dự án.

Chúng tôi rất mong Nhà nước, Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Công thương cùng giúp sức cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn sau khi có đơn thì chậm nhất là 3 tháng cơ quan nhà nước cấp huyện có thể có quyết định cho chúng tôi. Nếu có 1 đơn vị dịch vụ giúp DN làm thủ tục thì tiến trình phát triển DN sẽ nhanh lên. Còn thủ tục hành chính là cả 1 chuỗi nên dẫn đến chậm trễ cho tiến độ triển khai dự án của DN.

Từ thực trạng trên, tôi xin đề xuất các ngân hàng cần có chính sách hỗ trợ cho DN, đối ứng vốn cho DN vay vốn, đầu tư vốn vay khi DN có dự án tốt và khả thi. Cụ thể, khi DN có 30% vốn, các đơn vị tín dụng, ngân hàng nên quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ tạo nguồn vốn cho DN triển khai dự án.

– Ở góc độ của một doanh nghiệp, ông Hoàng Trần Hiếu, Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu có những đánh giá gì về môi trường kinh doanh trong năm qua?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Là một doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm sạch, chúng tôi đánh giá Nghị quyết 35 của Chính Phủ đã mang lại lợi thế cho DN trẻ. Tuy nhiên đi vào đầu tư cho lĩnh vực này, chúng tôi thấy nảy sinh một số vấn đề về nguồn cung và cầu. Cụ thể, nhu cầu thực phẩm sạch cao, nguồn cung cao nhưng lại tồn tại mức mong muốn. Về phía DN, để cung cấp được thực phẩm sạch, chúng tôi phải đầu tư sản xuất, đầu tư kinh doanh. Về phía người tiêu dùng có thể bỏ nhiều tiền để mua thực phẩm sạch nhưng không có căn cứ để xác định thực phẩm đó sạch và bản thân người nông dân cũng không tự tin để cam kết cung cấp dài hạn thực phẩm sạch bởi làm thực phẩm sạch cần phải đầu tư cao.

Để giải quyết vấn đề này, tôi nghĩ cần sự vào cuộc của Chính phủ định hướng, tổ chức giúp DN, người nông dân hay nhà sản xuất sản xuất tập trung, quy mô hơn. Và để làm được điều này, tôi cho rằng, lợi ích, đạo đức và luật pháp và là 3 yếu tố luôn đồng hành và cần đồng bộ với nhau. Hiện nay, thủ tục hành chính đã có thay đổi và đi vào thực tế. Tuy nhiên, nhà nước sẽ quản lý vĩ mô còn việc thực hiện cụ thể cần có các Hiệp hội, tổ chức tiêu dùng.

Ông Nguyễn Văn Thời: Hiện nay, các rào cản đối với DNVVN vẫn đang còn như: Việc áp dụng bộ luật thuế với DNVVN như hiện tại không hợp lý. Hơn nữa, đăng ký kinh doanh đã có đăng ký điện tử rồi nhưng nếu có quy trình, phần mềm thống nhất thì tốt hơn. Một số DN không hiểu rõ về việc đăng ký kinh doanh điện tử, nên có DN làm, DN không làm. Do vậy, cơ quan quản lý cần đưa ra chế tài bắt buộc đăng ký kinh doanh phải điện tử thì sẽ nó thành mệnh lệnh và buộc các DN phải làm.

Bên cạnh đó, cơ chế một cửa cũng xuất phát từ việc ban hành chính sách nhưng không quy định cụ thể. Ví như trong cuộc họp, các lãnh đạo Sở ngành không họp cùng DN mà để cho thư ký đi, sau đó thư ký gửi lại biên bản họp cho lãnh đạo tỉnh xem xét. Chính việc lòng vòng này khiến DN phải đợi, mất nhiều thời gian. Thiết nghĩ, nên có chế tài phạt những đơn vị thực hiện không tốt.

Phần 2: Các giải pháp giúp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Qua quan sát của địa phương cho thấy chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về cơ chế chính sách đã có thể tạo thuận lợi cho DN rất nhiều. Xin hỏi ông Phan Đức Hiếu về việc đơn giản hóa thủ tục kinh doanh?

Hiện nay, những địa phương tích cực đang xử lý vấn đề một cách rất cơ học. Cụ thể, với mục tiêu như vậy, họ ép cơ học đối với các cơ sở, phòng ban hoàn thành bằng cách nhanh nhất…. Như vậy rất áp lực và tốn kém nhân sự. Tôi cho rằng về lâu dài, nhà nước phải rút dần và trao lại quyền cho xã hội, đặc biệt là các hiệp hội doanh nghiệp. Hiện, nhiều địa phương tổ chức đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhưng đối thoại vẫn mang tính hình thức, chưa hiệu quả, nhiều kiến nghị không được xử lý. Theo tôi, chúng ta nên giao cho một cơ quan độc lập tổ chức buổi đối thoại. Cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp kiến nghị của doanh nghiệp và cập nhật các giải pháp của chính quyền. Mọi doanh nghiệp có kiến nghị đều được giải quyết như nhau.

Đối với các địa phương chưa tích cực, không tích cực, cần tạo ra một môi trường làm việc minh bạch, công bằng trong việc đánh giá hiệu quả của công chức. Có như vậy mới thu hút được những công chức có tâm vào làm việc, tránh tình trạng đặt người không đúng chỗ.

Tôi thấy hiện nay duy nhất chỉ có VCCI là có 1-2 chỉ số là đánh sát, giám sát quá trình thực thi. Con số này quá ít, cần phải tăng cường vai trò của xã hội để tăng cường phản biện xã hội. Hiện, phản biện của doanh nghiệp còn rời rạc, thiếu chuyên nghiệp. Ở nước ngoài, bản kiến nghị của doanh nghiệp thường mang tính xây dựng rất cao, là tập hợp ý kiến của nhiều doanh nghiệp về các nhóm vấn đề. Vì vậy, tôi kêu gọi các hiệp hội doanh nghiệp, các địa phương nên tập hợp lại với nhau, hành xử một cách chuyên nghiệp để gia tăng sức ép đối với nhà nước. Có như vậy, các kiến nghị của doanh nghiệp mới có cơ hội được giải quyết, qua đó cải thiện được môi trường kinh doanh tại các địa phương.

– Thưa ông Nguyễn Minh Phong, ông có thấy sự chuyển động chưa đồng đều ở các bộ ngành hay không trong việc thực hiện NQ 19 và NQ 35?

Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Minh Phong

Tôi cho rằng, độ chuyển động có đồng đều hay không phụ thuộc vào quy chuẩn và quy trình được đưa ra. Ví dụ có địa phương đưa ra một số quy định rất là tốt và được ban hành thực hiện từ trên xuống dưới như: với một vấn đề nếu quá 3 ngày không có phản hồi thông tin thì coi như là đồng ý; đi họp thay thì ý kiến phát biểu đại biểu chính là là ý kiến của Giám đốc Sở.

Thực tế ghi nhận những thành tựu thấy rõ: thời gian nộp thuế giảm, điện tử hoá rất nhiều…đặc biệt ở một số địa phương và Hà Nội đã xây dựng được bộ tiêu chí điện tử rất cao. Chính điều này góp phần giảm thiểu thời gian của Nhà nước và tạo điều kiện hỗ trợ cho DN.

Ngành Thuế đã có sự cải thiện rất tốt từ 28% xuống 20%. Thậm chí nhiều DN còn cho rằng cải tiến như thế là được rồi. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực khác như đất đai chẳng hạn sẽ gặp khó khăn hơn. Do đó, khi chấm điểm chỉ số cũng phải xem xét đối với từng lĩnh vực và mức độ khó khăn riêng để đánh giá mức độ chuyển động. Tôi cho rằng mức độ đồng đều còn phụ thuộc vào trách nhiệm của người đứng đầu. Nếu họ có chế tài lớn, chiến dịch cao điểm như bầu cử thì mức độ chuyển động cũng khác nhau.

Tôi cho rằng có 4 vấn đề ảnh hưởng đến xu hướng, tốc độ và kết quả thực tế của những chuyển động về cải cách. Thứ nhất là nội dung yêu cầu và lộ trình hội nhập. Thứ hai là vai trò của người đứng đầu thực sự quan trọng. Nếu người đứng đầu (Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, Bí thư…) nghiêm túc và trực tiếp chỉ đạo thì có sự đẩy nhanh trong việc thực hiện. Thứ ba là xây dựng về quy trình khi được chuẩn hoá, thể chế hoá sẽ đi vào hành động. Thứ tư là dựa trên nền tảng phát triển công nghệ thông tin để quản lý dữ liệu thông tin trong tỉnh và trên cả nước.

Ông Đậu Anh Tuấn: Ông Phong có nhắc đến cải cách của ngành thuế. Vừa qua tôi có tham dự một hội thảo về vấn đề này. Điều tôi bất ngờ là khi Bộ Tài chính sử dụng điều tra sự hài lòng của DN về cải thiện ngành thuế đều phải công khai, xây dựng nhật ký điện tử khi đến làm việc với DN…Tôi cũng rất bất ngờ với quy định thanh tra công vụ và không công nhận tranh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nếu phát hiện có chi phí bôi trơn…Hy vọng những chỉ đạo, quy định này sẽ được thực hiện trong thời gian tới.

– Trong Nghị quyết 35 có nội dung phải cắt giảm chi phí cho DN, ông Nguyễn Văn Thời có đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu của VN như thế nào? Có cách nào để cắt giảm chi phí kinh doanh cho DN trong thời gian tới?

Tuy nhiên để đạt được điều kiện của Thông tư 72 thì DN phải tốt thực sự. Còn nếu đánh giá chung về mặt xu hướng, thì xu hướng chi phí giảm là rõ ràng. Ví dụ như ngành thuế áp dụng hoàn thuế điện tử, theo đó nếu DN có đủ chứng từ kê khai thì tiền về ngay, không bị tồn đọng. Đây cũng là chi phí giảm. Còn các thủ tục hành chính thì khi có Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 và các chỉ thị, nghị quyết riêng của tỉnh thì rất tốt cho DN. Chi phí đầu vào, chi phí gia nhập thị trường cho DN đã giảm rõ rệt.

– Một trong những xu hướng và đã được các địa phương tổ chức khá tốt như xây dựng trung tâm tỉnh, cắt giảm TTHC, việc này đã tạo động lực cho lãnh đạo địa phương. Xin hỏi ông Hiếu, với DN trẻ, việc chuyển động ấy đã làm hài lòng DN?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Nghị quyết 35 có đề cập đến vấn đề giảm chi cho DN. Về mặt chủ trương điều này rất có lợi cho DN từ chính sách về thuế, lương theo năng suất lao động, phí đường bộ,…Nhưng yếu tố quan trọng nhất tôi nghĩ đó là giảm phí cơ hội thời gian và thủ tục hành chính. Tôi rất quan tâm tới yếu tố thời gian 48h của anh Phượng, việc giảm chi và “quy trình 3-5 ngày”, “1 dừng” của anh Phong vừa đề cập. Về chủ trương, đứng ở góc độ doanh nghiệp tôi rất hài lòng.

– Năm ngoái tôi có tham gia một hội đồng đo thời gian giải phóng hàng và thấy tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng tương đối ít. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng dưới 48 giờ thì chỉ có 38,5% lô hàng được giải quyết. Điều này cho thấy việc rút ngắn thời gian thông quan vẫn còn lớn. Tôi muốn hỏi ông Phượng, với doanh nghiệp đang hoạt động, ông đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh trong thời gian vừa rồi, làm thế nào để cắt giảm hơn nữa?

Ông Nguyễn Nhân Phượng: Nói về chi phí kinh doanh, đối với doanh nghiệp chúng tôi quan tâm nhất đến là chi phí thời gian. Để giảm được chi phí, trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp đều chú trọng tới đổi mới công nghệ bởi việc đổi mới công nghệ giúp làm tăng năng suất lao động, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng sức cạnh tranh. Song song với đó là chi phí đối với lao động, thị trường lao động hiện rất được quan tâm. Trong đó, DNNVV cũng song song cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về lực lượng lao động, kéo theo chi phí lao động tăng lên. Nhưng bản thân doanh nghiệp luôn xác định đó là chi phí thiết yếu và vẫn được duy trì bởi chi phí lao động tăng sẽ nâng cao được chất lượng và năng suất sản phẩm, như vậy vẫn đảm bảo sự phát triển cho doanh nghiệp và giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng

– Vậy giải pháp như thế nào để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35?

Ông Nguyễn Văn Thời: DN chúng tôi đang tự thân đề xuất, tự thân kiến nghị. Chúng tôi có thể tiếp cận những DN phát triển nhất trên thế giới, sau đó chúng tôi cũng mày mò, học tập và làm theo. Ngành may đã xây dựng chương trình kiến nghị để báo cáo chủ tịch nước. Từ đó nhà nước ban hành chính sách. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của ngành dệt may hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sản phẩm, mẫu mã tốt nhất, trong khi nguyên liệu kém. Để ngành dệt may dần dần phát triển, từng DN phải đặt ra lộ trình xây dựng thương hiệu trong nước và tiến ra nước ngoài. Chính vì mục tiêu như vậy mà thấy vướng mắc gì chúng tôi kiến nghị Nhà nước cái đó Những năm tới chúng tôi cần cơ quan quản lý ra “thước đo”, Hiệp hội DN và VCCI sẽ là người “đo” kết quả hoạt động, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển.

Ông Hoàng Trần Hiếu: Phải chuyển từ việc chủ động của Nhà nước đối thoại với doanh nghiệp thành việc đề xuất của tổ chức nghề nghiệp, doanh nghiệp gặp gỡ cơ quan Nhà nước. Có thể là đối thoại trong phạm vi nhỏ, giúp doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ và đề xuất với cơ quan chức năng. Đặc biệt, để NQ 35 đi vào đời sống phải chú trọng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu từ phía các Hiệp hội và cơ quan Nhà nước. Phải có cơ chế giám sát và kiểm điểm với người đứng đầu các đơn vị này.

Ông Nguyễn Minh Phong: Chúng tôi tin rằng sắp tới tinh thần nghị quyết 19, nghị quyết 35 sẽ tiếp tục được lặp lại, thậm chí ở mức độ cao hơn với tinh thần Chính phủ kiến tạo. Do đó, vấn đề làm thế nào để tăng hiệu quả vẫn sẽ phải tiếp tục. Như tôi đã nói từ đầu với những kết quả thực hiện bước đầu, chúng ta hãy bám vào đó để thực hiện tiếp. Các cấp, ngành, VCCI cần chủ động rà soát lại cái văn bản hội nhập để xây dựng và tạo thuận lợi cho DN. Chính phủ cần họp định kỳ và những nội dung của nghị quyết phải được đưa ra để nghe, báo cáo và kịp thời giải quyết cho DN. Bên cạnh đó, xác lập tốt hơn vai trò của người đứng đầu (Thủ tướng, Quốc hội, Bộ trưởng…) để có răn đe thực sự mạnh mẽ tạo ra sức ép mạnh cho người thừa hành; đồng thời sẽ lan toả tới từng nhân viên thấp nhất. Và chỉ khi nào sự lan toả này tới được tới người cuối cùng thì mới giải quyết được vấn đề. Đồng thời, xây dựng được hệ thống thông tin, tiện cho tiếp cận và chia sẻ thông tin, khiếu nại đơn, kêu cứu của DN và được truyền tải trực tiếp thì những điểm cần phải gỡ sẽ nhận diện rất nhanh. Ngoài ra, vai trò của cơ quan báo chí, thanh kiểm tra, hiệp hội, quần chúng… là rất quan trọng. Nếu nhìn ở cấp độ khái quát có 3 việc phải làm: thứ nhất, xây dựng giá trị chuẩn quốc gia cho bộ, ngành, doanh nghiệp khi đó mới tạo ra thước đo đúng để nhận diện những cái sai loại bỏ. Thứ hai, xây dựng cơ chế tốt bảo vệ tốt lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Thứ ba, xây dựng một đội ngũ cán bộ.

Ông Đậu Anh Tuấn: Tôi đồng tình với quan điểm từ thực tiễn của anh Thời. Theo tôi muốn thay đổi việc gì đều phải có động lực. Đề xuất của anh Thời khiến tôi nhớ đến câu nói của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Cái gì không đo được tức là không cải cách mạnh mẽ được”. Đây là đòi hỏi cơ quan chiến lược như anh Hiếu đó là cần những thước đo cụ thể.

Nhóm PV

6 Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư

Enternews.vn“Vĩnh Phúc sẽ nỗ lực nhiều hơn để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh” nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2012 và những năm tiếp theo.

(DĐDN) “Vĩnh Phúc sẽ nỗ lực nhiều hơn để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh” – đó là khẳng định của ông Phùng Quang Hùng – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc với DĐDN về việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2012 và những năm tiếp theo.

Theo ông Hùng, chỉ số PCI là một trong những công cụ hữu ích để tỉnh Vĩnh Phúc đánh giá về môi trường đầu tư, năng lực cạnh tranh của tỉnh, thấy rõ hơn những hạn chế yếu kém cần khắc phục, những điểm mạnh cần phát huy. Từ đó, tỉnh có giải pháp thúc đẩy các cấp, các ngành của tỉnh đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực… để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư vào tỉnh, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.

– Vậy theo ông, nguyên nhân nào khiến PCI của Vĩnh Phúc năm 2011 giảm hai bậc so với năm 2010 (17/63) và 14 bậc so với năm 2008 ?

Về khách quan, tôi cho rằng, cơ chế, chính sách đất đai có những thay đổi làm ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, nhất là khi thực hiện Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Vĩnh Phúc là tỉnh có địa giới hành chính giáp TP Hà Nội nên giá bồi thường có sự chênh lệch lớn, dẫn đến nhà đầu tư, DN và người dân rất khó đạt được thỏa thuận về giá bồi thường.

Trong những năm qua, Vĩnh Phúc đẩy mạnh phát triển công nghiệp và đô thị theo quy hoạch, nhiều dự án đồng loạt triển khai; một số dự án trọng điểm quốc gia như đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, đường điện 500 KV Sơn La – Hiệp Hòa qua Vĩnh Phúc cùng một số yếu tố khác làm cho mặt bằng giá đất của Vĩnh Phúc cao hơn một số tỉnh lân cận. Do đó giá thuê lại đất có hạ tầng trong KCN cũng cao hơn các tỉnh trong khu vực, làm cho các nhà đầu tư khó tiếp cận thuê đất trong KCN để đầu tư thực hiện dự án.

Về chủ quan, do việc công bố các tài liệu về cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch của tỉnh, quy trình giải quyết thủ tục hành chính của các sở ban ngành còn chậm, chưa đầy đủ làm giảm khả năng tiếp cận thông tin của DN, ảnh hưởng đến tính minh bạch về cơ chế, chính sách, quy trình giải quyết thủ tục hành chính… Một vài trường hợp có biểu hiện gây khó cho DN khi thực hiện các thủ tục hành chính tại cơ quan nhà nước.

– Từ những nguyên nhân đó, Vĩnh Phúc đã rút ra được kinh nghiệm, giải pháp gì để cải thiện chỉ số PCI năm 2012 và những năm tới, thưa ông ?

Lãnh đạo tỉnh tập trung, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh; trong đó tăng cường đối thoại trực tiếp với DN để kịp thời giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của DN. Đặc biệt trong công tác GPMB, UBND tỉnh thường xuyên rà soát lại các chính sách, điều chỉnh bổ sung và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách đất đai phù hợp với thực tế địa phương. Tỉnh cũng đã thành lập Ban GPMB và phát triển quỹ đất cấp tỉnh, củng cố hoạt động của hội đồng bồi thường, GPMB ở cấp huyện để thực hiện công tác bồi thường, GPMB giúp các nhà đầu tư sớm có mặt bằng triển khai thực hiện dự án.

Hiện nay tỉnh đang khẩn trương thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN (thuộc Ban Quản lý các KCN) với nhiệm vụ thực hiện dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật KCN, tạo quỹ đất có hạ tầng trong KCN để cho thuê với mức giá hợp lý, để thu hút các dự án trong lĩnh vực ưu tiên phát triển của tỉnh. Đối với các dự án thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ phù hợp với định hướng thu hút của tỉnh đầu tư vào KCN, HĐND tỉnh đã có Nghị quyết miễn các khoản phí, lệ phí khi thực hiện các thủ tục hành chính và hỗ trợ kinh phí lập dự án… Đề án dạy nghề, giải quyết việc làm và giảm nghèo trên địa bàn tỉnh cũng đang triển khai góp phần từng bước đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng lao động cho DN và các nhà đầu tư trên địa bàn.

Bên cạnh đó, tỉnh quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính. Tiếp tục duy trì có hiệu quả cơ chế một cửa và một cửa liên thông trong giải quyết các thủ tục hành chính, nghiên cứu áp dụng mô hình dịch vụ hành chính công. Tỉnh đã thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh, là đầu mối giải quyết các thủ tục hành chính các dự án FDI, DDI theo cơ chế một của liên thông để hỗ trợ nhà đầu tư, DN, giảm thời gian chờ đợi, tăng cơ hội đầu tư. Thực hiện công khai, minh bạch trong giải quyết các nhu cầu của người dân và DN. Nâng cao trình độ, nhận thức và kỹ năng đội ngũ cán bộ công chức để đáp ứng nhu cầu công việc.

Chỉ số PCI được coi là công cụ quan trọng để đo lường, đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh tế của chính quyền địa phương. Từ năm 2005 đến nay, PCI của Vĩnh Phúc luôn thuộc nhóm tốt. Mặc dù, thứ hạng đã có sự thay đổi qua các năm. Cụ thể, năm 2011, xếp 17/63 tỉnh, thành, tụt 2 bậc so với năm 2010 và 14 bậc so với năm 2008.

Khắc Lãng thực hiện



Nghệ An Bàn Giải Pháp Thúc Đẩy Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Và Kinh Doanh

Dự hội thảo có các chuyên gia cao cấp đến từ VCCI, đại diện các sở ngành, các hiệp hội doanh nghiệp tỉnh, đại diện một số huyện, thành thị và một số doanh nghiệp tiêu biểu. Ảnh: Nguyễn Hải

Tại hội thảo, các chuyên gia đến từ VCCI đã có các bài giảng, tham luận đánh giá về tình hình chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI cả nước và kết quả đánh giá sơ bộ tại các địa phương năm 2020 nói riêng.

Đại diện Ban Hỗ trợ đầu tư phát triển tỉnh Quảng Ninh, một trong những địa phương có chỉ số PCI đứng đầu cả nước thông tin về kinh nghiệm và phương pháp đánh giá Bộ chỉ số đánh giá năng lực điều hành cấp sở, ban, ngành và địa phương thuộc tỉnh (chỉ số DDCI) và các giải pháp triển khai của lãnh đạo tỉnh sau công bố, đánh giá.

Bà Đào Thị Kim Hoa – Phó Giám đốc Phụ trách VCCI Chi nhánh Nghệ An phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Nguyễn Hải

Trên cơ sở tiếp thu các kinh nghiệm và cách làm của các địa phương bạn, ông Trần Quốc Thành – Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ Nghệ An cho biết: Nghệ An là bắt đầu làm DDCI từ năm 2017 và đi sau nên có lợi thế được kế thừa kinh nghiệm các tỉnh làm trước. Hiện bộ chỉ số đang trong quá trình thử nghiệm, chỉnh sửa trước khi ban hành chính thức.

Mặc dù còn đang trong quá trình thử nghiệm nhưng kết quả khảo sát từ 2018 đến nay cho thấy về cơ bản các chỉ số thành phần DDCI của Nghệ An như chi không chính thức, khả năng tiếp cận đất đai còn thấp… khá tương đồng với chỉ số PCI do VCCI đánh giá, công bố hàng năm.

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban pháp chế VCCI phát biểu nêu tổng quan về tình hình đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI và năng lực cạnh tranh các sở ngành, cấp huyện trên toàn quốc. Ảnh: Nguyễn Hải

Tại hội thảo, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp Nghệ An nêu lên một số khúc mắc trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính, đầu tư tại Nghệ An. Để tạo được bước chuyển thực sự trong cải thiện môi trường kinh doanh, các đại biểu cho rằng, bộ máy hành chính của tỉnh phải thực sự đồng hành với doanh nghiệp; khi lấy mẫu khảo sát, thăm dò phải thực sự cầu thị và lắng nghe doanh nghiệp thì kết quả đánh giá mới thực chất. Lãnh đạo và người đứng đầu cấp ủy chính quyền từ tỉnh đến sở ngành, huyện và xã phải coi kết quả đánh giá dù tốt hay hạn chế đều là bài học của mình; sau đánh giá công bố chỉ số phải có các giải pháp chỉ đạo khắc phục các hạn chế, khuyết điểm…

Thay mặt lãnh đạo tỉnh, đại diện Trung tâm xúc tiến Đầu tư, Thương mại và du lịch Nghệ An trân trọng tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, đề xuất của doanh nghiệp và sẽ tham mưu đề xuất tỉnh sớm hoàn thiện bộ chỉ số đánh giá DDCI để đưa ra áp dụng chính thức, góp phần thúc đẩy, cải thiện môi trường đầu tư./.

Nguyễn Hải

(Baonghean.vn) – Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc của đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Nghệ An tại Nhật Bản, chiều 19/9, tại thủ đô Tokyo, Nhật Bản, tỉnh Nghệ An phối hợp với Trung tâm xúc tiến thương mại đầu tư và du lịch ASEAN – Nhật Bản đã tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh Nghệ An.

(Baonghean.vn) – Đồng chí Nguyễn Đức Trung – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh trả lời phỏng vấn Báo Nghệ An.

(Baonghean.vn) – Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc của đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Nghệ An tại Nhật Bản, chiều 19/9, tại thủ đô Tokyo, Nhật Bản, tỉnh Nghệ An phối hợp với Trung tâm xúc tiến thương mại đầu tư và du lịch ASEAN – Nhật Bản đã tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh Nghệ An.

(Baonghean.vn) – Đồng chí Nguyễn Đức Trung – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh trả lời phỏng vấn Báo Nghệ An.

Bạn đang xem bài viết Cải Thiện Mạnh Mẽ Môi Trường Đầu Tư, Tạo Niềm Tin Cho Các Doanh Nghiệp Đến Hà Nội trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!