Cập nhật thông tin chi tiết về Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Tại Việt Nam mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
TÓM TẮT:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, môi trường đầu tư (MTĐT) của Việt Nam cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, nâng cao tính cạnh tranh thì mới có thể đón được những làn sóng đầu tư có hiệu quả cao thông qua việc lựa chọn các dự án có chất lượng hơn. Vì vậy làm thế nào để cải thiện MTĐT của Việt Nam là vấn đề cần được quan tâm hiện nay.
Bài viết đi sâu phân tích, đánh giá một số khía cạnh về MTĐT của Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần cải thiện MTĐT nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng vào Việt Nam.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, môi trường đầu tư, chính sách đầu tư.
1. Đặt vấn đề
Trong thời kỳ mở cửa của nền kinh tế, việc huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy cạnh tranh làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm,… tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là những nước kém phát triển.
Hầu hết, các nước kém phát triển đều rơi vào một vòng luẩn quẩn, đó là: Thu nhập thấp, dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và hậu quả lại là thu nhập thấp. Trở ngại lớn nhất đối với các nước này là vốn đầu tư, tuy nhiên tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó thì các nước kém phát triển phải thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài và phát huy lợi thế ở bên trong. Do đó, FDI là một bước đột phá ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó. Muốn có thật nhiều FDI thì một trong những yếu tố quan trọng nhất đó chính là việc cải thiện MTĐT nhằm thu hút FDI nhiều hơn. Việt Nam cũng là một trong những nước đang nỗ lực cải thiện MTĐT với mục tiêu thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê mô tả: Dùng để mô tả MTĐT và thực trạng cải thiện môi trường thu hút vốn FDI của Việt Nam.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Khái quát chung điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến cải thiện môi trường thu hút vốn FDI tại Việt Nam
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km, tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Cam-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông. Nằm ở vị trí trung tâm khu vực Đông Nam Á, thuộc khu vực kinh tế năng động của thế giới nên có tiềm năng liên kết với nhịp độ phát triển của khu vực, có khả năng kết nối với những nước có nền công nghiệp cao như: Nhật Bản, Singapore, Thái Lan nên Việt Nam có thể trở thành đầu mối trong việc giao lưu trung chuyển hàng hải, rất thuận lợi về giao thông đường biển với các châu lục khác.
Tài nguyên khoáng sản: Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, như: thiếc, kẽm, bạc, vàng, đá quý, than đá,… Thềm lục địa của Việt Nam có nhiều dầu mỏ, khí. Đây là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp khai khoáng, dự án dầu khí và lọc dầu. Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì nhiêu cao, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp.
Khí hậu: Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn. Điều này sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, phát triển trồng trọt trong nông nghiệp, đặc biệt giúp cây trồng phát triển quanh năm.
3.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
Dân cư và lao động: Nguồn nhân lực Việt Nam là yếu tố quan trọng có tác động tích cực đến thu hút ĐTNN bởi lực lượng lao động dồi dào, chi phí thấp và trình độ lao động tăng lên qua các năm.
Thứ nhất, nguồn nhân lực Việt Nam tương đối dồi dào do quy mô dân số lớn và tăng lên hàng năm. Dân số hiện tại (tháng 4/2019) của Việt Nam là 96.208.984 người, dân số Việt Nam hiện chiếm 1,27% dân số thế giới, mật độ dân số trung bình 290người/km2. Tuy nhiên, dân số lại phân bố không đồng đều, mật độ dân số cao chủ yếu ở các thành phố lớn, những vùng đồng bằng có điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội và cơ sở hạ tầng phát triển. Quy mô của lực lượng lao động chiếm khoảng trên 50% tổng dân số. Lao động làm việc trong ngành Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng giảm dần, còn lao động làm việc ở ngành Công nghiệp và Dịch vụ tăng lên qua các năm.
Thứ hai, chi phí lao động, tiền lương của Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và có sự khác biệt giữa các vùng, miền trong cả nước. So với nhiều nước trong khu vực, mức lương bình quân của Việt Nam khá thấp chỉ cao hơn Lào và Campuchia, thậm chí chỉ bằng 1/3 Malaysia và nhỏ hơn gần 30 lần so với Singapore.
Thứ ba, chỉ số phát triển con người của Việt Nam luôn có xu hướng tăng lên trong thời gian qua dù GNI, GDP bình quân đầu người vẫn còn thấp. Chỉ số này cho thấy, sức khỏe của người dân Việt Nam tương đối tốt và hệ thống giáo dục phổ thông rất được quan tâm, phát triển.
3.2. Tình hình cải thiện môi trường thu hút FDI tại Việt Nam
3.2.1. Tình hình phát huy các lợi thế về địa lý và địa hình của Việt Nam
Trong khoảng hơn 30 năm, vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đã trải qua những giai đoạn thăng trầm. Tính đến ngày 20/12/2019, cả nước có 30.827 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 362,580 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt 211,78 tỷ USD, bằng 58,4% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
Bảng 1. Vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019
Trong năm 2019, các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó đầu tư tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng số vốn đạt 24,56 tỷ USD, chiếm 64,6% tổng vốn đầu tư. Đây cũng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đăng ký cả về đăng ký vào các dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng và góp vốn, mua cổ phần. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với 3,88 tỷ USD, chiếm 10,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực bán buôn bán lẻ, hoạt động chuyên môn khoa học – công nghệ,…
Bảng 2. FDI ở Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư
Tính đến tháng 12/2019 đã có 135 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 67,70 tỷ USD (chiếm 18,67% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 59,33 tỷ USD (chiếm 16,36% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Britishvirgin Island, Hồng Kông
Bảng 3. FDI ở Việt Nam theo đối tác đầu tư
ĐTNN đã có mặt ở tất cả 64 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 47,34 tỷ USD (chiếm 13,06% tổng vốn đầu tư), tiếp theo là Bình Dương với 34,4 tỷ USD (chiếm 9,48% tổng vốn đầu tư), Hà Nội với 34,11 tỷ USD (chiếm 9,41% tổng vốn đầu tư).
3.2.2. Năng lực của Nhà nước trong ổn định chính trị, chính sách pháp luật, văn hóa – xã hội tạo dựng niềm tin, sự an toàn, hấp dẫn các nhà đầu tư
Môi trường chính trị: Việt Nam được xếp vào một trong những nước có tình hình chính trị ổn định nhất thế giới. Ổn định chính trị là cơ sở cho ổn định kinh tế – xã hội, tạo thuận lợi để Việt Nam trở thành đích đến an toàn của các nhà ĐTNN. Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ về chính trị với các nước trên thế giới, tích cực, chủ động tăng cường mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ và an ninh quốc phòng. Thực hiện chủ trương, chính sách lớn của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều Hiệp định thương mại và cũng đang tham gia đàm phán một số hiệp định thương mại quan trọng khác. Tính hết năm 2019, Việt Nam đã ký kết và thực thi 12 FTA, kết thúc đàm phán 1 FTA, và đang đàm phán 3 FTA khác. Chính việc tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước và tổ chức quốc tế cũng như việc tổ chức thành công các sự kiện, Việt Nam được các nước và các nhà ĐTNN đánh giá rất cao về môi trường chính trị, làm các nhà đầu tư yên tâm đầu tư tại Việt Nam, có ảnh hưởng tích cực tới thu hút vốn FDI.
Môi trường chính sách pháp luật: Để thực hiện hiệu quả thu hút FDI thì Nhà nước phải không ngừng đổi mới chính sách, tạo thuận lợi cho các DN có vốn FDI phát triển, hạn chế tới mức tối đa các mặt tiêu cực và khuyết điểm của nó.
Môi trường kinh tế: Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế – xã hội quan trọng. Tăng trưởng kinh tế liên tục tăng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2010 – 2019 là 6,7%. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định chứng tỏ các chủ thể trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, từ đó tăng sự thu hút các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả.
3.2.3. Thực trạng cải thiện kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội nhằm tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai dự án
(i) Hệ thống giao thông vận tải:
Đường bộ: Hệ thống mạng lưới đường bộ không ngừng tăng lên cả về chất lượng và số lượng, nhiều tuyến đường được xây dựng mới, nâng cấp và mở rộng. Tổng chiều dài đường bộ của Việt Nam khoảng 180.000 km, trong đó có trên 154 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài 24.866 km, tỉnh lộ 28.143 km, huyện lộ 57.033 km, ngoài ra đường đô thị trên 27.500 km, còn lại là đường xã trên 159.000 km (Tổng cục Đường bộ, 2019). Nhờ sự phát triển hệ thống giao thông đường bộ, năng lực vận tải ngày càng tăng, khuyến khích lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển.
Đường sắt: Đã có bước cải thiện về chất lượng và tổ chức vận tải. Tổng chiều dài đường sắt đạt 2.654km bao gồm ba loại: Đường khổ 1.000mm chiếm 85%, Đường khổ 1.435mm chiếm 6% và Đường lồng chiếm 9%. Một số tuyến chính đã được cải tạo, nâng cấp, nâng cao an toàn và rút ngắn thời gian chạy tàu.
Cảng biển, đường thủy: Đến nay, đã có 160 bến cảng đưa vào sử dụng, được phân bố trên từng khu vực, địa bàn cả nước, với năng lực thông quan hàng hóa ngày càng tăng. Năm 2019, sản lượng thông quan hàng hóa của toàn hệ thống cảng biển Việt Nam ước đạt trên 600 triệu tấn. Hơn 90% lượng hàng hóa xuất – nhập khẩu của nước ta được vận chuyển bằng đường biển. Hệ thống cảng biển giúp trao đổi thương mại với nền kinh tế thế giới, làm hình thành nên khu công nghiệp, các trung tâm thương mại lớn trên vùng cảng, đóng vai trò là đầu tàu tăng trưởng kéo theo sự phát triển kinh tế của cả nước.
Hàng không: Cả nước hiện có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó có 9 cảng hàng không quốc tế. Nhiều cảng hàng không đã được chuyển đổi mục đích từ phục vụ quân sự sang khai thác lưỡng dụng. Đã và đang đầu tư cải tạo, nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Điện Biên Phủ, Cát Bi, Vinh, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Buôn Mê Thuột, Pleiku, Liên Khương, Cần Thơ và Phú Quốc, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa ngày càng tăng.
Hệ thống điện: Tính đến hết năm 2018, tổng công suất đặt của hệ thống điện Việt Nam là 54.880 MW. Quy mô hệ thống điện Việt Nam hiện đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia) và thứ 23 trên thế giới, với đa dạng loại hình nguồn điện như: Thủy điện, nhiệt điện đốt than, nhiệt điện đốt dầu FO, tua bin khí chu trình hỗn hợp đốt khí, tua bin khí chu trình đơn đốt dầu DO, diesel. Giá điện bình quân Việt Nam có tăng, nhưng vẫn thấp hơn trung bình khu vực, chỉ cao hơn Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Giá điện ở Việt Nam là yếu tố giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư.
Hệ thống cấp, thoát nước: Với dân số khoảng 95 triệu người, Việt Nam có tổng lượng nước bình quân đầu người theo năm đạt khoảng 9.500 m3/người/năm, thấp hơn chuẩn 10.000 m3/người/năm của quốc gia có nguồn nước ở mức trung bình theo quan điểm của Hiệp hội nước quốc tế. Cùng với tốc độ tăng dân số, nhu cầu nước tại Việt Nam ngày càng tăng trong khi nguồn cung cấp ngày càng có hạn, khiến Việt Nam lâm vào nguy cơ bị xếp hạng vào những quốc gia thiếu nước trên thế giới. Giá nước sạch sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất tăng lên. Hệ thống thoát nước tại các đô thị ở Việt Nam hiện bị xuống cấp rất nghiêm trọng, chưa đáp ứng được nhu cầu thoát nước.
Bưu chính viễn thông: Trong những năm gần đây, thị trường viễn thông Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mới, dịch vụ ngày càng đa dạng, chất lượng dịch vụ càng được cải thiện, giá dịch vụ ngày càng hạ. Hệ thống kết nối với quốc tế phát triển đa dạng cả về phương thức truyền dẫn và tốc độ kết nối, bao gồm các hệ thống cáp quang dưới biển, trên đất liền và các trạm thông tin vệ tinh mặt đất, hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và liên kết quốc tế. Thương mại điện tử phát triển nhanh đã hỗ trợ kinh doanh và mở rộng thị trường.
3.3. Giải pháp cải thiện MTĐT trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI, MTĐT của Việt Nam cần tiếp tục được cải thiện thông qua việc tác động vào các yếu tố MTĐT mà Chính phủ có ảnh hưởng mạnh như sau:
Để đối phó với bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần chủ động, linh hoạt và kịp thời điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách an sinh xã hội nhằm kích cầu đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Tiếp tục hoàn thiện môi trường chính sách, pháp luật. Cần thu hút vốn FDI có chọn lọc, mang lại giá trị gia tăng cao, có hiệu quả kinh tế xã hội lớn; đồng thời tránh thu hút FDI có ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái, sử dụng công nghệ lạc hậu, sử dụng lãng phí tài nguyên, năng lượng, đất của Việt Nam.
Tiếp tục xem xét, rà soát các văn bản pháp luật, chính sách đầu tư, kinh doanh để bổ sung, sửa đổi những nội dung không rõ ràng, nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán…
Để đảm bảo lợi ích cộng đồng, tránh cấp phép cho dự án gây ô nhiễm môi trường, các địa phương cần thực hiện đúng quy trình thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Cần nghiên cứu và ban hành các chế tài xử lý các cá nhân, các dự án không tuân thủ đúng quy trình thủ tục, những dự án có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xã hội.
Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể việc phân cấp đầu tư cho chính quyền cấp huyện, xã. Cần phân định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan trong việc quản lý hoạt động đầu tư đặc biệt là hoạt động FDI.
Tiếp tục rà soát và phân loại thủ tục hành chính, phải loại bỏ thủ tục hành chính không phù hợp, không cần thiết, chồng chéo, mâu thuẫn. Để việc rà soát thủ tục hành chính có hiệu quả cần có cơ quan độc lập thực hiện rà soát văn bản do các Bộ, ngành, địa phương ban hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2015). Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Thực trạng, hiệu quả và hướng điều chỉnh chính sách, NXB Lao động, Hà Nội;
Bộ GD và ĐT (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội;
Bộ Kế hoạch đầu tư (2018), 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam – Tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới, NXB Thống kê, Hà Nội.;
Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2018), Báo cáo quan hệ lao động 2018, Hà Nội.
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2019), Báo cáo phát triển con người năm 2019, Hà Nội.
Bùi Nam Sách (2016), Mâu thuẫn sử dụng nước ở hạ lưu hồ chưa trên các lưu vực sông và một số giải pháp khắc phục, Hà Nội.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (2019), Báo cáo kết quả ngành Điện 2019, Hà Nội.
Theo tapchicongthuong.vn
Nguồn bài viết: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cai-thien-moi-truong-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-77664.htm
Khắc Phục Hạn Chế Trong Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Tại Việt Nam
Thứ hai, 20 Tháng 2 2017 14:57
(LLCT) – Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra: “Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để hoàn thành mục tiêu đó, Đại hội xác định nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020 tốc độ tăng trưởng kinh tế phải đạt 6,5-7%. Theo các chuyên gia, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần khoảng 10.218-10.978 nghìn tỷ đồng, bằng 32-34% GDP, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cần phải huy động khoảng 1.410-1.546 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,8-14,1% tổng nguồn vốn.
Việt Nam là một trong nhữngquốc gia thu hút được nhiều FDI,trong 5 năm 2011-2015, tổng vốn FDI (gồm cả phần vốn góp trong nước) đạt 60,5 tỷ USD, tăng 35,6 % so với giai đoạn 2006-2010 và tăng đều qua các năm. Trong 6 tháng đầu năm 2016, kinh tế thế giới gặp rất nhiều khó khăn,nhưngchúng ta đã thu hút gần 12 tỷ USD,gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2015.
FDI đã đóng góp tích cực cho tăng trưởng và phát triểnkinh tế Việt Nam. Doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụcủa khu vực này luôn tăng qua các năm. Năm 2015, kim ngạch xuấtkhẩu của các doanh nghiệp FDI chiếm70% kim ngạch xuất khẩu của cả nước; 7 tháng đầu năm 2016, xuất siêu gần 15 tỷ USD, nhiều mặt hàng chiếm tỷ trọng tuyệtđối, như xuất khẩu điệnthoại32 tỷ USD. FDI đóng góp cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm,tăng thu nhập,góp phần giải quyết các vấn đề xã hội… Tuy nhiên, FDI tại Việt Nam đang tồn tại những hạn chế cần được giải quyết.
Thứ nhất, hiệu quả đầu tư không cao so với tiềm năng và thế mạnh của doanh nghiệp FDI. Vì mục tiêu lợi nhuận, FDI thường đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao như: khai thác tàin guyên nhiên nhiên, gia công, lắp ráp sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Như vậy chỉ khai thác thế mạnh, mà không tạo được sự phát triển lan tỏa ra các ngành, làm mất cân đối trong cơ cấu kinh tế,cơ cấu sản phẩm,cơ cấu vùng kinh tế của Việt Nam. Các sản phẩm xuất khẩu của chúng ta vẫn là những mặt hàng truyền thống: dệt may, giày dép, túi xách, lâm khoáng sản, kể cả điện thoại, máy tính cũng là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Thứ hai, hầu hết các nhà đầu tư FDI vào nước ta là từ các nước châu Á, có công nghệ và kỹ thuật lạc hậu, các nước Hoa Kỳ,Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc có công nghệ tiên tiến, hiện đại lại chiếm tỷ trọng nhỏ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch – Đầu tư, 80% doanh nghiệp FDI có công nghệ trung bình, 14% công nghệ thấp và lạc hậu, 6% là công nghệ cao. Đầu tư công nghệ thấp, sai địa điểm, sai mục đích, công suất sử dụng thấp so với mức tối đa cho phép, trình độ người lao động thấp, không có khả năng tiếp thu và vận hành công nghệ hiện đại. Những nguyên nhân đó dẫn đến năng suất lao động không cao,chất lượng sản phẩm thấp,thiếu sức cạnh tranh, tất yếu dẫn đến phá sản, hoặc bị các doanh nghiệp FDI thâu tóm.
Thứ ba, FDI làm trầm trọng thêm ô nhiễm môi trường các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển. Nhằm tiết kiệm chi phí mua sắm máy móc mới, nhiều nhà đầu tư FDI đã xuất khẩu những thiết bị công nghệ lạc hậu, phát thải cao, cùng với việc không xử lý rác thải theo quy định là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường. Chúng ta còn chưa quên vụ Công ty Vedan (Đài Loan) xả thải trực tiếp ra sông Thị Vải, thì tháng 4-2016, Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà tĩnh (Đài Loan) đã gây hậu quả nghiêm trọng cho 4 tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Do vậy, nếu không thẩm định kỹ lưỡng các dự án FDI, thì nhiều thế hệ mai sau sẽ phải chịu hậu quả.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, xin có một số kiến nghị sau:
(1) Trong những năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cho kinh tế nước ta những cơ hội phát triển. Nguồn vốn FDI tiếp tục lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu và đóng vai trò quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Chúng ta đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, rất cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có FDI, nhưng phải rất chú trọng đến chất lượng các dự án đầu tư. Điều đó có nghĩa, chúng ta vẫn tiếp tục trải “thảm đỏ”, nhưng có lựa chọn nhà đầu tư và công nghệ; thẩm định kỹ lưỡng năng lực và công nghệ của nhà đầu tư, tránh tình trạng chỉ thấy lợi ích trước mắt, vì lợi ích “cá nhân, nhóm” mà cố tình bỏ qua lợi ích quốc gia.
(3) Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thu hút và quản lý FDI từ Trung ương đến địa phương. Thực tiễn những năm qua cho thấy, không ít nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự có trách nhiệm với dự án và đất nước họ kinh doanh. Cá biệt, có những tập đoàn đa quốc gia với số vốn hàng trăm triệu đôla như METRO (đã bán cho tập đoàn TCC Holding Thái Lan), PEPSI, COCA-COLA… liên tục báo lỗ, không nộp thuế thu nhập doanh nghiêp nhưng vẫn xin phép mở rộng đầu tư. Năm 2013, tại thành phố Hồ Chí Minh, hàng loạt doanh nghiệp FDI “biến mất”, trong đó 128 doanh nghiệp trong lĩnh vực gia công bỏ trốn nợ thuế, nợ lương công nhân tới 400 tỷ đồng. Do đó, các bộ, ngành, các cơ quan chức năng cần sớm hoàn thiện các quy định để quản lý một cách chặt chẽ, minh bạch, đặc biệt là cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Nhìn lại 25 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
2. Lợi nhuận của FDI “trốn” ra ngoài, chúng tôi ngày 11-4-2010.
3. Bộ kế hoạch và Đầu tư: “Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020.”
4. Kinh tế Việt Nam và Thế giới: Thời báo Kinh tế 2011-2015.
5. Báo Đầu tư 2015.
PGS, TS Võ Văn Đức
Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Kinh Doanh
Báo cáo Chỉ số thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng thế giới được công bố vào cuối năm 2016 cho biết: Môi trường kinh doanh của Việt Nam được ghi nhận có sự cải thiện mạnh mẽ nhất trong vòng một thập kỷ qua.
Theo đó, thứ hạng của Việt Nam hiện đã tăng 9 bậc, từ vị trí 91/189 quốc gia lên vị trí thứ 82 của bảng xếp hạng. Những cải thiện về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy thông điệp mạnh mẽ cùng định hướng rõ ràng, đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và Doanh nghiệp.
Đầu tiên phải kể đến việc Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị quyết 35/NQ-CP về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững. Tiếp đó là Nghị quyết 19 về các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với mục tiêu đến năm 2017 Việt Nam đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên một số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh thuộc nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhờ sự nỗ lực vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, hàng nghìn thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con bất hợp lý đã được bãi bỏ… tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Năm 2016, lần đầu tiên, số doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam đạt con số kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp. Đây là tín hiệu đáng mừng thể hiện chủ trương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp của Chính phủ đã đi đúng hướng, phấn đấu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh.
Mặc dù đã có sự chuyển biến đáng kể, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, tuy nhiên ở một số cơ quan, cơ sở và địa phương, tình hình chuyển biến còn khá chậm, hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn còn bị cản trở, gây khó khăn, thậm chí là bị sách nhiễu.
Để xảy ra tình trạng như vậy, ngoài những nguyên nhân khách quan như: trình độ năng lực của cán bộ còn yếu kém, tư duy bảo thủ trì trệ trong lề lối làm việc… thì nguyên nhân chính được chỉ tên đó là: lợi ích cá nhân và cục bộ tràn lan, sự thờ ơ vô trách nhiệm cũng như sự vào cuộc thiếu quyết liệt của các cấp, các ngành.
Đúng 13h30, buổi tọa đàm bắt đầu.
Toàn cảnh buổi tọa đàm
Tham gia tọa đàm có ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI; ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế; ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW; Ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh; Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên; Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.
Phần 1: Thực trạng tình hình cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế, VCCI – Điều phối chính buổi tọa đàm: Đối với VN, ít có giai đoạn nào môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển DN được nhắc nhiều đến như thời gian qua. Người đứng đầu Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã tổ chức nhiều buổi đối thoại với doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp, điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.
Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI
Có thể nói một không khí mới đang bao trùm trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các biện pháp nhằm phát triển DN. Xu hướng tìm ra giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thể chế đang được đẩy mạnh. Có những vấn đề gai góc như thay đổi hạn điền, bãi bỏ điều kiện kinh doanh…đã có những thay đổi lớn. Nhiều địa phương cũng đã có những biện pháp mới để thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp nhiều hơn cho địa phương. Vào tháng 4 tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ gặp gỡ doanh nghiệp. Việc tổ chức tọa đàm hôm nay cũng như việc VCCI đang triển khai thu thập nhiều ý kiến của DN để đưa ra những hành động nhằm cải thiện môi trường kinh doanh là những tín hiệu rất tích cực.
– Thưa ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW là đơn vị đầu mối thực hiện Nghị quyết 19, theo ông đâu là điểm tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết này?
Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW: Thông thường, bất kỳ cuộc cải cách nào đó cũng có 2 câu hỏi cơ bản: Làm gì, làm như thế nào? Khi xác định được phương hướng thì tổ chức thực thi, thực hiện ra sao?
Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW
Chúng ta không nên bàn nhiều về câu hỏi làm gì, làm như thế nào vì Nghị quyết 19 đã trả lời đầy đủ câu hỏi này. Nghị quyết 19 lần này đã xác định 250 giải pháp, có nghĩa là chúng ta có 250 công việc cụ thể để làm nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Không chỉ tính đến biện pháp ngắn hạn là cải thiện trực tiếp chất lượng, Nghị quyết 19 lần này còn tính đến giải pháp dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Như vậy, về mặt chủ trương, làm gì, chúng ta đã đi đúng hướng và được xác định. Vấn đề chính nằm ở chỗ chúng ta tổ chức thực thi giải pháp, biện pháp đặt ra thế nào?
Qua theo dõi 3 năm thực hiện Nghị quyết 19 và 1 năm thực hiện Nghị quyết 35, tôi cho rằng thách thức lớn nhất của chúng ta là làm thế nào để thực hiện đúng và đủ. Hiện, tôi vẫn chưa nhìn thấy việc thực hiện có chuyển biến. Cho đến năm 2017, chúng ta mới đạt được chuyển biến về nhận thức. Còn lại, kết quả đạt được còn hạn chế, còn khoảng cách rất lớn so với kỳ vọng của doanh nghiệp và cộng đồng xã hội.
Theo quan sát của tôi, trong thời gian sắp tới chúng ta sẽ gặp thách thức lớn, bởi để đạt được mục tiêu thì chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Nếu cứ duy trì cải cách đều thì thì chúng ta không thể có bước tiến, thậm chí còn có bước đi lùi.
– Từ góc nhìn của mình, TS Nguyễn Minh Phong đánh giá như thế nào về việc tạo dựng môi trường kinh doanh? Đã đạt yêu cầu chưa? Nếu lấy thang điểm 10, ông sẽ đánh giá như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế
TS Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế: Đây là câu hỏi rất hay nhưng cũng rất khó. Tôi đồng tình với ý kiến chia sẻ của anh Hiếu. Tôi bổ sung thêm hai câu hỏi: thứ nhất là mục tiêu của cải cách, hỗ trợ DN và Cách thực hiện như thế nào?
Về mục tiêu cải cách, tôi cho rằng giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn cực kỳ quan trọng bởi thời điểm này đã kế thừa những gì của giai đoạn trước đó, DN đổ vỡ hàng loạt, áp lực hội nhập rất lớn và đặt ra yêu cầu phải quyết liệt cải cách với các mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu thứ nhất là giảm thiểu gánh nặng cho DN, trong đó giảm thuế, tài chính; chi phí vốn cho DN (lãi suất, điều kiện tiếp cận, yêu cầu thế chấp); thể chế của DN – một gánh nặng tồn tại dai dẳng đối với DN.
Mục tiêu thứ hai là hội nhập quốc tế.
Do đó, chúng ta phải chủ động thích ứng với việc đưa ra các định hướng, quy định theo thông lệ quốc tế. Đây là cái đích để xây dựng cho phù hợp.
Mục tiêu thứ ba và đồng thời cũng là cách làm đó là chúng ta chuyển từ một Nhà nước – nhà đầu tư trở thành 1 Nhà nước kiến tạo, pháp quyền, hành động, liêm chính hỗ trợ cho DN. Chính phủ trong suốt 4 năm qua từ 2011-2016 đều rất nhất quán. Việc đưa ra các Nghị quyết 19 lặp lại 4 lần, nghị quyết 35, các chỉ thị… tạo điểm nhấn, khác biệt và thể hiện quyết tâm nhất quán.
Về kết quả: Rõ ràng về mặt chấm điểm, các tổ chức trong và ngoài nước đều đánh giá là tốt hơn, tiêu biểu là WB và Diễn đàn kinh tế thế giới. Ở góc độ Luật, những ghi nhận trong pháp lý được rõ hơn. Người đứng đầu Chính phủ và hệ thống quản lý Nhà nước đã tỏ ra quyết tâm chính trị cao. Do vậy, chưa bao giờ tâm lý hứng khởi và niềm tin đầu tư vào Việt Nam được thể hiện rõ như vậy.
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải thận trọng bởi: Đội ngũ cán bộ thừa hành vẫn như vậy cả về chất lượng, lợi ích nhóm vẫn còn, chưa có nhiều thay đổi trong cải cách tiền lương… , thậm chí các Nghị quyết Chính phủ mới được chép lại vào các chương trình hành động ở địa phương, chứ chưa được cụ thể hoá thành các dự án, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện.
Chất lượng của các văn bản pháp lý chưa phải là cao, hiện tượng chậm trễ, copy paste… vẫn còn tồn tại. Thậm chí, các chỉ số bôi trơn và tham nhũng còn rất nặng, với trên 80% DN buộc phải bôi trơn và Việt Nam hiện đứng thứ 2 về tham nhũng nhất Châu Á chỉ sau Ấn Độ theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch thế giới. Nếu chấm điểm, về pháp lý tôi chấm 7 điểm nhưng về thực tiễn tôi chấm 5 điểm.
– Thưa ông Nguyễn Văn Thời, tại các tỉnh đều có Chương trình hành động về NQ 19 và NQ 35, từ góc nhìn của một doanh nghiệp địa phương đang hoạt động, anh cho biết những cảm nhận, đánh giá về môi trường kinh doanh ở địa phương, các doanh nghiệp của tỉnh Thái Nguyên có ý kiến gì môi trường kinh doanh?
Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên.
Ông Đậu Anh Tuấn: Những câu chuyện ông Thời đưa ra tại địa bàn Thái Nguyên đã chuyển tải những thông điệp rất ý nghĩa. Vừa qua Chính phủ đã đưa ra những quyết sách từ những yêu cầu thực tiễn. Trước đây chính quyền địa phương không quan tâm lắm nhưng từ khi có PCI thì chính quyền đã có những hành động thiết thực nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Hay như Nghị quyết 35 cũng xuất phát từ thực tiễn khi trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng và DN, nhiều DN đã đưa ra nhiều khúc mắc mà DN đang gặp phải…
– Nghị quyết 35 cũng có đề cập đến vấn đề Lãnh đạo tỉnh phải thường xuyên đối thoại với doanh nghiệp trong năm, tôi muốn đặt câu hỏi với ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, vậy trong bối cảnh này, các doanh nghiệp tư nhân có bị mất lợi thế không? Làm thế nào để doanh nghiệp tư nhân có được tiếng nói đối với lãnh đạo tỉnh?
Ông Nguyễn Nhân Phượng, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Ngay sau khi có Nghị quyết, Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp. Hội nghị đã quyết định thành lập tổ công tác giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Lần đầu tiên sau 10 năm hoạt động, Hiệp hội DN tỉnh Bắc Ninh được tỉnh tạo điều kiện đến việc giải quyết khó khăn, kiến nghị. Cụ thể, Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo: Các sở, ban ngành phải trả lời tất cả những kiến nghị, khó khăn vướng mắc của DN từ Hiệp hội bằng văn bản. Đây là điểm rất mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, tránh tình trạng lảng tránh hoặc chỉ trả lời bằng miệng như trước đây.
Bắc Ninh có nhiều DN nước ngoài đầu tư, hoạt động trên địa bàn tỉnh, Hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị với tỉnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm công nghiệp phụ trợ và cung cấp các dịch vụ nhà ở, ăn nghỉ,…phục vụ cho người nước ngoài.
Việc cung cấp các dịch vụ hiện đã thực hiện tốt, các doanh nghiệp đã được tham gia. Tuy nhiên, về công nghiệp phụ trợ hiện còn khó khăn. Bởi riêng việc DN gặp gỡ được người có quyền trong DN nước ngoài đã là rất khó khăn, đa phần chỉ thông qua đại diện người Việt, mà người Việt thường đã có những mối làm ăn của người Việt rồi, khó để DN tỉnh tham gia vào. Do đó, việc gắn kết và quan hệ giữa DN trong địa bàn tỉnh với DN nước ngoài còn khó khăn. Đặc biệt, thực hiện Nghị NQ 35, sau khi thực hiện tổ công tác, tỉnh Bắc Ninh đã thành lập đề án “Bác sĩ doanh nghiệp”. Thậm chí, những khó khăn của doanh nghiệp có thể báo trực tiếp đến chủ tịch tỉnh. Đây là việc làm có tác dụng tốt.
DN trên địa bàn còn gặp khó về thủ tục hành chính. Cụ thể, DN phải thực hiện một “chặng đường dài” của những thủ tục. Ví dụ 1 DN có thủ tục xin đất được chủ tịch tỉnh đồng thuận, mà đây lại là dự án xử lý nước thải và chuyển đổi từ đất công mà cũng mất đến 1 năm dài để thực hiện cấp đất. Trong rất nhiều biện pháp Nhà nước đề ra, khó nhất với DN vẫn là vấn đề đất. Nhà nước nếu đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp giải phóng mặt bằng thì sẽ đơn giản hơn. Nhưng Nhà nước lại “đá bóng” sang chân DN, mà DN tự thỏa thuận với dân là việc vô cùng khó khăn. Vì vậy, tôi mong nhà nước có chính sách giúp đỡ DN, để hiện thực hóa mục tiêu 1 triệu DN của Thủ tướng CP.
Chúng ta muốn phát triển DN mà không có đất thì phát triển vào đâu. Nếu để từng DN xin thuê ở địa phương sẽ thành manh mún sau xử lý môi trường rất khó, thậm chí một số dự án giao DN đền bù nhưng nhiều yếu tố dẫn đến viêc không thể thực hiện dự án.
Chúng tôi rất mong Nhà nước, Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Công thương cùng giúp sức cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn sau khi có đơn thì chậm nhất là 3 tháng cơ quan nhà nước cấp huyện có thể có quyết định cho chúng tôi. Nếu có 1 đơn vị dịch vụ giúp DN làm thủ tục thì tiến trình phát triển DN sẽ nhanh lên. Còn thủ tục hành chính là cả 1 chuỗi nên dẫn đến chậm trễ cho tiến độ triển khai dự án của DN.
Từ thực trạng trên, tôi xin đề xuất các ngân hàng cần có chính sách hỗ trợ cho DN, đối ứng vốn cho DN vay vốn, đầu tư vốn vay khi DN có dự án tốt và khả thi. Cụ thể, khi DN có 30% vốn, các đơn vị tín dụng, ngân hàng nên quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ tạo nguồn vốn cho DN triển khai dự án.
– Ở góc độ của một doanh nghiệp, ông Hoàng Trần Hiếu, Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu có những đánh giá gì về môi trường kinh doanh trong năm qua?
Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.
Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Là một doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm sạch, chúng tôi đánh giá Nghị quyết 35 của Chính Phủ đã mang lại lợi thế cho DN trẻ. Tuy nhiên đi vào đầu tư cho lĩnh vực này, chúng tôi thấy nảy sinh một số vấn đề về nguồn cung và cầu. Cụ thể, nhu cầu thực phẩm sạch cao, nguồn cung cao nhưng lại tồn tại mức mong muốn. Về phía DN, để cung cấp được thực phẩm sạch, chúng tôi phải đầu tư sản xuất, đầu tư kinh doanh. Về phía người tiêu dùng có thể bỏ nhiều tiền để mua thực phẩm sạch nhưng không có căn cứ để xác định thực phẩm đó sạch và bản thân người nông dân cũng không tự tin để cam kết cung cấp dài hạn thực phẩm sạch bởi làm thực phẩm sạch cần phải đầu tư cao.
Để giải quyết vấn đề này, tôi nghĩ cần sự vào cuộc của Chính phủ định hướng, tổ chức giúp DN, người nông dân hay nhà sản xuất sản xuất tập trung, quy mô hơn. Và để làm được điều này, tôi cho rằng, lợi ích, đạo đức và luật pháp và là 3 yếu tố luôn đồng hành và cần đồng bộ với nhau. Hiện nay, thủ tục hành chính đã có thay đổi và đi vào thực tế. Tuy nhiên, nhà nước sẽ quản lý vĩ mô còn việc thực hiện cụ thể cần có các Hiệp hội, tổ chức tiêu dùng.
Ông Nguyễn Văn Thời: Hiện nay, các rào cản đối với DNVVN vẫn đang còn như: Việc áp dụng bộ luật thuế với DNVVN như hiện tại không hợp lý. Hơn nữa, đăng ký kinh doanh đã có đăng ký điện tử rồi nhưng nếu có quy trình, phần mềm thống nhất thì tốt hơn. Một số DN không hiểu rõ về việc đăng ký kinh doanh điện tử, nên có DN làm, DN không làm. Do vậy, cơ quan quản lý cần đưa ra chế tài bắt buộc đăng ký kinh doanh phải điện tử thì sẽ nó thành mệnh lệnh và buộc các DN phải làm.
Bên cạnh đó, cơ chế một cửa cũng xuất phát từ việc ban hành chính sách nhưng không quy định cụ thể. Ví như trong cuộc họp, các lãnh đạo Sở ngành không họp cùng DN mà để cho thư ký đi, sau đó thư ký gửi lại biên bản họp cho lãnh đạo tỉnh xem xét. Chính việc lòng vòng này khiến DN phải đợi, mất nhiều thời gian. Thiết nghĩ, nên có chế tài phạt những đơn vị thực hiện không tốt.
Phần 2: Các giải pháp giúp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
Qua quan sát của địa phương cho thấy chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về cơ chế chính sách đã có thể tạo thuận lợi cho DN rất nhiều. Xin hỏi ông Phan Đức Hiếu về việc đơn giản hóa thủ tục kinh doanh?
Hiện nay, những địa phương tích cực đang xử lý vấn đề một cách rất cơ học. Cụ thể, với mục tiêu như vậy, họ ép cơ học đối với các cơ sở, phòng ban hoàn thành bằng cách nhanh nhất…. Như vậy rất áp lực và tốn kém nhân sự. Tôi cho rằng về lâu dài, nhà nước phải rút dần và trao lại quyền cho xã hội, đặc biệt là các hiệp hội doanh nghiệp. Hiện, nhiều địa phương tổ chức đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhưng đối thoại vẫn mang tính hình thức, chưa hiệu quả, nhiều kiến nghị không được xử lý. Theo tôi, chúng ta nên giao cho một cơ quan độc lập tổ chức buổi đối thoại. Cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp kiến nghị của doanh nghiệp và cập nhật các giải pháp của chính quyền. Mọi doanh nghiệp có kiến nghị đều được giải quyết như nhau.
Đối với các địa phương chưa tích cực, không tích cực, cần tạo ra một môi trường làm việc minh bạch, công bằng trong việc đánh giá hiệu quả của công chức. Có như vậy mới thu hút được những công chức có tâm vào làm việc, tránh tình trạng đặt người không đúng chỗ.
Tôi thấy hiện nay duy nhất chỉ có VCCI là có 1-2 chỉ số là đánh sát, giám sát quá trình thực thi. Con số này quá ít, cần phải tăng cường vai trò của xã hội để tăng cường phản biện xã hội. Hiện, phản biện của doanh nghiệp còn rời rạc, thiếu chuyên nghiệp. Ở nước ngoài, bản kiến nghị của doanh nghiệp thường mang tính xây dựng rất cao, là tập hợp ý kiến của nhiều doanh nghiệp về các nhóm vấn đề. Vì vậy, tôi kêu gọi các hiệp hội doanh nghiệp, các địa phương nên tập hợp lại với nhau, hành xử một cách chuyên nghiệp để gia tăng sức ép đối với nhà nước. Có như vậy, các kiến nghị của doanh nghiệp mới có cơ hội được giải quyết, qua đó cải thiện được môi trường kinh doanh tại các địa phương.
– Thưa ông Nguyễn Minh Phong, ông có thấy sự chuyển động chưa đồng đều ở các bộ ngành hay không trong việc thực hiện NQ 19 và NQ 35?
Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Minh Phong
Tôi cho rằng, độ chuyển động có đồng đều hay không phụ thuộc vào quy chuẩn và quy trình được đưa ra. Ví dụ có địa phương đưa ra một số quy định rất là tốt và được ban hành thực hiện từ trên xuống dưới như: với một vấn đề nếu quá 3 ngày không có phản hồi thông tin thì coi như là đồng ý; đi họp thay thì ý kiến phát biểu đại biểu chính là là ý kiến của Giám đốc Sở.
Thực tế ghi nhận những thành tựu thấy rõ: thời gian nộp thuế giảm, điện tử hoá rất nhiều…đặc biệt ở một số địa phương và Hà Nội đã xây dựng được bộ tiêu chí điện tử rất cao. Chính điều này góp phần giảm thiểu thời gian của Nhà nước và tạo điều kiện hỗ trợ cho DN.
Ngành Thuế đã có sự cải thiện rất tốt từ 28% xuống 20%. Thậm chí nhiều DN còn cho rằng cải tiến như thế là được rồi. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực khác như đất đai chẳng hạn sẽ gặp khó khăn hơn. Do đó, khi chấm điểm chỉ số cũng phải xem xét đối với từng lĩnh vực và mức độ khó khăn riêng để đánh giá mức độ chuyển động. Tôi cho rằng mức độ đồng đều còn phụ thuộc vào trách nhiệm của người đứng đầu. Nếu họ có chế tài lớn, chiến dịch cao điểm như bầu cử thì mức độ chuyển động cũng khác nhau.
Tôi cho rằng có 4 vấn đề ảnh hưởng đến xu hướng, tốc độ và kết quả thực tế của những chuyển động về cải cách. Thứ nhất là nội dung yêu cầu và lộ trình hội nhập. Thứ hai là vai trò của người đứng đầu thực sự quan trọng. Nếu người đứng đầu (Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, Bí thư…) nghiêm túc và trực tiếp chỉ đạo thì có sự đẩy nhanh trong việc thực hiện. Thứ ba là xây dựng về quy trình khi được chuẩn hoá, thể chế hoá sẽ đi vào hành động. Thứ tư là dựa trên nền tảng phát triển công nghệ thông tin để quản lý dữ liệu thông tin trong tỉnh và trên cả nước.
Ông Đậu Anh Tuấn: Ông Phong có nhắc đến cải cách của ngành thuế. Vừa qua tôi có tham dự một hội thảo về vấn đề này. Điều tôi bất ngờ là khi Bộ Tài chính sử dụng điều tra sự hài lòng của DN về cải thiện ngành thuế đều phải công khai, xây dựng nhật ký điện tử khi đến làm việc với DN…Tôi cũng rất bất ngờ với quy định thanh tra công vụ và không công nhận tranh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nếu phát hiện có chi phí bôi trơn…Hy vọng những chỉ đạo, quy định này sẽ được thực hiện trong thời gian tới.
– Trong Nghị quyết 35 có nội dung phải cắt giảm chi phí cho DN, ông Nguyễn Văn Thời có đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu của VN như thế nào? Có cách nào để cắt giảm chi phí kinh doanh cho DN trong thời gian tới?
Tuy nhiên để đạt được điều kiện của Thông tư 72 thì DN phải tốt thực sự. Còn nếu đánh giá chung về mặt xu hướng, thì xu hướng chi phí giảm là rõ ràng. Ví dụ như ngành thuế áp dụng hoàn thuế điện tử, theo đó nếu DN có đủ chứng từ kê khai thì tiền về ngay, không bị tồn đọng. Đây cũng là chi phí giảm. Còn các thủ tục hành chính thì khi có Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 và các chỉ thị, nghị quyết riêng của tỉnh thì rất tốt cho DN. Chi phí đầu vào, chi phí gia nhập thị trường cho DN đã giảm rõ rệt.
– Một trong những xu hướng và đã được các địa phương tổ chức khá tốt như xây dựng trung tâm tỉnh, cắt giảm TTHC, việc này đã tạo động lực cho lãnh đạo địa phương. Xin hỏi ông Hiếu, với DN trẻ, việc chuyển động ấy đã làm hài lòng DN?
Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Nghị quyết 35 có đề cập đến vấn đề giảm chi cho DN. Về mặt chủ trương điều này rất có lợi cho DN từ chính sách về thuế, lương theo năng suất lao động, phí đường bộ,…Nhưng yếu tố quan trọng nhất tôi nghĩ đó là giảm phí cơ hội thời gian và thủ tục hành chính. Tôi rất quan tâm tới yếu tố thời gian 48h của anh Phượng, việc giảm chi và “quy trình 3-5 ngày”, “1 dừng” của anh Phong vừa đề cập. Về chủ trương, đứng ở góc độ doanh nghiệp tôi rất hài lòng.
– Năm ngoái tôi có tham gia một hội đồng đo thời gian giải phóng hàng và thấy tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng tương đối ít. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng dưới 48 giờ thì chỉ có 38,5% lô hàng được giải quyết. Điều này cho thấy việc rút ngắn thời gian thông quan vẫn còn lớn. Tôi muốn hỏi ông Phượng, với doanh nghiệp đang hoạt động, ông đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh trong thời gian vừa rồi, làm thế nào để cắt giảm hơn nữa?
Ông Nguyễn Nhân Phượng: Nói về chi phí kinh doanh, đối với doanh nghiệp chúng tôi quan tâm nhất đến là chi phí thời gian. Để giảm được chi phí, trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp đều chú trọng tới đổi mới công nghệ bởi việc đổi mới công nghệ giúp làm tăng năng suất lao động, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng sức cạnh tranh. Song song với đó là chi phí đối với lao động, thị trường lao động hiện rất được quan tâm. Trong đó, DNNVV cũng song song cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về lực lượng lao động, kéo theo chi phí lao động tăng lên. Nhưng bản thân doanh nghiệp luôn xác định đó là chi phí thiết yếu và vẫn được duy trì bởi chi phí lao động tăng sẽ nâng cao được chất lượng và năng suất sản phẩm, như vậy vẫn đảm bảo sự phát triển cho doanh nghiệp và giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng
– Vậy giải pháp như thế nào để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35?
Ông Nguyễn Văn Thời: DN chúng tôi đang tự thân đề xuất, tự thân kiến nghị. Chúng tôi có thể tiếp cận những DN phát triển nhất trên thế giới, sau đó chúng tôi cũng mày mò, học tập và làm theo. Ngành may đã xây dựng chương trình kiến nghị để báo cáo chủ tịch nước. Từ đó nhà nước ban hành chính sách. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của ngành dệt may hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sản phẩm, mẫu mã tốt nhất, trong khi nguyên liệu kém. Để ngành dệt may dần dần phát triển, từng DN phải đặt ra lộ trình xây dựng thương hiệu trong nước và tiến ra nước ngoài. Chính vì mục tiêu như vậy mà thấy vướng mắc gì chúng tôi kiến nghị Nhà nước cái đó Những năm tới chúng tôi cần cơ quan quản lý ra “thước đo”, Hiệp hội DN và VCCI sẽ là người “đo” kết quả hoạt động, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển.
Ông Hoàng Trần Hiếu: Phải chuyển từ việc chủ động của Nhà nước đối thoại với doanh nghiệp thành việc đề xuất của tổ chức nghề nghiệp, doanh nghiệp gặp gỡ cơ quan Nhà nước. Có thể là đối thoại trong phạm vi nhỏ, giúp doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ và đề xuất với cơ quan chức năng. Đặc biệt, để NQ 35 đi vào đời sống phải chú trọng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu từ phía các Hiệp hội và cơ quan Nhà nước. Phải có cơ chế giám sát và kiểm điểm với người đứng đầu các đơn vị này.
Ông Nguyễn Minh Phong: Chúng tôi tin rằng sắp tới tinh thần nghị quyết 19, nghị quyết 35 sẽ tiếp tục được lặp lại, thậm chí ở mức độ cao hơn với tinh thần Chính phủ kiến tạo. Do đó, vấn đề làm thế nào để tăng hiệu quả vẫn sẽ phải tiếp tục. Như tôi đã nói từ đầu với những kết quả thực hiện bước đầu, chúng ta hãy bám vào đó để thực hiện tiếp. Các cấp, ngành, VCCI cần chủ động rà soát lại cái văn bản hội nhập để xây dựng và tạo thuận lợi cho DN. Chính phủ cần họp định kỳ và những nội dung của nghị quyết phải được đưa ra để nghe, báo cáo và kịp thời giải quyết cho DN. Bên cạnh đó, xác lập tốt hơn vai trò của người đứng đầu (Thủ tướng, Quốc hội, Bộ trưởng…) để có răn đe thực sự mạnh mẽ tạo ra sức ép mạnh cho người thừa hành; đồng thời sẽ lan toả tới từng nhân viên thấp nhất. Và chỉ khi nào sự lan toả này tới được tới người cuối cùng thì mới giải quyết được vấn đề. Đồng thời, xây dựng được hệ thống thông tin, tiện cho tiếp cận và chia sẻ thông tin, khiếu nại đơn, kêu cứu của DN và được truyền tải trực tiếp thì những điểm cần phải gỡ sẽ nhận diện rất nhanh. Ngoài ra, vai trò của cơ quan báo chí, thanh kiểm tra, hiệp hội, quần chúng… là rất quan trọng. Nếu nhìn ở cấp độ khái quát có 3 việc phải làm: thứ nhất, xây dựng giá trị chuẩn quốc gia cho bộ, ngành, doanh nghiệp khi đó mới tạo ra thước đo đúng để nhận diện những cái sai loại bỏ. Thứ hai, xây dựng cơ chế tốt bảo vệ tốt lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Thứ ba, xây dựng một đội ngũ cán bộ.
Ông Đậu Anh Tuấn: Tôi đồng tình với quan điểm từ thực tiễn của anh Thời. Theo tôi muốn thay đổi việc gì đều phải có động lực. Đề xuất của anh Thời khiến tôi nhớ đến câu nói của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Cái gì không đo được tức là không cải cách mạnh mẽ được”. Đây là đòi hỏi cơ quan chiến lược như anh Hiếu đó là cần những thước đo cụ thể.
Nhóm PV
Thu Hút Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Ở Việt Nam Trong Giai Đoạn Hậu Đại Dịch Covid
Theo bảng xếp hạng sức khỏe tài chính của 66 nền kinh tế mới nổi của The Economist (2020), Việt Nam đứng thứ 12, thuộc nhóm an toàn sau đại dịch Covid – 19, các chỉ số tài chính ổn định.
Đây là cơ hội lớn để Việt Nam thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong bối cảnh các tập đoàn đa quốc gia đang tìm kiếm những điểm đến an toàn để thiết lập lại cơ sở sản xuất sau đại dịch Covid – 19.
Thuộc nhóm an toàn sau đại dịch covid-19 là cơ hội lớn để Việt Nam là điểm đến an toàn thu hút FDI
Phát biểu kết luận cuộc họp Chính phủ tháng 5/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ: “Nếu Việt Nam không thu hút được đầu tư, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, thì không bao giờ thành công”. Có thể thấy, việc mở cửa thu hút vốn FDI đã và đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, trong những năm vừa qua, bên cạnh những đóng góp tích cực, FDI đã có nhiều vấn đề bất cập như gia tăng ô nhiễm môi trường, áp đảo doanh nghiệp trong nước, ít sử dụng nhân sự tại chỗ, ứng dụng chuyển giao công nghệ thấp… Vấn đề thu hút vốn FDI chưa xứng tầm với tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Bài viết đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2019, từ đó, đề xuất các giải pháp thu hút vốn FDI của Việt Nam trong thời kỳ hậu đại dịch Covid -19. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung giải quyết ba vấn đề, bao gồm: (i) Cơ sở đánh giá kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp; (ii) Thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2010 – 2019; (iii) Cơ hội và thách thức trong việc thu hút vốn FDI trong giai đoạn hậu Covid – 19. Trên cơ sở đó, tác giả có đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả thu hút vốn FDI vào Việt Nam.
1. Cơ sở đánh giá kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp
FDI được định nghĩa là: “Việc đầu tư dài hạn gắn liền với lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một chủ thể đầu tư ở một quốc gia này (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty mẹ) vào một công ty ở một quốc gia khác (công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty con)” (UNCTAD, 2012).
Tại một quốc gia, việc thu hút vốn FDI được đánh giá thông qua kết quả thực tiễn thu hút và thực hiện FDI, bao gồm các chỉ tiêu như sau: Quy mô vốn, quy mô vốn dự án và cơ cấu vốn.
1.1. Quy mô vốn
Theo World Bank (2016), quy mô vốn là tổng số vốn góp bằng tiền hoặc tài sản hợp pháp, lợi nhuận để lại và các hình thức vốn khác của nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Căn cứ trên cách thức thực hiện, quy mô vốn FDI được phân loại thành: quy mô vốn đăng ký và quy mô vốn thực hiện.
Quy mô vốn đăng ký
Quy mô vốn đăng ký là số vốn do nhà đầu tư nước ngoài đăng ký đưa vào nước chủ nhà để thực hiện đầu tư trực tiếp, thể hiện tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành lập và hoạt động theo pháp luật chuyên ngành), Thông báo về việc đáp ứng điều kiện góp vốn, mua cổ phần, mua lại phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài, hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tài liệu khác chứng minh việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật.
Quy mô vốn đăng ký thể hiện sự kỳ vọng, niềm tin của nhà đầu tư và mức độ thu hút, hấp dẫn của nước chủ nhà.
Quy mô vốn thực hiện
Quy mô vốn thực hiện thể hiện hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, cơ chế quản lý nhà nước, hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật.
1.2. Quy mô vốn dự án
Quy mô vốn dự án là tỷ lệ giữa Quy mô vốn và số lượng dự án. Đây là chỉ tiêu đánh giá độ lớn của của các dự án FDI tại nước tiếp nhận vốn. Quy mô vốn dự án càng lớn thể hiện nhà đầu tư đã tiếp tục duy trì và phát triển số lượng vốn đầu tư ở nước sở tại trong bối cảnh chính sách, môi trường, pháp luật hiện có, thể hiện phản ứng tích cực của nhà đầu tư và ngược lại.
1.3. Cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là khái niệm dùng để miêu tả tỷ trọng các loại nguồn vốn đầu tư một quốc gia, thể hiện xu hướng phát triển của dòng vốn FDI. Để đánh giá cơ cấu vốn, một số chỉ tiêu thường được dùng như sau:
– Hình thức đầu tư:
Là hình thức mà nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào nước chủ nhà, gồm:
+ Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài, là hình thức truyền thống và phổ biến của FDI;
+ Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay;
+ Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. Hình thức đầu tư này bao gồm cung cấp thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, kỹ năng, quy trình;
+ Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài;
+ Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp.
– Lĩnh vực đầu tư:
Là các lĩnh vực mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quốc gia chủ nhà. Tại Việt Nam, lĩnh vực đầu tư được chia thành các nhóm ngành nghề sau: Công nghệ cao; Công nghệ thông tin; Công nghệ hỗ trợ; Nông nghiệp; Bảo vệ môi trường; Xây dựng kết cấu hạ tầng; Giáo dục; Văn hóa; Xã hội; Thể thao, Y tế; Khoa học Công nghệ; Điện tử; Cơ khí; Sản xuất Vật liệu; Ngành nghề khác. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, ngành công nghệ thông tin, công nghệ cao, công nghệ hỗ trợ, cơ khí, y tế, giáo dục và đào tạo là những lĩnh vực được ưu tiên thu hút nguồn vốn FDI.
2. Thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2010 – 2019
Trong giai đoạn 2010 – 2019, nguồn vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng tăng về số lượng dự án, số vốn đăng ký và số vốn thực hiện, nhất là, trong giai đoạn 2016 – 2019, được mô tả ở hình 1.
2.1. Quy mô vốn
Quy mô vốn đăng ký và quy mô vốn thực hiện của nguồn vốn FDI có sự tương đồng với quá trình hội nhập và sự điều chỉnh về chính sách mở cửa thu hút vốn FDI của Việt Nam.
Về vốn đăng ký, tính đến năm 2019, 3.883 dự án đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam với vốn đăng ký là 38.020 triệu USD, tăng 214% số lượng dự án đăng ký và tăng 91,2% số vốn đăng ký so với năm 2010. Về vốn thực hiện, 20.380 triệu USD đã được thực hiện đầu tư vào Việt Nam, tăng 85,3% so với năm 2010 và là số vốn thực hiện cao nhất trong giai đoạn 2010 – 2019.
Quy mô vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2019 được chia làm 2 giai đoạn như sau:
– Giai đoạn 2010 – 2014: giai đoạn này có số lượng dự án tăng lên đều, cụ thể số lượng dự án chỉ giảm 4% ở năm 2011, sau đó, tăng đều đến năm 2014 với mức tăng từ 8% đến 20%. Tuy nhiên, quy mô vốn lại có xu hướng dao động mạnh, không ổn định. Đây là giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008, tăng trưởng kinh tế khó khăn, dòng vốn biến động, thất nghiệp gia tăng… Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới nói chung và các quốc gia đang phát triển nói riêng gặp nhiều khó khăn. Kinh tế thế giới sau khi tăng trưởng đạt mức 5,1% năm 2010 thì giảm mạnh về 3,9% năm kế tiếp và đến năm 2014 là 3,6%. Mức tăng trưởng này thấp hơn mức bình tăng trưởng trung bình 5% ở giai đoạn trước khi khủng hoảng xảy ra. Ở các nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này diễn ra chậm, dao động từ 4,7% đến 7,3% trong giai đoạn này. Đây là nguyên nhân chính làm ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn FDI đầu tư vào các quốc gia, trong đó có Việt Nam. (Hình 2).
+ Năm 2015: Việt Nam kết thúc đàm phán 4 hiệp định tự do thương mại (FTA) với Liên minh kinh tế Á – Âu, Liên minh Châu Âu, Hàn Quốc và các đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đưa tổng số các FTA mà Việt Nam tham gia lên 14. Bên cạnh đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được hình thành từ ngày 31/12/2015 là nền tảng để giúp Việt Nam có nhiều thuận lợi trong tiến trình hội nhập; Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực.
+ Năm 2016: Việt Nam đăng cai tổ chức thành công các hội nghị cấp cao ACMECS – 7, CLMV – 8, WEF Mekong, tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế.
+ Năm 2017: Việt Nam tổ chức thành công Tuần lễ APEC 2017, đưa Việt Nam trở thành tâm điểm chú ý của thế giới.
+ Năm 2018: Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), là Hiệp định thương mại tự do lớn thứ ba trên thế giới.
+ Năm 2019: Việt Nam và EU ký Hiệp động thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA); Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
2.2. Quy mô vốn dự án
Khác tốc độ tăng trưởng của quy mô vốn, quy mô vốn dự án bình quân có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2010 – 2019. Quy mô vốn dự án đăng ký bình quân năm 2019 đạt 9,8 triệu USD, giảm 39% so với năm 2010. Quy mô vốn dự án thực hiện bình quân năm 2019 đạt 5,25 triệu USD, giảm 41% so với năm 2010. Quy mô vốn dự án bình quân có giá trị nhỏ nhất trong giai đoạn 2010 – chúng tôi thống kê của Tổng cục Thống kê (2020), trong năm 2019, nhiều dự án FDI có quy mô nhỏ dưới 1 triệu USD, thậm chí có dự án có giá trị 20.000 USD. Những dự án nhỏ thường đi kèm với công nghệ lạc hậu, nhất là khi thị trường Trung Quốc – nước láng giềng của Việt Nam – đang có xu hướng giảm thiểu công nghệ cũ ra khỏi lãnh thổ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI nhỏ thường là doanh nghiệp vệ tinh, chuyên cung ứng nguyên liệu cho tập đoàn lớn ở nước ngoài, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
2.3. Cơ cấu vốn
Hình thức đầu tư
Nếu như những năm trước đây, hình thức đầu tư của các dự án FDI theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ cao thì trong những năm trở lại đây, xu hướng đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp (M&A). Trong năm 2015 và 2016, lần lượt trên 86% và 80% các dự án FDI được cấp phép được thực hiện dưới hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm tiếp sau đó, hoạt động M&A được các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng hơn, cụ thể: năm 2017, chiếm 17,02%; năm 2018, chiếm 27,78%; năm 2019, chiếm 56,4% tổng vốn đăng ký. Đây là dấu hiệu tích cực cho nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Bằng cách mở rộng liên doanh, cổ phần với nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường cơ hội tiếp thu công nghệ cao, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý thông qua đầu tư, sản xuất – kinh doanh trực tiếp với chi phí thấp hơn so với các hình thức đầu tư khác.Có hai nguyên nhân chính cho vấn đề này, bao gồm: (i) Quy mô doanh nghiệp trong nước đáp ứng nguồn cung cho M&A; (ii) Chính sách mở cửa của Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây có hiệu quả, nhất là chủ trương nới “room” cho nhà đầu tư nước ngoài.
Lĩnh vực đầu tư
Trong giai đoạn 2011 – 2019, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo được các nhà đầu tư nước ngoài tập trung nguồn vốn FDI lớn nhất, chiếm từ 44% đến 69,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đây cũng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đăng ký cả về đăng ký vào các dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng và góp vốn, mua cổ phần. Năm 2019, nguồn vốn FDI đầu tư tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng số vốn đạt 24,56 tỷ USD, chiếm 64,6% tổng vốn đầu tư đăng ký, nâng tổng số vốn đầu tư lũy kế vào lĩnh vực này là 214,2 tỷ USD, chiếm 59,1% tổng vốn đầu tư.
Lĩnh vực kinh doanh bất động sản và lĩnh vực sản xuất phân phối điện thay phiên là lĩnh vực được đầu tư nguồn vốn FDI lớn thứ hai trong giai đoạn 2011 – 2019. Đối với lĩnh vực phân phối điện, trong các năm 2011, 2013, 2015, 2017, tổng vốn đầu tư chiếm từ 9% đến 23,3% tổng nguồn vốn đầu tư đăng ký, đứng sau lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong các năm 2012, 2014, 2018, 2019, lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ hai về nguồn vốn FDI đầu tư, chiếm từ 9,4% đến 14,2% tổng nguồn vốn đầu tư đăng ký. Riêng năm 2016, lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đứng thứ hai với 505 dự án cấp mới, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần là 1,899 tỷ USD, chiếm 7,79% tổng vốn đầu tư đăng ký. Các hoạt động chuyên môn khoa học, thông tin và truyền thông… cũng là những lĩnh vực được nhà đầu tư quan tâm.
Trong khi đó, số dự án đăng ký trong ngành nông, lâm, thủy sản vẫn ít và chiếm tỷ trọng vốn rất thấp trong tổng vốn đăng ký theo các năm. Năm 2019, ngành nông nghiệp, thế mạnh của Việt Nam, có vốn đầu tư FDI thấp, đạt 0,26% tổng vốn đăng ký. Điều này thể hiện nhà đầu tư nước ngoài chưa thật sự bị hấp dẫn bởi các ngành nghề này.
Việc vốn FDI tập trung vào ngành chế biến, chế tạo, đòi hỏi kỹ năng thấp. Nguyên nhân nhà đầu tư nước ngoài muốn tận dụng nhân công giá rẻ tại Việt Nam và tăng cường thị trường nội địa. Bên cạnh đó, nguồn lao động, công tác đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ công nghệ còn nhiều hạn chế. Do đó, khả năng tiếp cận và hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Theo IMF, tiêu chí thu hút vốn FDI tốt là: “Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào khu vực chế tác, thuộc công nghệ cao, đầu tư dài hạn”. Từ đó, có thể thấy chất lượng nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay của Việt Nam là chuyển sang định hướng đổi mới, khoa học, sáng tạo trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ như hiện này.
3. Cơ hội và thách thức trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn hậu Covid – 19 tại Việt Nam
Xuất phát từ những bất an về cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và dịch Covid – 19 mà đến nay, Trung Quốc vẫn chưa kiểm soát được, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện di dời chuỗi sản xuất ra khỏi Trung Quốc nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh được ổn định và phát triển. Trong đó, 80% doanh nghiệp ngoại rời Trung Quốc là vì cuộc chiến tranh thương mại và 20% còn lại đưa ra quyết định tương tự là do dịch Covid – 19 (Julien Chaisee, 2020).
Từ nhu cầu tìm kiếm thị trường mới để hoạt động, sản xuất của các tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ, Trung Quốc, EU và lợi thế từ việc tham gia các hiệp định thương mại (CPTPP, EVFTA, IPA…), phòng chống tốt dịch Covid – 19, Việt Nam được xem là hội tụ đủ các yếu tố để nâng cao hình ảnh, thu hút được nhà đầu tư nước ngoài (Times of Indian, 2020). Bên cạnh đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là chủ trương lớn của Nhà nước, được ban hành nhiều chính sách như đãi về thuế, thủ tục, giá cho thuê đất… là những động thái tích cực, hỗ trợ lớn để tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh những cơ hội đề ra nêu trên, việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay còn có những thách thức như sau:
Thứ nhất, các thị trường kinh tế đang phát triển (Ấn Độ, Indonesia…) vẫn đang có hành động tích cực nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài như: Xây dựng khu công nghiệp với diện tích lớn, đảm bảo nhu cầu của nhà đầu tư; áp dụng giá cho thuê đất ưu đãi; áp dụng thuế suất ưu đãi…
Thứ hai, việc đẩy nhanh quá trình thu hút nguồn vốn FDI mà không có chọn lọc như trong giai đoạn vừa qua đã dẫn đến nhiều nguồn vốn FDI chất lượng thấp vào Việt Nam như: quy mô vốn nhỏ, ứng dụng công nghệ thấp, không mang tính bền vững…
Thứ tư, Việt Nam cần hạn chế tối đa những thiệt hại do dịch Covid-19, nhanh chóng ổn định và chuyển sang giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau dịch, tạo môi trường kinh doanh ổn định. Đây là nền tảng để củng cố và gia tăng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài khi đưa nguồn vốn vào Việt Nam.
Thứ năm, từ trước đến nay, nguồn lao động giá rẻ, lao động chăm chỉ được xem là điểm thu hút nhà đầu tư chứ không phải là nguồn nhân lực có kỹ năng, chất lượng cao. Trong khi đó, để thu hút được những dự án công nghệ cao thì nguồn nhân lực của quốc gia sở tại phải có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều cải cách về giáo dục và đào tạo, nhưng nhìn chung chính sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và chính sách phát triển nguồn nhân lực phục vụ khu vực FDI mới chỉ tập trung theo chiều rộng và chưa chú trọng đến chiều sâu về chất lượng.
4. Một số kiến nghị
Để tận dụng tốt cơ hội thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, những kiến nghị mà tác giả đề ra nhằm đến ba mục tiêu: (i) Định hướng thu hút nguồn vốn FDI chọn lọc; (ii) Nguồn nhân lực chất lượng cao là điểm thu hút nhà đầu tư nước ngoài thay vì nguồn lao động giá rẻ như trước đây; (iii) Hoàn thiện cơ sở vật chất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế để gia tăng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, tác giả có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, về cơ sở hạ tầng, ưu tiên nguồn vốn ngân sách để hoàn thành sớm các dự án còn dang dở. Đồng thời, cần lựa chọn ra một số khu vực trọng điểm trong nước để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại, tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần có cơ chế giám sát nhằm đảm bảo nguồn vốn ngân sách được sử dụng đúng việc, đúng mục đích với hiệu quả sử dụng cao nhất. Ngoài ra, để củng cố cơ sở hạ tầng, nhà nước cần có chính sách phù hợp với hình thức đối tác công tư, cụ thể: cơ chế, chính sách pháp luật vừa đảm bảo chất lượng dịch vụ cộng đồng, vừa cởi mở, minh bạch để tạo điều kiện thu hút được vốn FDI vào các dự án này.
Thứ hai, nhằm củng cố niềm tin cho nhà đầu tư, Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh doanh, bao gồm các nội dung sau:
+ Bảo vệ môi trường thông qua: xử lý các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường; khuyến khích sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào, phương pháp sản xuất, chế tạo… thân thiện với môi trường; tuyên truyền công tác bảo vệ môi trường trong sản xuất và sinh hoạt cùng các chế tài kèm theo.
+ Về việc tăng cường đảm bảo sở hữu trí tuệ, Nhà nước cần có chính sách xử lý mang tính răn đe đối với những trường hợp cố tình xâm hại thương hiệu, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.
Thứ ba, việc ban hành các chính sách ưu đãi nguồn vốn FDI phải có sự phân cấp theo hướng ưu tiên cho các nhà đầu tư lớn thành và có quan hệ lâu năm với Việt Nam; dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, cần nâng cao khả năng chuyển giao công nghệ bằng cách: đưa ra tiêu chuẩn về trình độ công nghệ đối với các dự án đầu tư vào Việt Nam; yêu cầu nhà đầu tư có cam kết về việc chuyển giao công nghệ; tăng cường hình thức đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp; đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Quỳnh Thơ (2017), Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Chu Tiến Quang, Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020 (www.vnep.org.vn).
3. The World bank (2019), Bước chuyển về tài chính, Mở lối cho các thị trường vốn nhằm phục vụ tương lai phát triển của Việt Nam.
4. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về phát triển khu vực FDI năm 2019
5. Báo cáo của Tổng cục Thống kê. TS. Đặng Hoài Linh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Tạp chí Ngân hàng số 14/2020
Bạn đang xem bài viết Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Tại Việt Nam trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!