Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Phủ Đưa Ra 7 Giải Pháp Để Phát Triển Vật Liệu Xây Dựng mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cần đẩy mạnh xây dựng thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm vật liệu xây dựng. Ảnh: H.DịuMục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước; loại bỏ hoàn toàn công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng lạc hậu, tiêu tốn nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
Đồng thời, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tính cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Hạn chế xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu là tài nguyên khoáng sản không tái tạo.
Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025, các nhà máy xi măng hiện có công suất nhỏ hơn 2.500 tấn clanke/ngày, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và năng lượng lớn, phải đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.
Để đạt được những mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 7 giải pháp thực hiện: Hoàn thiện thể chế, chính sách; Khai thác tài nguyên khoáng sản hiệu quả, tiết kiệm; Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ; Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng trong nước và xuất khẩu; Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Nâng cao năng lực chế tạo thiết bị; Bảo vệ môi trường trong sản xuất.
Tìm Giải Pháp Phát Triển Vật Liệu Xây Dựng Bền Vững, Bảo Vệ Môi Trường
Phát biểu tại lễ khai mạc Hội thảo, sáng 31/10, TS. Lê Trung Thành – Viện trưởng Viện VLXD Việt Nam cho biết, việc phát triển vật liệu xây dựng chắc chắn đòi hỏi phải áp dụng khoa học và công nghệ để giảm thiểu sử dụng tài nguyên khoáng sản, tối đa hóa sử dụng phụ phẩm công nghiệp, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và tạo ra các sản phẩm vật liệu xây dựng bền vững hơn.
Điều này thậm chí còn rất cần thiết khi Việt Nam là một trong những quốc gia có sản lượng vật liệu xây dựng lớn nhất thế giới.
Theo TS. Lê Trung Thành, năm 2018, công suất sản xuất các loại vật liệu xây dựng chính đạt gần 100 triệu tấn xi măng, 706 triệu m2 gạch men, 16 triệu sản phẩm vệ sinh… các ngành sản xuất xi măng và gốm có sản lượng lớn thứ tư trên thế giới.
Tuy nhiên, ngành xây dựng sử dụng khoảng một phần ba năng lượng trên toàn cầu và phát thải khoảng 35 đến 40% tổng lượng khí nhà kính trên toàn thế giới, sử dụng hơn một phần ba nguồn nguyên liệu trên toàn cầu.
Những thách thức này đang trở nên rõ nét hơn ở các nước đang phát triển nơi có mức độ xây dựng dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030. Phần lớn lượng khí thải phát sinh là do sản xuất xi măng và sắt thép, tiếp đó là nhôm, kính/thủy tinh và vật liệu cách nhiệt.
Trước thực tế đó, bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam cho rằng, việc phát triển lĩnh vực xây dựng bền vững rất quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng.
“Chính phủ cần có hành động để tạo ra các khung chính sách cho phép hình thành thị trường. Từ đó, các doanh nghiệp có thể sản xuất các loại vật liệu bền vững cho ngành xây dựng; đồng thời khuyến khích việc thiết kế, kích cầu người tiêu dùng trực tiếp sử dụng các sản phẩm bền vững”, bà Caitlin Wiesen nhấn mạnh.
Tin tức – Phạm Văn – 12:55 30/09/2019
(TN&MT) – Sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng xanh góp phần tiết kiệm tài nguyên không tái tạo, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính – nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
Giải Pháp Xây Dựng Chính Sách Tổng Thể Phát Triển Kinh Tế
Giải pháp xây dựng chính sách tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030
Đồng chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Đỗ Văn Chiến – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT, Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình CTDT/16-20; Nguyễn Lâm Thành – Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc Hội; Bùi Tuấn Quang, Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương; Phan Văn Hùng – Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Chương trình CTDT/16-20.
Hội thảo nằm trong Kế hoạch công tác năm 2019 của Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020 “Những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc ở Việt Nam đến năm 2030” (Chương trình CTDT/16-20). Tham dự Hội thảo có đại diện một số Bộ, ngành, cơ quan Trung ương; thành viên Ban Chỉ đạo Chương trình CTDT/16-20; Hội đồng Khoa học của UBDT; các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu, xây dựng và thực thi chính sách dân tộc.
Khai mạc Hội thảo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh:Vấn dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Đảng và Nhà nước đã dành nhiều nguồn lực đầu tư, với nhiều cơ chế chính sách quan trọng, thực tế đã đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, thực tiễn đặt ra còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm giải quyết, cụ thể: Đồng bào DTTS chiếm 14,6% dân số cả nước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm trên 63,35%, nhiều tỉnh chiếm trên 90%; còn 21% người DTTS từ 15 tuổi trở lên chưa đọc thông viết thạo tiếng Việt; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 6%, tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà là 36,3%, còn 68,5% hộ DTTS có nhu cầu được giao thêm đất sản xuất để đảm bảo được đời sống…
Thực tế đó là nỗi trăn trở, day dứt đối với các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý, các nhà khoa học, đặc biệt là cơ quan làm công tác dân tộc. Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT Đỗ Văn Chiến tin tưởng, Hội thảo sẽ tiếp thu được nhiều giải pháp, nhiều ý kiến quý báu của các nhà khoa học để làm cơ sở hoàn thiện Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi và vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030 trước khi báo cáo Chính phủ trình Quốc hội.
Toàn cảnh Hội thảo
Phát biểu tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý bày tỏ sự nhất trí cao về nội dung của Đề án và cho rằng Đề án đã đề cập đến các vấn đề lớn, bao quát được toàn bộ các vấn đề kinh tế – xã hội vùng DTTS, có tầm nhìn đến 2030. Đề án là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, đặt vấn đề sát với yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay; đáp ứng tâm tư nguyện vọng của đồng bào DTTS ở tất cả các vùng miền trên cả nước.
Đề án đã đánh giá đúng về thực trạng khó khăn ở vùng DTTS&MN. Tuy nhiên cần làm rõ hơn, vùng này không chỉ nghèo về kinh tế, mà còn nghèo theo nhiều nghĩa khác: Về điều kiện giáo dục, hưởng thụ văn hóa, nghèo cả cơ hội và nghèo về thông tin… Vì vậy, đầu tư của nhà nước là phải đầu tư để tạo cơ hội, mở ra cơ hội.
Ông Nguyễn Lâm Thành – Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội phát biểu tại Hội thảo
Đánh giá cao sự tham gia của các nhà khoa học với nhiều ý kiến tâm huyết đóng góp cho đề án, ông Nguyễn Lâm Thành – Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội chia sẻ: Việc xây dựng Đề án tổng thể xuất phát từ thực tiễn các chính sách giảm nghèo trong những năm qua có sự chồng chéo, manh mún, không phát huy được hiệu quả, yêu cầu là phải rà soát, tích hợp các chính sách, qua đó đề xuất những vấn đề mới trong chính sách để đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển bền vững, hội nhập. Trong Nghị quyết 74/NQ-QH14 ngày 20/11/2018 của Quốc hội yêu cầu xây dựng một đề án tổng thể với tinh thần chính là đầu tư, chứ không phải hỗ trợ, đảm bảo tính khách quan, khoa học.
Ông Nguyễn Lâm Thành cho rằng, ngoài việc giải quyết sự chồng chéo trong chính sách, Đề án phải giải quyết được việc phát huy nội lực, tăng cường tự lực cánh sinh của đồng bào các dân tộc trong quá trình phát triển; đảm bảo quyền bình đẳng về tiếp cận các dịch vụ, bình đẳng về cơ hội phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng nhấn mạnh tới vị trí của khu vực miền núi trong việc đóng góp cho quốc gia về môi trường, khoáng sản, rừng, nguồn nước… đóng góp trong bảo vệ, giữ gìn an ninh quốc phòng. Ông đề xuất về địa bàn phải có tiêu chí cụ thể, cần xác định rõ đối tượng, phạm vi và nên tập trung vào các vùng rất khó khăn.
Tổng kết Hội thảo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến ghi nhận, tiếp thu những ý kiến tâm huyết trách, nhiệm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, đồng thời nhấn mạnh: Đề án chủ yếu đề cập đến phát triển kinh tế – xã hội, nhưng tư tưởng chỉ đạo chung, có tính chất xuyên suốt là phải nhằm mục đích củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, hướng chủ đạo là đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm cũng cho rằng, cần phải làm rõ, sâu sắc thêm một số khái niệm như: Vùng đồng bào DTTS, chính sách dân tộc là gì? trọng tâm đột phá của Đề án là gì? để từ đó rà soát, xác định rõ phạm vi áp dụng, đối tượng điều chỉnh, xác định tính khả thi, các chỉ tiêu cụ thể, giải pháp đột phá (Đột phá về giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững, đột phá để tạo cơ hội phát triển).
Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết, đề án trình Chính phủ, Quốc hội với mong muốn tạo được sản phẩm đầu ra là: Chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào DTTS; chương trình đặc thù ổn định đời sống, tạo sinh kế và phát triển bền vững miền núi và vùng đồng bào DTTS. Hội thảo lần này đã đóng góp thêm nhiều nội dung quan trọng cho Đề án.
Một Số Giải Pháp Xây Dựng Và Phát Triển Vốn Tài Liệu Của Thư Viện
Thư viện trường học là một bộ phận trọng yếu không thể thiếu được. Sách báo, đang góp phần làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, góp phần quyết định chất lượng và không ngừng nâng cao năng lực giảng dạy của giáo viên, mở rộng kiến thức và xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của công cuộc cải cách giáo dục hiện nay để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Từ mục đích yêu cầu vai trò của thư viện trong trường học hoạt động chủ yếu của giáo viên và học sinh là giảng dạy và học tập. Cả hai hoạt động này đều phải sử dụng sách báo. Vì vậy tổ chức thư viện trong nhà trường nhằm thoả mãn nhu cầu về sách, báo cho giáo viên và học sinh là một yêu cầu khách quan không thể thiếu được. Thư viện còn giúp các em xây dựng được phương pháp học tập và phong cách làm việc khoa học, biết sử dụng sách báo trong thư viện. Đồng thời tham gia tích cực vào việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị và xây dựng nếp sống văn hoá mới trong nhà trường.
Đối với yêu cầu trên tôi nhận thấy đối tượng phục vụ của thư viện bao gồm tất cả mọi thành viên trong nhà trường: Cán bộ, giáo viên,nhân viên và học sinh…. Trong từng loại đối tượng có sự thuần nhất tương đối về yêu cầu phục vụ. Trong những đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh để mượn sách, báo cho phù hợp.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự nghiệp giáo dục ở nước ta được Đảng và Nhà nước xác định là: “Quốc sách hàng đầu”. Trong Luật giáo dục năm 2005 đã nêu: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thấm nhuần và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và vai trò người thầy giáo: “Không có thầy thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế – văn hóa”; trong những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động các cuộc vận động, điển hình là cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” với mục đích tạo sự mạnh mẽ trong đội ngũ nhà giáo và trong cán bộ quản lý giáo dục về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động giáo dục.
Việt Nam đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những các sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, làm sói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.Trong nhà trường phổ thông nói chung và Trường THCS nói riêng, một số cán bộ, giáo viên, nhân viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo quan tâm đến việc dạy tri thức khoa học, ít chú trọng đến việc dạy người.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác giáo dục đạo đức cán bộ, giáo viên, nhân viên trong giai đoạn hiện nay và qua thực tiễn công tác quản lý ở trường THCS, tôi nhận thấy công tác xây dựng đạo đức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người cán bộ quản lý nhà trường. Vì vậy tôi chọn đề tài “Xây dựng đạo đức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên theo đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”.
I.1. Tính cấp thiết của vệc phát triển vốn tài liệu của thư viện.
Bên cạnh những thành tích và kết quả mà thư viện nhà trường đã đạt được thì việc phát triển vốn tài liệu, phát triển nguồn thông tin cũng đang còn nhiều bất cập cần phải nghiên cứu và tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất
I.2. Năng lực nghiên cứu.
lượng nguồn thông tin, đảm bảo và đáp ứng nhu cầu của bạn đọc.
Dựa trên cơ sở lý luận và quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác sách, báo và thông tin thư viện.
Qua nhiều năm làm công tác thư viện trường học, với những kinh nghiệm của bản thân đã tích lũy được trong công tác và thông qua học hỏi các đồng nghiệp; căn cứ vào tình hình thực tiễn của thư viện nhà trường tôi nhận thấy việc
phát triển vốn tài liệu, phát triển nguồn thông tin của thư viện là rất cần thiết.
Vì vậy, tôi mạnh dạn xây dựng đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện“.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác phát triển vốn tài liệu của Thư viện, tôi muốn đánh giá những kết quả đã đạt được và tìm ra những điểm còn hạn chế, ảnh hưởng đến công tác phát triển nguồn thông tin. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, đề xuất và các giải pháp nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác phát triển vốn tài liệu của thư viện trường học.
Đề tài tập trung chuyên sâu nghiên cứu về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ bạn đọc; công tác phát triển vốn tài liệu của thư viện trường THCS trong giai đoạn hiện nay.
III. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM.
Thành phần vốn tài liệu như: Tài liệu bổ sung, kinh phí cho hoạt động bổ sung, kế hoạch và chính sách bổ sung, các nguồn bổ sung, nhân lực thực hiện công tác bổ sung…
Thư viện trường THCS nơi tôi đang công tác hiện nay.Trước khi thực hiện đề tài vốn tài liệu của thư viện trường nơi tôi đang công tác như sau:Hiện nay, thư viện nhà trường đang phục vụ bạn đọc với trên 3450 các ấn phẩm trong đó:
Sách chiếm 2550 bản( 65,2%)
IV. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU.
Báo; tạp chí gồm 1200 bản (34,8%)
Đề tài nghiên cứu được triển khai áp dụng trong hai năm học kế tiếp: năm học 2015 – 2016; năm học 2016 – 2017.
gian nghiên cứu.
Đề tài: ” Một số giải pháp xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện”
Về mặt lý luận: Đề tài đã khẳng định được tầm quan trọng và giá trị thiết thực của công tác xây dựng và phát triển vốn tài liệu. Ngoài ra, nó còn giúp chúng ta hiểu được quy trình của công tác bổ sung vốn tài liệu trong hoạt động thông tin thư viện trường học.
I. THỰC TRẠNG NHÀ TRƯỜNG TRƯỚC NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI
Về mặt thực tiễn: Phản ánh thực trạng hoạt động bổ sung vốn tài liệu tại thư viện đơn vị mình công tác, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu, đưa ra những kiến nghị cho thư viện trường THCS, từ đó góp phần đẩy mạnh, phát huy những mặt mạnh đồng thời hạn chế và khắc phục những mặt yếu để đưa thư viện ngày càng phát triển hơn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hoá.
Thế kỷ XXI, thế kỷ của Công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức; trong thế kỷ này hơn bao giờ hết thông tin có ý nghĩa quan trọng và quyết định sự phát triển của mỗi Quốc gia. Vì vậy, việc đảm bảo nguồn tin đầy đủ, nhanh chóng và chất lượng cho mọi lĩnh vực và đời sống xã hội đang là vấn đề có tính cấp thiết. Điều đó đỏi hỏi mỗi Quốc gia bên cạnh việc củng cố và phát triển nguồn tin trong nước còn cần phải mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác trong khu vực và trên thế giới để chia sẻ và phát triển nguồn tin.
Đối với Việt Nam, trong giai đoạn công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, việc đảm bảo và phát triển nguồn thông tin cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ IX của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”…Thực hiện nghị quyết IX của Trung ương Đảng, để góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; với chức năng và nhiệm vụ đặc thù của nhà trường, trong những năm qua đặc biệt trú trọng đến việc đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học và nghiên cứu phương pháp dạy học có hiệu quả nhằm cung cấp, bồi dưỡng cho đất nước những nhân tài cho tương lai, có đầy đủ phẩm chất đạo đức, là con ngoan trò giỏi, những mầm non tương lai của đất nước trong thời kì đổi mới.
Trong trường THCS, bên cạnh các hoạt động chuyên môn, hoạt động phong trào,…thì hoạt động thông tin – thư viện không ngừng được trú trọng và đầu tư phát triển, nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của bạn đọc; nâng cao hiệu quả phục vụ thông tin cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh trong và ngoài nhà trường.
Bên cạnh những thành tích và kết quả mà thư viện nhà trường đã đạt được thì việc phát triển vốn tài liệu, phát triển nguồn thông tin cũng đang còn nhều bất cập cần phải nghiên cứu và tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng nguồn thông tin, đảm bảo và đáp ứng nhu cầu của bạn đọc.
Dựa trên cơ sở lý luận và quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác sách, báo và thông tin thư viện.
Qua nhiều năm làm công tác thư viện trường học, với những kinh nghiệm của bản thân đã tích lũy được trong công tác và thông qua học hỏi các đồng nghiệp; căn cứ vào tình hình thực tiễn của thư viện nhà trường tôi nhận thấy việc phát triển vốn tài liệu, phát triển nguồn thông tin của thư viện là rất cần thiết.
Vì vậy, tôi mạnh dạn xây dựng đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện”.
Cơ sở vật chất của nhà trường trước đây còn nghèo nàn, lạc hậu, không đủ phòng học và các phòng chức năng, chủ yếu là nhà cấp 4 đã xuống cấp trầm trọng. Nhưng trong những năm gần đây, cơ sở vật chất nhà trường được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp. Do đó chất lượng giảng dạy và học tập ngày càng được nâng cao.
Cơ sở vật chất trong thư viện được trang bị khá đầy đủ đáp ứng nhu cầu đọc sách của giáo viên và học sinh.
* Cơ sở vật chất của thư viện bao gồm:
– Phòng Thư viện được xây dựng kiên cố, có diện tích 80m 2, được chia ra làm 2 phòng: phòng đọc cho giáo viên và học sinh.
PHÒNG ĐỌC CỦA HỌC SINH
PHÒNG ĐỌC CỦA GIÁO VIÊN
BẢNG GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
– Sách báo được bảo quản tốt, sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp và có khoa học.
– Trang thiết bị chuyên dùng đầy đủ và được bố trí hợp lý theo nghiệp vụ quản lý thư viện, từng bước được hiện đại hoá theo xu thế phát triển chung.
* Kho sách được chia thành các bộ phận:
KHO SÁCH
a. Sách giáo khoa hiện hành.
– Đối với học sinh: Đảm bảo mỗi học sinh có đủ 1 bộ sách để học.
– Đối với giáo viên: Sách giáo khoa phục vụ cho giáo viên soạn giảng: 500 cuốn.
b. Sách nghiệp vụ của giáo viên.
– Sách bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm: 500 cuốn
c. Sách tham khảo.
– Sách tham khảo bộ môn: 2.780 cuốn
– Sách tra cứu, từ điển, tác phẩm kinh điển: 16 cuốn
– Sách mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ các môn học phù hợp với chương trình từng cấp học có: 242 bản
– Sách nâng cao trình độ chuyên môn ngoại ngữ, tin học, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên: 26 cuốn.
– Có kế hoạch bổ sung sách thư viện trong 5 năm: 1.062 cuốn
– Số lượng sách tham khảo bình quân đạt 03 cuốn / học sinh.
d. Báo, tạp chí:
– Có các loại báo phù hợp với lứa tuổi học sinh và các tạp chí, báo chung của Đảng, nhà nước, địa phương và các đoàn thể quần chúng.
– Hàng năm nhà xuất bản Giáo dục và các Công ty sách – Thiết bị trường học ở các tỉnh dành một khoản kinh phí trong chi phí sản xuất kinh doanh để sử dụng vào việc hướng dẫn, tuyên truyền, giới thiệu sách, báo; chỉ đạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng của nhân viên phụ trách công tác thư viện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện trường học.
I.4.3 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của thư viện trường học trước nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu của nhà trường.
Thư viện trường học là kho tàng tri thức của nhân loại, là một bộ phận trọng yếu không thể thiếu được trong trường phổ thông, là nơi lưu giữ nét đẹp tinh hoa, văn hoá, những thành quả lao động trí óc và kinh nghiệm trong quá trình sống và tồn tại của con người. Ngày nay, nhu cầu học tập và nghiên cứu của con người ngày càng được nâng cao, đòi hỏi thư viện trường học phải tổ chức phục vụ đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó và cán bộ thư viện là cầu nối giữa kho tài liệu của thư viện với bạn đọc và người sử dụng.
Thực hiện kế hoạch chỉ đạo của các cấp, thư viện trường học đã xây dựng cho mình kế hoạch hoạt động rõ ràng theo từng tháng dựa trên cơ sở hoạt động của thư viện ngành. Nhà trường đã trú trọng đầu tư thêm trang thiết bị cho thư viện tương đối đầy đủ như: Các loại sổ sách thư viện, mua bổ sung thêm các loại sách giáo khoa, sách nghiệp vụ, cho thư viện và phục vụ cho giáo viên – học sinh giảng dạy và học tập.
Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, được sự quan tâm của các cấp và sự hướng dẫn tận tình của cán bộ quản lý. Thư viện đã có được điều kiện thuận lợi để phát huy được chuyên môn nghiệp vụ của mình và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Cán bộ thư viện đã xây dựng được kế hoạch hoạt động của thư viện. Thực hiện việc phục vụ cho mượn và trả sách đúng theo yêu cầu; xử lý nghiệp vụ các loại sách mới nhập, phục vụ bạn đọc một cách chặt chẽ và có khoa học.
I.4.4. Chức năng và nhiệm vụ của Thư viện trường học.
Thư viện đã hoàn thành tốt các nội dung hồ sơ thư viện theo đúng kế hoạch. Hàng quý thư viện đều bổ sung thêm các loại báo mới như: tạp chớ giỏo dục,giáo dục thủ đô…
Thư viện là một bộ sưu tập có tổ chức các loại sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu, văn hoá, giáo dục
hoặc giải trí.
Với chức năng lưu trữ và luân chuyển sách, báo; thông qua nội dung sách,
báo thư viện góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học, tuyên truyền đường lối. Chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng thế giới quan khoa học, nếp sống văn minh cho giáo viên và học, thư viện trường học ra đời nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ sau:
* Chức năng:
Thư viện góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng kiến thức cơ bản về khoa học và xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu cho học sinh tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp giảng dạy và học tập, đồng thời thư viện tham gia tích cực vào việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị xây dựng nếp sống văn hoá mới cho các thành viên của nhà trường.
Thư viện trường phổ thông thuộc thư viện khoa học chuyên ngành Giáo
dục và đào tạo, nằm trong hệ thống thư viện chung và thực hiện nghiêm chỉnh những văn bản quy phạm pháp luật về công tác thư viện của nhà nước.
Thư viện chuyên thực hiện chức năng giáo dục, tham gia vào việc giảng dạy, học tập của thầy và trò; nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, giáo viên và học sinh trong nhà trường.
Với chức năng thông tin: Thư viện luôn đáp ứng nhu cầu tin của bạn đọc trong nhà trường.
Ngoài chức năng giáo dục và thông tin: Thư viện trường còn là trung tâm văn hoá, giải trí cung cấp kiến thức xã hội và nâng cao tầm hiểu biết của độc giả.
* Nhiệm vụ:
Cung ứng cho giáo viên và học sinh đầy đủ các loại sách giáo khoa, sách tham khảo, sách nghiệp vụ, các loại từ điển, tác phẩm kinh điển để tra cứu và các loại sách báo cần thiết khác, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và tự bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên và học sinh.
Sưu tầm và giới thiệu rộng rãi trong cán bộ, giáo viên và học sinh những sách báo cần thiết của Đảng, nhà nước và của ngành Giáo dục và đào tạo, phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học giáo dục, bổ sung kiến thức của các bộ môn khoa học, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tổ chức thu hút toàn thể giáo viên và học sinh tham gia sinh hoạt thư viện,
thông qua các hoạt động phù hợp với chương trình và kế hoạch dạy học, tìm hiểu nhu cầu của giáo viên và học sinh, giúp họ chọn sách, đọc sách có hệ thống, biết cách sử dụng bộ máy tra cứu sách, tra cứu thư mục nhằm sử dụng triệt để kho sách, nhất là các sách nghiệp vụ và sách tham khảo, nhằm huy động các nguốn vốn kinh phí ngoài ngân sách và các loại sách báo, tạp chí, tư liệu để đảm bảo nguồn vốn bổ sung, làm phong phú nội dung kho sách và tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật thư viện.
Tổ chức quản lý theo đúng nghiệp vụ thư viện, có sổ sách quản lý chặt
chẽ, bảo quản giữ gìn sách báo tránh hư hỏng, mất mát, thường xuyên thanh lọc sách báo cũ, rách nát, lạc hậu, kịp thời bổ sung các loại sách, tài liệu mới, có kế hoạch chủ động tiếp thu sự phát triển của mạng lưới thông tin – thư viện điện tử, từng bước đưa các trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác quản lý thư viện phục vụ bạn đọc.
Tổ chức phục vụ cho các đối tượng bạn đọc sử dụng vốn tài liệu thư viện; bố trí thời gian phục vụ phù hợp với điều kiện làm việc và học tập của giáo viên và học sinh trong nhà trường; đẩy mạnh các hoạt động phục vụ tài liệu ngoài thư viện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng; không đặt ra những quy định làm hạn chế quyền sử dụng sách báo, tài liệu trong thư viện của người đọc.
Phát triển vốn tài liệu phù hợp với tính chất, nhiệm vụ và đối tượng phục vụ của Thư viện. Thực hiện theo định kỳ việc thanh lọc ra khỏi kho các loại tài liệu không còn giá trị sử dụng, tài liệu hư nát không thể phục hồi.
Lưu giữ, bảo quản vốn tài liệu như: sách, báo, tạp chí, phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất và các tài sản khác của thư viện.
Phổ biến rộng rãi, kịp thời vốn tài liệu thư viện bằng các hình thức thông tin thư mục; hướng dẫn tra cứu và các hình thức thông tin tuyên truyền khác, phát huy triệt để nội dung vốn tài liệu có trong thư viện nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Hướng dẫn cho tất cả học sinh mới vào trường cách tra cứu thông tin.Tổ chức cho cán bộ thư viện đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ thư viện; tạo điều kiện cho cán bộ thư viện nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn.
Xác định rõ những chức năng, nhiệm vụ trên trong hoạt động thông tin, thư viện nhà trường đang cố gắng thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra để đưa thư viện ngày càng phát triển hơn.
I.4.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của trường học.
* Về đội ngũ giáo viên nhà trường: Đến thời điểm này tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường có 42 đ/c; trong đó BGH: 03, giáo viên: 30, nhân viên: 09.
Công tác thông tin thư viện là một thiết chế văn hoá giáo dục và thông tin
khoa học đảm bảo tổ chức sử dụng vốn tài liệu hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nhất. Tổ chức công tác thông tin thư viện là nhằm thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp cho sự tồn taị và phát triển (như xây dựng hệ thống phòng ban, quy định nhiệm vụ, chức năng, xếp đặt cán bộ đúng khả năng chuyên môn, mua sắm trang thiết bị…); lập kế hoạch, đào tạo cán bộ và hướng dẫn nghiệp vụ. Công tác
tổ chức thông tin thư viện là tổ chức hai nhóm công việc: công tác kỹ thuật nghiệp vụ và công tác phục vụ người dùng tin với các nhiệm vụ như: tổ chức định mức lao động, tổ chức phân công lao động hợp lý tổ chức công tác phục vụ người dùng tin, quy trình kỹ thuật thông tin thư viện tổ chức đào tạo và chỉ đạo nghiệp vụ…
Một thư viện muốn hoạt động tốt cần phải có một cơ cấu tổ chức tốt. Tổ chức trong thư viện được chia thành các phòng, ban và chịu sự chỉ đạo của cán bộ thư viện theo quy tắc nhất định. Sự thống nhất giữa các phòng, ban sẽ quyết định chất lượng hoạt động của hệ thống thư viện.
Ban điều hành Thư viện bao gồm một Phó Hiệu trưởng trực tiếp chịu trách nhiệm và điều hành chung mọi hoạt động của thư viện đồng thời chịu trách nhiệm trước Phòng Giáo dục và đào tạo về việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của thư viện đã được Đảng uỷ và cấp phòng giáo dục giao phó.
Dưới ban điều hành của thư viện có nhân viên làm công tác thư viện có nhiệm vụ làm tất cả các công tác thư viện như: bổ sung, phân loại, xếp giá, lưu trữ và bảo quản vốn tài liệu.
Về việc quản lý thư viện: Ban quản lý thư viện gồm một cán bộ chuyên quản lý chung mọi hoạt động và sự phát triển của thư viện cũng như việc tiếp nhận nguồn kinh phí của nhà trường và nguồn ngân sách của Nhà nước. Ngoài ra, Ban quản lý còn chịu trách nhiệm việc phát triển vốn tài liệu, số lượng tài liệu bổ sung hay loại bỏ, đầu tư trang thiết bị và các hoạt động khác. Bộ phận nghiệp vụ và phục vụ bạn đọc đều hoạt động dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu phụ trách Thư viện. Cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho công tác phục vụ bạn đọc như bổ sung tài liệu, xử lý tài liệu, phân loại tài liệu, làm phích, làm sổ đăng kí cá biệt, làm thẻ cho học sinh. Có đủ các loại hồ sơ đúng theo quy định để theo dõi hoạt động của thư viện.
Bên cạnh đó, cán bộ thư viện cần phải xem xét tài liệu mới mà nhà xuất bản gửi đến để chọn ra tài liệu thích hợp cần bổ sung. Tất cả các hoạt động trên đều nhằm mục đích phục vụ tốt công tác bạn đọc.
Các phòng trong thư viện đều tập hợp tất cả các loại sách, báo, tạp chí và các loại sách tham khảo được phục vụ tại chỗ cho nhu cầu tin, giảng dạy, học tập của cán bộ giáo viên và học sinh. Với mô hình tổ chức trên thư viện trường đã thực hiện tốt công tác phục vụ bạn đọc. Ngoài ra thư viện còn cải tiến mở rộng phạm vi các loại hình tài liệu nhằm làm phong phú thêm kho sách.
Nhu cầu đọc của cán bộ, giáo viên giảng dạy:
Cán bộ và giáo viên trong nhà trường là những người có trình độ từ trung cấp trở lên. Chính vì vậy loại hình tài liệu mà họ quan tâm chủ yếu là những tài liệu
phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu chuyên môn cấp trường.
Nhu cầu tin của cán bộ và giáo viên trong trường vừa mang tính chất tổng hợp vừa mang tính cụ thể vì các nghành khoa học ngày càng phát triển có xu hướng chuyên sâu hoặc kết hợp với nhau nên họ phải thu thập thông tin vừa thích hợp vừa chi tiết. Nội dung thông tin cần đầy đủ, kịp thời và có tính chính xác cao.
Ngoài các loại sách, báo, tạp chí, 55% trong số cán bộ giáo viên, nhân viên đến thư viện đều có nhu cầu đối với các loại sách tham khảo, 50% cán bộ có nhu cầu sử dụng tạp chí. Vì cán bộ giảng dạy là những người quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo của nhà trường nên thư viện trường đã đặc biệt quan tâm và tạo mọi điều kiện đáp ứng tốt nhu cầu tin đối với đối tượng này. Đồng thời, Thư viện cũng gửi các tài liệu mới đến từng bộ môn để họ có cơ hội nắm bắt thông tin một cách nhanh nhất, cập nhật nhất.
* Nhu cầu đọc của học sinh:
Học sinh là nhóm người dùng tài liệu có số lượng đông đảo nhất chiếm 90-95% tổng số người sử dụng tin của thư viện. Nhu cầu tra cứu hệ thống mạng Internet cũng như sách báo của học sinh được chia làm hai giai đoạn:
Những năm đầu cấp, khối lượng kiến thức ít hơn lên học sinh chủ yếu mượn các loại sách giáo khoa, sách tham khảo về các môn học như: toán, lý, hoá, anh ,văn…
Ngoài các giáo trình bắt buộc, thư viện còn đáp ứng các loại tài liệu giải trí đối
với học sinh như sách văn học, truyện ngắn, bách khoa toàn thư, báo, tạp chí…
Xác định đặc điểm người sử dụng tài và nhu cầu sử dụng các tài liệu đó trong hoạt động thông tin thư viện, Thư viện trường đã đáp ứng nhu cầu tin của cán bộ, giáo viên và học sinh một cách tối đa. Trong những năm gần đây, thư viện đã thành công trong công tác phục vụ bạn đọc và điều này được thể hiện qua số lượng bạn đọc đến thư viện ngày càng đông.
* Hoạt động của thư viện:
với chức năng của thư viện và phục vụ tốt nhu cầu của bạn đọc.
Đối với giáo viên: Mỗi tháng một giáo viên đọc sách trong thư viện 15 lượt, đảm bảo 100 %.
Đối với học sinh : Mỗi tháng học sinh đọc sách 16 lượt / học sinh, đảm bảo 85%:
Thư viện có nội dung hoạt động phù hợp với giáo dục toàn diện. Phục vụ cho hoạt động ngoại khóa của nhà trường .
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN VỐN TÀI LIỆU TẠI THƯ VIỆN TRƯỜNG HỌC.
Tình hình đọc sách trong thư viện của giáo viên và học sinh trong nhà trường luôn diễn ra thường xuyên và đúng nguyên tắc. Thư viện luôn mở cửa thường xuyên để bạn đọc vào thư viện đọc sách.
II.1.1 Vai trò của công tác phát triển vốn tài liệu trong hoạt động thông tin thư viện của hệ thống các Trường THCS.
II.1 Vai trò của công tác phát triển vốn tài liệu trong hoạt động thông tin thư viện tại các Trường THCS nói chung và trường học nói riêng.
Vốn tài liệu được coi là di sản văn hoá, tiềm lực và niềm tự hào của thư viện. Nó chỉ ra sự phát triển về trí tuệ, văn minh của một Quốc gia, một dân tộc. Vốn tài liệu chứa đựng những tri thức kinh nghiệm của loài người được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, sự tiến bộ của loài người có được là nhờ tiếp thu, khai thác và phát triển những tri thức của các thế hệ trước để lại. Nội dung của vốn tài liệu càng phong phú, loại hình tài liệu càng đa dạng thì khả năng đáp ứng nhu cầu càng lớn và nó càng có sức thu hút càng cao đối với người sử dụng. Một thư viện sẽ có khối lượng bạn đọc đông đảo, nếu thư viện đó có vốn tài liệu phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu tin của bạn đọc và đặc biệt là phải cập nhật với trình độ phát triển khoa học công nghệ trong nước và thế giới.
Vốn tư liệu là cơ sở, tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của thư viện. Pháp lệnh thư viện đã qui định, muốn thành lập một thư viện trong các trường THCS phải có bốn điều kiện: vốn tài liệu; độc giả; cơ sở vật chất và các trang thiết bị chuyên dụng; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ. Vốn tư liệu giúp thư viện hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình, quan trọng nhất là phục vụ nhu cầu của độc giả trong trường. Trong đó, nhu cầu của độc giả luôn luôn thay đổi và không ngừng phát triển, vì vậy cán bộ thông tin thư viện làm việc trong lĩnh vực này không chỉ có tri thức rộng cần có chính sách bổ sung vốn tư liệu thường xuyên và hợp lý. Phát triển vốn tài liệu được coi là quá trình làm cho các nhu cầu thông tin của người dùng tin được đáp ứng kịp thời và tiết kiệm bằng cách sử dụng các nguồn lực thông tin sinh ra bên trong và bên ngoài của tổ chức đó. Để phát triển nguồn vốn tài liệu, bất cứ cơ quan thông tin nào đều phải
tiến hành thường xuyên công tác bổ sung vốn tài liệu. Bổ sung vốn tài liệu là quá trình lựa chọn có hệ thống và thu thập theo kế hoạch những tài liệu đưa vào thư viện làm tăng cường về mặt số lượng và chất lượng vốn tài liệu của thư viện đồng thời loại bỏ những tài liệu đã lỗi thời, không phù hợp.
Theo thông tư số 30 – VH/TT ngày 17/03/1971 của Bộ Văn hoá hướng dẫn về thi hành Quyết định số 178/CP của Hội đồng Chính phủ về công tác thư viện đã đề cập đến vấn đề bổ sung sách báo của thư viện như sau: “Bổ sung sách báo cho thư viện là công tác then chốt về mặt chất lượng của kho sách thư viện, việc bổ sung sách báo phải được làm thường xuyên và có kế hoạch. Uỷ ban hành chính các cấp, các ngành quản lý thư viện cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm và yêu cầu trong loại thư viện để cung cấp kinh phí cho các thư viện có đủ điều kiện làm cho kho sách của mình càng phong phú. Ngoài các loại sách báo mới xuất bản, các thư viện còn có nhiệm vụ bổ sung các loại sách quý cần thiết mà thư viện còn thiếu bằng cách sưu tầm trong nhân dân hoặc trao đổi giữa các thư viện”
Hầu hết, mọi đối tượng vật chất nào truyền đạt thông tin tư tưởng hoặc cảm giác đều có thể thuộc vào vốn tài liệu của thư viện. Vốn tài liệu là một tập hợp có hệ thống các xuất bản phẩm và các vật mang tin được lựa chọn phù hợp với thư viện và nhu cầu bạn đọc, được đưa ra sử dụng và bảo quản trong suốt thời gian mà nó còn có ý nghĩa.
Trong giai đoạn đổi mới của đất nước, giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục THCS nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhận thức rõ trách nhiệm lớn lao trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước ngành giáo dục nói chung và giáo dục đào tạo THCS nói riêng không ngừng đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là quá trình đổi mới phương pháp đào tạo; đổi mới phương pháp giảng dạy của thầy và phương pháp học tạp của trò, phát huy tối đa tính tích cực, chủ động tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Phương pháp đào tạo mới sẽ giúp học sinh nắm vững phương pháp học, tự tin trong việc tra tìm tài liệu, nghiên cứu tài liệu… Với ý nghĩa như vậy, hệ thống các trung tâm Thông tin – Thư viện trong các trường THCS có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây chính là giảng đường thứ hai cung cấp tài liệu cho sinh viên và là nơi lý tưởng để học sinh tự học, tự nghiên cứu… Như vậy, quá trình đổi mới giáo dục THCS phải đồng nghĩa với quá trình đổi mới hệ thống các trung tâm thông tin – thư viện. Mà trước hết là quá trình nâng cao chất lượng nguồn tin và phương pháp phục vụ.
Hệ thống thư viện các trường THCS có chức năng giống như các thư viện khác đó là: Chức năng văn hoá; Chức năng thông tin; Chức năng giáo dục; Chức năng giải trí. Hệ thống các trung tâm thông tin – thư viện của các trường THCS để thực hiện tốt chức năng của mình thì vấn đề cốt tử là phải chú trọng tới công tác chọn lọc, sưu tầm, bổ sung vốn tài liệu với số lượng bản lớn, phù hợp với nội dung đào tạo các môn học của trường để phục vụ nhu cầu thông tin khoa học cho cán bộ, giáo viên, học sinh trong hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu dạy và học. Từ sự phân tích trên, ta thấy bổ sung vốn tài liệu trong các trường THCS là một công việc rất quan trọng. Nêú bổ sung vốn tài liệu tốt, thư viện sẽ trở nên gần gũi và gắn liền với đời sống xã hội, phục vụ tốt được nhu cầu của độc giả, củng cố niềm tin của độc giả, phát huy vai trò của thư viện và góp phần truyền tải thông tin , tri thức để đào tạo tốt nhất cho những mầm non của đất nước.
Ngược laị, nếu bổ sung vốn tư liệu không tốt, thư viện sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời, không theo kịp sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, không phục vụ được nhu cầu của độc giả và tất yếu thư viện đó không thể tồn tại lâu dài. Chính vì vậy, thư viện tại mỗi trường THCS cần xây dựng cho mình một chính sách bổ sung khoa học, có kế hoạch, dựa theo những nguyên tắc nhất định (như nguyên tắc tính tư tưởng, nguyên tắc tính khoa học), cũng như chức năng, nhiệm vụ, thực tế của cơ quan mình.
II.1.2. Vai trò của công tác phát triển vốn tài liệu trong hoạt động thông tin thư viện của trường học.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phát triển vốn tài liệu tại thư viện các trường THCS nói chung, thư viện trường đã thực hiện công tác phát triển vốn tài liệu thông qua chức năng, nhiệm vụ sau:
– Giúp tạo bộ sưu tập mới.
– Chỉnh sửa hoặc thêm mới.
– Xoá bộ sưu tập đã có.
– Tóm tắt nội dung các bộ sưu tập đã có trong hệ thống.
Ngoài việc bổ sung các tài liệu về các môn học, thư viện còn thường xuyên bổ sung các lĩnh vực khác như: văn hoá, chính trị, lịch sử, xã hội. Do công tác bổ sung luôn chịu sự tác động của chế độ xã hội của đất nước nên tính Đảng là nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc chỉ đạo trong công tác bổ sung vốn tài liệu của các thư viện Trường. Nguyên tắc tính Đảng đòi hỏi cán bộ bổ sung thư viện Trường phải lựa chọn đưa vào những tài liệu phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam như các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin; những văn kiện của Đảng và Nhà nước…
Giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại hình tài liệu hơn, thu thập nhiều kiến thức hơn và hiệu quả học tập và giảng dạy chất lượng hơn. Với hoạt động này, thư viện đã đảm bảo tính chính xác, tính cập nhật và tần số sử dụng thông tin đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao cho người dùng tin
trong và ngoài trường.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
* Những mặt đã đạt được:
Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước đòi hỏi các cấp, các ngành phải có những đổi mới phù hợp để phát triển. Đối với hệ thống các cơ quan thông tin thư viện; năm 2001 Pháp lệnh thư viện có hiệu lực thi hành, đánh dấu một bước phát triển mới, một hướng đi mới cho hệ thống thư viện Việt Nam. Pháp lệnh thư viện thông qua đã tạo cho ngành thông tin thư viện một tiếng nói riêng trên diễn đàn văn hóa chung của dân tộc. Cũng chính vì vậy, hệ thống thư viện đang đứng trước nhiệm vụ mới quan trọng và cũng gặp không ít khó khăn.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của thư viện nói chung và thư viện trừng tôi nói riêng là việc đổi mới nâng cao chất lượng vốn tài liệu. thư viện cần phải xây dựng vốn tài liệu đủ lớn về số lượng, phong phú về chủng loại với chất lượng tốt phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của người dùng tin. Cùng với sự phát triển của hệ thống thư viện trong nước, thư viện nhà trường đang ngày càng khẳng định được vị trí của mình.
Nhà trường đã chú trọng đến việc đầu tư các hạng mục, nâng cấp cơ sở vật chất cho thư viện. Các phòng, ban được bố trí hợp lý, thuận tiện cho công tác bổ sung, thống kê và phục vụ bạn đọc.
Sách báo tạp chí trong thư viện được quản lý chặt chẽ, đóng thành tập, bọc và tu sủa thường xuyên đảm bảo cho việc sử dụng lâu dài thuận lợi.
Thư viện đã có đủ các loại hồ sơ, sổ sách để theo dõi mọi hoạt động của thư viện như: Sổ đăng kí tổng quát, sổ đăng kí cá biệt, sổ đăng kí sách giáo khoa, sổ theo dõi mượn sách của giáo viên và học sinh…
Ngày 24/5 hằng năm thư viện tổ chức kiểm kê.
Sách ở trong thư viện được sắp xếp theo từng kho sách riêng biệt và theo khối lớp thuận tiện cho việc mượn trả sách của giáo viên và học sinh.
Các nguồn bổ sung vốn tài liệu được chú trọng mở rộng và tăng cường về
nội dung và số lượng bản.
Kho tài liệu không chỉ phong phú, đa dạng với nhiều thể loại mà còn đảm bảo được giá trị thông tin, đảm bảo được tính chính xác, phạm vi bao quát nội dung, tần số sử dụng. Các tài liệu ở đây hầu hết được bổ sung thường xuyên theo kinh phí Nhà nước và một số nguồn tặng biếu cố định nên đảm bảo tính hiện đại của thông tin trong hệ thống thư viện. Cán bộ thư viện đã cố gắng rất nhiều và sự quan tâm đầu tư đúng mức của lãnh đạo nhà trường, thư viện trường đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc đào tạo nguồn nhân lực, tri thức tương lai cho đất nước. Với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn phù hợp với chuyên ngành cùng với lòng yêu nghề sâu sắc đã đưa thư viện phát triển theo chiều hướng tích cực, đáp ứng nhu cầu tin ngày càng cao của người sử dụng.
* Những mặt hạn chế:
Mặc dù đã đạt được những thành công đáng kể song trên thực tế nguồn bổ sung vốn tài liệu của thư viện hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
– Cơ sở vật chất vẫn còn nhều thiếu thốn, tủ giá còn ít, số lượng sách tham khảo chưa phong phú, chưa đảm bảo. Mặc dù, sách tham khảo chiếm số lượng khá lớn nhưng thư viện vẫn không đáp ứng được nhu cầu bạn đọc vì hầu hết các loại tài liệu này lạc hậu, lỗi thời.
Kinh phí phục vụ cho công tác bổ sung vốn tài liệu còn quá eo hẹp và không được giới hạn cố định trong một khoản nhất định cho hoạt động thông tin thư viện trong một năm. Điều này đã gây khó khăn cho công tác bổ sung bởi những tài liệu được bổ sung hầu hết phụ thuộc vào sự xét duyệt của phòng Giáo dục.
Mặc dù đã triển khai hệ thống thư viện điện tử trong hoạt động thông tin nhưng cho đến hiện nay, số lượng máy tính có được còn rất hạn chế chưa đủ để đáp ứng nhu cầu áp dụng tin học hóa vào trong hoạt động thông tin thư viện.
III.2.1. Vấn đề kinh phí.
III.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác phát triển vốn tài liệu của Thư viện nhà trường.
Trên cơ sở đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu các nguồn bổ sung vốn tài liệu của thư viện trường học, tôi xin đưa ra một số kiến nghị và giải pháp hy vọng sẽ đóng góp phần nào trong việc mở rộng nguồn khai thác mở rộng vốn tài liệu, nâng cao chất lượng nguồn tin của thư viện trường.
Hàng năm, lãnh đạo nhà trường cần dành riêng một khoản kinh phí nhất
định cho hoạt động thông tin thư viện nói chung và công tác bổ sung vốn tài liệu nói riêng. Với nguồn kinh phí cụ thể để cán bộ thư viện có thể chủ động hơn trong công tác bổ sung vốn tài liệu. Lập chương trình hoạt động và có kế hoạch đầu tư sách.Ngoài ra thư viện đã có kế hoạch cụ thể để mua sắm cơ sơ vật chất
III.2.2. Trú trọng bổ sung các loại tài liệu đặc thù cho đối tượng người thông tin của thư viện.
trong thư viện. Các loại hình tài liệu sẽ được bổ sung đồng đều hơn. Những loại tài liệu mới, nhu cầu bạn đọc cao sẽ được bổ sung nhanh chóng.
Để đảm bảo hệ thống vốn tài liệu chất lượng cao, thư viện trường THCS xây dựng kế hoạch huy động các nguồn quỹ để bổ sung sách và xây dựng cơ sơ vật chất trong thư viện nhưng do các nguồn bổ sung còn hạn chế nên không tránh khỏi dẫn tới tình trạng tài liệu bị cắt giảm, hạn chế các nguồn tài liệu. Chính vì vậy, điều thiết yếu nhất cho công tác bổ sung tài liệu là tăng thêm nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước.
Thư viện cần phải khắc phục tình trạng học chay cho học sinh bằng việc đầu tư một khoản kinh phí cho việc bổ sung các sách giáo trình đại cương và các máy chiếu, máy tính. Đây là loại hình tài liệu cung cấp những kiến thức cơ bản cho học sinh, có nhu cầu cao và được sử dụng thường xuyên nên việc đáp ứng đầy đủ loại hình này là rất cần thiết.
III.2.3. Mở rộng nguồn bổ sung và hình thức bổ sung.
Thư viện vẫn chưa chú trọng tới việc bổ sung các tài liệu mang tính chất giải trí hay những loại tài liệu mang tính chất xã hội.
III.2.4. Trú trọng bổ sung các tài liệu phi giấy.
Mặc dù là trường THCS nhưng việc bổ sung các loại hình tài liệu này là điều rất cần thiết vì nó có thể mở rộng vốn kiến thức và sự hiểu biết của bạn đọc.
Bổ sung vốn tài liệu không chỉ dừng lại ở việc trao đổi, tặng biếu hay mua từ các nhà xuất bản, thư viện cần thông qua mạng thông tin toàn cầu Internet để tìm kiếm những nguồn tin phục vụ cho công tác bổ sung.
Ngoài các tài liệu truyền thống, thư viện cần đẩy mạnh công tác bổ sung những tài liệu hiện đại như: băng từ, đĩa từ, đĩa CD-ROM, … Những tài liệu này tuy chưa được sử dụng rộng rãi nhưng cũng cần được bổ sung để độc giả có điều kiện làm quen với các loại hình tài liệu mới và phát huy thế mạnh của trường
III.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác.
Mỗi thư viện đều có số lượng vốn tài liệu nhất định và mang những nét đặc trưng riêng. Về cơ bản vốn tài liệu của tất cả thư viện đều đựơc cấu thành bởi hai dạng tài liệu đó là tài liệu truyền thống và tài liệu hiện đại.
Trước đây, vốn tài liệu có trong thư viện chỉ dừng lại ở tài liệu truyền thống như sách, báo, tạp chí. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, hàng loạt các tài liệu mới được ra đời và mang tính năng vượt trội. Vật mang tin không chỉ đơn thuần là sách, báo mà nó còn bao gồm các băng, đĩa.
Việc tìm kiếm và bổ sung vốn tài liệu là trách nhiệm của mỗi cán bộ trong
các thư viện. Do vậy, thư viện cần phải thường xuyên lập kế hoạch điều tra xác
định cụ thể nhu cầu của bạn đọc, xây dựng chiến lược ngắn hạn và dài hạn để thực hiện đúng chức năng của thư viện là phục vụ nhu cầu tin bạn đọc một cách đầy đủ và hiệu quả nhất.
Những nguồn tài liệu tặng biếu có giá trị, do chỉ có một hoặc hai bản nên thư viện cần có các hình thức sao chụp và có những biện pháp bảo quản thích hợp.
Các phòng ban trong cơ cấu tổ chức của thư viện trường học được trang bị
tương đối đầy đủ về trang thiết bị cơ sở vật chất. Vì vậy, thư viện cũng cần có
dự án xây dựng kho mở để phục vụ bạn đọc một cách tốt hơn.
Cán bộ thông tin thư viện trong thư viện trường học được đào tạo theo đúng chuyên ngành. Song, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay nhà trường cũng cần tạo điều kiện cho cán bộ thư viện nâng cao trình độ
chuyên môn và thông qua các lớp nâng cao nghiệp vụ, các dự án hay các chương trình giới thiệu những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thư viện…
Sau hai năm học áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho thấy vốn tài liệu của thư viện nhà trường tăng lên đáng kể; qua theo dõi sổ nhật kí thư viện của nhà trường cũng cho thấy tỷ lệ giáo viên và học sinh vào thư viện đọc sách ngày một tăng, ngày một nhiều giáo viên và học sinh ham thích đọc sách và yêu sách, vòng quay của sách tăng lên đáng kể góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường
Thông qua sơ đồ hình cột thống kê số lượt bạn đọc đến thư viện trong 5 năm (2012 – 2016) ta đã thấy tốc độ bạn đọc đến thư viện ngày một tăng đáng kể. Trong 3 năm 2012, 2013,1014 số lượt bạn đọc đến thư viện tăng không đáng kể, nhưng từ năm 2015 số lượt bạn đọc đã tăng vọt từ 12500 lượt bạn đọc trong năm
I. KẾT LUẬN.
016 đã tăng 19800 lượt trong năm.
Biểu đồ trên đã cho thấy sách là loại hình tài liệu chiếm số lượng lớn nhất. Trong quá trình học tập và giảng dạy tại trường, sách luôn được đông đảo học sinh và cán bộ trong nhà trường quan tâm bởi đây là loại hình tài liệu quen thuộc, có nội dung phong phú phù hợp với tính chất của nhà trường. Số lượng các loại sách hiện có trong thư viện.Từ kết quả thu được sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài này tôi nhận thấy đề tài rất thiết thực và hiệu quả, đồng thời bản thân là cán bộ thư viện cần phải làm tốt công việc của mình, phải thấy hết trách nhiệm và tâm huyết với nghề.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu. Đây là cơ hội hết sức thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn cần phải vượt qua của ngành giáo dục nói chung và trường học nói riêng. Sự đổi mới giáo dục, đào tạo trong phương pháp giảng dạy của người giáo viên và học tập của người học sinh phải được quán triệt song hành với việc đổi mới hệ thống các trung tâm thông tin –
thư viện trong các trường THCS.
Hiện nay, thư viện nhà trường đang phục vụ bạn đọc với trên 5750 các ấn phẩm trong đó:
Sách chiếm 4750 bản( 79%)
Báo; tạp chí gồm 1000 bản (21%)
Thành phần vốn tài liệu của thư viện trường được thể hiện qua biểu đồ hình tròn
Sau:
Biểu đồ số: Thành phần vốn tài liệu có trong thư viện
Biểu đồ trên đã cho thấy sách là loại hình tài liệu chiếm số lượng lớn nhất
Đây chính là nơi giúp cho giáo viên và học sinh có điều kiện tự học tập, tự nghiên cứu. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển như vũ bão. Vì vậy, thư viện phải là nơi được hiện đại hoá đầu tiên về cơ sở vật chất, thao tác nghiệp vụ trong quản lý và trong việc phát triển nguồn tin để đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ thông tin nâng cao chất lượng phục vụ thông tin cho thầy và trò của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội trong thời kỳ đổi mới.
II. KHUYẾN NGHỊ.
Một khâu then chốt ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả phục vụ thông tin cho thầy và trò của trường chính là nguồn lực thông tin. Nhiều năm qua thư viện trường học đã xác định xây dựng một nguồn lực thông tin đầy đủ về số lượng, phù hợp về nội dung và đa dạng về hình thức trên cơ sở phù hợp với nội dung nhu cầu thông tin của người dùng tin của thư viện trường.
Đối với Phòng Giáo dục: Cần quan tâm và chỉ đạo sát sao, tiếp tục đầu tư về trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của thư viện nhà trường; bổ sung thêm cho thư viện nhà trường các loại sách, báo, tạp chí…
Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Tiếp tục đầu tư tu bổ về cơ sở vật chất, huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào công tác phát triển vốn tài liệu của thư viện nhà trường.
Đối với tổ công tác thư viện: Cần phối hợp chặt chẽ với cán bộ thư viện trong việc triển khai kế hoạch hoạt động của thư viện.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Bạn đang xem bài viết Chính Phủ Đưa Ra 7 Giải Pháp Để Phát Triển Vật Liệu Xây Dựng trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!