Cập nhật thông tin chi tiết về Chức Năng Của Tài Chính Doanh Nghiệp Là Gì? mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Một doanh nghiệp thực sự phát triển mạnh khi nó gồm các nguồn lực đảm bảo và vững chắc. Trong số đó, tài chính doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định đến sự sống còn và phát triển của từng đơn vị kinh doanh.
Vậy thì, tài chính doanh nghiệp được hiểu là gì, và chức năng của tài chính doanh nghiệp như thế nào?
Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Định nghĩa tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống gồm các luồng giá trị để phản ánh sự vận động chuyển hóa các nguồn tài chính, tiền tệ, của cải trong quá trình phân phối. Từ đó, tạo lập hoặc sử dụng chúng nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Đối với một doanh nghiệp, việc thu hút vốn để công ty tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động của mình là điều cực kỳ quan trọng. Đây cũng là một trong những vai trò trọng tâm của tài chính doanh nghiệp. Nói một cách khác, tài chính doanh nghiệp chính là phương tiện, công cụ giúp đơn vị có thể nhận các gói đầu tư để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Hơn thế nữa, nó giúp công ty kinh doanh sử dụng dòng vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả. Tài chính doanh nghiệp còn đóng vai trò kích thích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của công ty.
Một điều đáng lưu ý trong vai trò của tài chính doanh nghiệp chính là giúp các nhà quản trị, điều hành kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp.
Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Chức năng của tài chính doanh nghiệp gồm những gì?
Xét về mặt tổng thể, tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng cho sự duy trì, phát triển của đơn vị bởi nó giúp điều phối và kiểm tra hoạt động kinh doanh của công ty. Vậy thì, từng chức năng cụ thể của tài chính doanh nghiệp trong đơn vị kinh doanh là gì?
Đảm bảo hoạt động của công ty được tiến hành liên tục
Một doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn vốn đa dạng khác nhau, chúng có thể là: Vốn từ Ngân sách Nhà Nước, vốn cổ phần, vốn chủ sở hữu, vốn liên doanh, vốn vay, vv…. Tùy thuộc vào loại hình, nhu cầu của doanh nghiệp mà loại vốn có thể có sự khác biệt. Nhưng chung quy lại, nó đều để đáp ứng được việc sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Với chức năng này, tài chính doanh nghiệp giúp cho đơn vị có thể xác định được nhu cầu vốn cần thiết để duy trì và phục vụ cho sản xuất. Đồng thời, nó còn đóng vai trò cân đối khả năng vốn của công ty và nhu cầu sản xuất của đơn vị.
Công cụ giúp nhà quản trị theo dõi hoạt động của doanh nghiệp
Xét về tổng thể, chức năng này của tài chính doanh nghiệp là giúp công ty lựa chọn và phân phối nguồn vốn hiệu quả nhất. Nghĩa là, với lượng vốn nhỏ nhất, có thể đem lại lợi nhuận cao nhất.
Tài chính doanh nghiệp giúp phân phối thu nhập
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp không chỉ dùng để phân phối nguồn thu của doanh nghiệp mà còn giúp góp phần khai thông các nguồn tài chính trong xã hội đảm bảo vốn cho doanh nghiệp hoạt động. Hoạt động phân phối có thể tiến hành trong nội bộ doanh nghiệp hoặc là giữa các doanh nghiệp với nhau.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sau sẽ được thu về và phân phối theo chi phí khác nhau như sau:
Các chi phí của nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền lương cho công nhân, các khoản trích theo lương,vv…
Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác.
Sau khi đã loại trừ các khoản chi phí cho các hoạt động, phần còn lại doanh nghiệp thu về sẽ là lợi nhuận trước thuế. Từ đó, phần lợi nhuận này đầu tiên sẽ được trừ đi các khoản nghĩa vụ với Nhà nước. Sau đó, mới được phân phối theo dạng cổ tức về cho các cổ đông trong đơn vị.
Nếu như bạn đang quan tâm đến vấn đề này, đừng ngần ngại truy cập chúng tôi để được đăng ký các khóa học tài chính đầy hữu ích từ các diễn giả nổi tiếng.
Tài Chính Doanh Nghiệp Là Gì? Chức Năng Của Tài Chính
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống gồm các luồng giá trị để phản ánh sự vận động chuyển hóa các nguồn tài chính, tiền tệ, của cải trong quá trình phân phối. Từ đó, tạo lập hoặc sử dụng chúng nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Đối với một doanh nghiệp, việc thu hút vốn để công ty tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động của mình là điều cực kỳ quan trọng. Đây cũng là một trong những vai trò trọng tâm của tài chính doanh nghiệp. Nói một cách khác, tài chính doanh nghiệp chính là phương tiện, công cụ giúp đơn vị có thể nhận các gói đầu tư để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Hơn thế nữa, nó giúp công ty kinh doanh sử dụng dòng vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả. Tài chính doanh nghiệp còn đóng vai trò kích thích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của công ty.
Một điều đáng lưu ý trong vai trò của tài chính doanh nghiệp chính là giúp các nhà quản trị, điều hành kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp.
Chức năng của tài chính
Chức năng phân phối:
Phân phối thể hiện chức năng của tài chính diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều khâu khác nhau, trong phạm vi mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như trên phạm vi xã hội với những đặc trưng sau đây:
Phân phối của tài chính là phân phối dưới hình thức giá trị.
Đó là hoạt động phân phối nguồn của cải vật chất được sáng tạo từ các lĩnh vực của hoạt động sản xuất, kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị là đồng tiền. Trên thực tế, phân phối của tài chính được cụ thể hóa thành hiện tượng chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm thỏa mãn các mục đích khác nhau. Kết quả của hoạt động này chính là việc hình thành nên các quỹ tiền tệ trong xã hội.
Sau khi các quỹ tiền tệ được hình thành trong quá trình chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể sang chủ thể khác, đến lượt mình, các quỹ tiền tệ này lại tiếp tục đựoc các chủ thể đưa vào tham gia hoạt động phân phối như là một vòng tuần hoàn.
Như vậy, có thể nói, hiện tượng tài chính luôn luôn diễn ra trong xã hội với biểu hiện là hoạt động phân phối do các chủ thể khác nhau trong xã hội tiến hành. Chính việc tạo lập, phân phối, sử dụng các quỹ tiền tệ với mục đích nhất định là kết quả của chức năng phân phối của hiện tượng tài chính. Nó là cơ sở để tạo lập nên các quỹ vật tư, hàng hoá cho các quá trình tiếp theo của các hoạt động kinh tế, hoặc đáp ứng những nhu cầu khác của tích lũy hay tiêu dùng xã hội.
Phân phối lần đầu của tài chính là phân phối ở phạm vi hẹp, diễn ra ở khâu cơ sở. Khi của cải vật chất được tạo ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế được đưa vào thị trường và được chuyển thành giá trị là tiền, lượng giá trị này đựoc phân phối để hình thành nên các quỹ bù đắp, quỹ tiêu dùng hay tích lũy. Các quỹ này có thể ở dạng không tập trung ở các đơn vị, tổ chức kinh tế như quỹ khấu hao, vốn lưu động, quỹ lương, quỹ phát triển sản xuất hay nghiệp vụ… hoặc những quỹ tiền tệ tập trung trong tay nhà nước như quỹ ngân sách nhà nước. Đây chính là quá trình phân phối lần đầu của tài chính.
Phân phối tài chính không dừng lại ở đó.
Khi các quỹ tiền tệ trên được hình thành rồi thì tiếp tục đựoc đưa vào để tái sản xuất hoặc phân phối lại để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Nếu ở giai đoạn phân phối lần đầu các quan hệ phân phối chủ yếu diễn ra trong phạm vi các tổ chức kinh tế thì ở giai đoạn phân phối lại, hoạt động phân phối đã diễn ra ở phạm vi toàn xã hội, tạo nên các kênh kết nối, đưa các nguồn tài chính đáp ứng các nhu cầu nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Chức năng giám đốc:
Đó là việc kiểm tra quá trình hình thành các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ và việc sử dụng chúng, trên cở sở đó, xác định việc các nguồn quỹ, các nguồn vốn tiền tệ đựoc tạo lập, sử dụng trong hoạt tài chính có phù hợp với nhu cầu thi trường, yêu cầu của quản lý vĩ mô cũng như hiệu qủa sử dụng các nguồn vốn, nguồn quỹ như thế nào. Để thực hiện chức năng này, hiện tượng tài chính sẽ dựa vào hai chức năng cơ bản của tiền tệ là chức năng thước đo giá trị và chức năng thanh toán.
Với tính chất như vậy, chức năng giám đốc của hiện tượng tài chính không những kiểm tra phạm vi các quan hệ phân phối mà còn kiểm tra toàn bộ nền kinh tế, đánh giá nhu cầu cân đối vốn, hiệu quả đầu tư, quan hệ cung cầu…
Chức năng giám đốc của tài chính gắn liền với chức năng phân phối. Thông qua phân phối để thực hiện giám đốc và giám đốc để phân phối tốt hơn
Quản Trị Tài Chính Là Gì? Tổng Quan Về Hoạt Động Tài Chính Của Doanh Nghiệp
Quản trị tài chính nghe qua có vẻ đơn giản là quản lý dòng tiền vào ra nhưng sự thực, hầu hết các giám đốc đều chưa biết cách quản lý tài chính hiệu quả.
I. Quản trị tài chính doanh nghiệp là gì?
Quản trị tài chính doanh nghiệp (Financial Management) trong kinh tế học là việc lập kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo, kiểm soát các hoạt động tài chính ví dụ như: mua sắm, sử dụng các quỹ tài chính của doanh nghiệp vào các hoạt động cần thiết.
Quản trị tài chính doanh nghiệp từ xưa đã gắn bó liền với tài chính kế toán. Nó được thể hiện trong việc quản lý các báo cáo tài chính. Việc quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần phải áp dụng các nguyên tắc quản lý chung cho các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính doanh nghiệp là một trong những công việc quan trọng của người quản lý doanh nghiệp bởi quản trị tài chính tốt không chỉ giúp doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận mà còn đưa doanh nghiệp vượt đà phát triển.
II. Mục tiêu của quản lý tài chính
Quản trị tài chính nghĩ rộng ra là việc kiểm soát dòng tiền vào ra của doanh nghiệp và việc phân bổ các nguồn tài chính sao cho phù hợp. Mỗi doanh nghiệp đều có những mục tiêu khác nhau trong từng thời kỳ phát triển. Dưới góc độ các nhà kinh tế hiện nay thì người ta thường đề ra hai mục tiêu cơ bản.
– Tối đa hóa chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế: Lợi nhuận sau thuế là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty có lãi hay không? Tuy nhiên, nếu chỉ có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sau thuế thì chưa hẳn đánh giá được giá trị của cổ đông doanh nghiệp, chỉ tiêu này không nói lên được doanh nghiệp phải bỏ ra những gì để có được lợi nhuận cực đại. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hành cổ phiếu nhằm tăng thêm vốn góp rồi dùng số tiền huy động được để đầu tư vào trái phiếu thu lợi nhuận, lợi nhuận sẽ gia tăng tuy nhiên lợi nhuận trên vốn cổ phần giảm vì số lượng cổ phần phát hành tăng. Do đó, cần bổ sung thêm chỉ tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên vốn cổ phần.
– Tối đa hóa lợi nhuận trên vốn cổ phần: Mục tiêu này có thể bổ sung hạn chế trên của mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, vẫn có một số hạn chế nhất định như không xét đến yếu tố thời giá tiền tệ và yếu tố rủi ro. Vì vậy mục tiêu tối đa hóa giá trị thị trường của cổ phiếu được xem là mục tiêu thích hợp nhất của quản trị tài chính công ty vì nó chú ý nhiều yếu tố như độ dài thời gian, rủi ro, chính sách cổ tức và những yếu tố khác ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
III. 7 chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp
Quản trị tài chính là 1 trong các chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Chức năng quản trị tài chính có mối liên hệ mật thiết với các chức năng khác trong doanh nghiệp như: chức năng quản trị sản xuất, chức năng quản trị marketing, chức năng quản trị nguồn nhân lực. Nếu xét riêng về chức năng của quản trị tài chính, có thể xét đến 7 chức năng sau:
1. Ước tính các yêu cầu về vốn
2. Xác định thành phần vốn
3. Lựa chọn nguồn vốn
4. Đầu tư của các quỹ
Người quản lý phải quyết định phân bổ tiền vào các dự án có lợi nhuận, nghĩa là mang về doanh thu lớn để có sự an toàn về đầu tư và lợi nhuận thường xuyên của những người làm kinh tế.
5. Quăng bỏ thặng dư
6. Quản lý tiền mặt
7. Kiểm soát tài chính
Người quản lý tài chính doanh nghiệp không chỉ lập kế hoạch sử dụng quỹ tài chính mà còn phải kiểm soát tài chính kinh tế. Điều này có thể được thực hiện thông qua nhiều kỹ thuật như phân tích tỷ lệ dự báo tài chính, chi phí và kiểm soát lợi nhuận…
V. Các mức độ quản trị tài chính doanh nghiệp
Quản trị tài chính có nhiều mức độ khác nhau tương ứng là nội dung quản lý, công cụ hỗ trợ cũng khác nhau.
Mức thô sơ: Mục đích là để lập hóa đơn tài chính hoặc báo cáo thuế
Mức nâng cao: Ra được các báo cáo phân tích tài chính và mô hình tài chính trên quy mô tổng hợp nhiều chi nhánh và truy cập mọi lúc, mọi nơi trên thiết bị di động (điện toán đám mây/ di động). Có khả năng xử lý nhanh chóng khối lượng dữ liệu lớn và bảo vệ an toàn dữ liệu gần như tuyệt đối.
Trong đó, công cụ excel có thể đáp ứng linh hoạt mức quản lý thô sơ và căn bản nhưng cũng tốn khá nhiều thời gian và công sức. Ở mức nâng cao, bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng đến các phần mềm kế toán độc lập hoặc được tích hợp trong phần mềm erp để làm việc hiệu quả hơn, nhanh chóng và chính xác hơn.
VI. 4 vấn đề khó khăn khi quản trị tài chính doanh nghiệp
Cũng giống với công việc quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính thực tế gặp phải không ít khó khăn từ việc dữ liệu không chính xác, thiếu nhân sự đến công cụ hạn chế…
Theo khảo sát, có 4 khó khăn điển hình nhất trong công việc quản lý tài chính là:
Quản lý nguồn thu, nguồn chi căn cứ trên ước lượng, dự đoán, thiếu phân tích nên không thấy hết nguồn thu, không cắt giảm được chi phí.
Kiểm soát công nợ chưa thường xuyên, chặt chẽ, chưa có chính sách xử lý nợ rốt ráo dễ dẫn đến thiếu tiền.
Kiểm soát không chặt chẽ vật tư hàng hóa, xuất nhập tồn kho, trên đường đi, hàng gửi làm lãng phí vốn.
Không có kế hoạch tài chính, thậm chí không kiểm soát được dòng tiền, kế hoạch thu trả nợ.
Những khó khăn này đều có thể giải quyết dễ dàng bằng phần mềm kế toán online có kết hợp quản lý thu chi nội bộ.
Bản Chất Chức Năng Tài Chính Doanh Nghiệp
Nội dung của các mối quan hệ tài chính.
Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục.
Tài chính- thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau.
Tài chính cũng không phải là tiền tệ, và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát minh vĩ đại trong đó phải kể đến việc phát minh ra tiền, mà nhờ đó người ta có thể quy mọi hoạt động khác nhau về một đơn vị đo thống nhất, và trên cơ sở đó có thể so sánh, tính toán được với nhau. Như vậy tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền.
Do vậy toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau:
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp.
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức.
Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính… nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông.
+ Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tài chính trung gian.
Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế.
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau.
Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại.
Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận.
+ Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất.
Bạn đang xem bài viết Chức Năng Của Tài Chính Doanh Nghiệp Là Gì? trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!