Cập nhật thông tin chi tiết về Chức Năng, Hình Thức, Bộ Máy Nhà Nước mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bản chất và vai trò của nhà nước thể hiện trực tiếp trong nhiệm vụ và chức năng của nhà nước, gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ và chức năng ấy.
a) Nhiệm vụ của nhà nước là mục tiêu mà nhà nước cần đạt tới, là những vấn đề đặt ra mà nhà nước cần giải quyết.
b) Chức năng của nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Chức năng của nhà nước là phương tiện, công cụ để thực hiện nhiệm vụ, được quy định trực tiếp bởi nhiệm vụ.
Một nhiệm vụ cơ bản chiến lược thường được thực hiện bởi nhiều chức năng. Ví dụ: nhiệm vụ chung xây dựng CNXH, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội. Một chức năng có thể là phương tiện thực hiện nhiều nhiệm vụ cụ thể, cấp bách. Ví dụ: chức năng kinh tế thực hiện nhiều nhiệm vụ như: đảm bảo tự túc lương thực trong nước và xuất khẩu, chống lạm phát, ổn định đời sống nhân dân…
Xét ở phạm vi bao quát hơn, chức năng nhà nước được quy định một cách khách quan bởi cơ sở kinh tế- xã hội(kết cấu giai cấp).
Ví dụ: Chức năng cơ bản của kiểu nhà nước bóc lột (bảo vệ, duy trì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trấn áp phản kháng của giai cấp bị trị, tiến hành xâm lược hòng nô dịch các dân tộc khác…) bị quy định bởi quyền tư hữu tư liệu sản xuất và chế độ bóc lột nhân dân lao động.
Chức năng nhà nước XHCN khác chức năng nhà nước bóc lột: thể hiện ở nội dung và phương thức thực hiện. Cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN là chế độ công hữu với tư liệu sản xuất và nhà nước là tổ chức chính trị thể hiện ý chí, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân lao động, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các chức năng cơ bản của nhà nước luôn được bổ sung bằng những nội dung mới phù hợp với nhiệm vụ và tình hình của mỗi giai đoạn phát triển xã hội.
Ví dụ: nhiệm vụ quan trọng hiện nay là xây dựng nền kinh tế phát triển- nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế có nhiều nội dung mới và phương thức thực hiện năng động nhạy bén phù hợp với cơ chế quản lý mới.
Chức năng nhà nước và chức năng cơ quan nhà nước:
Chức năng nhà nước là phương diện chủ yếu của cả bộ máy nhà nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau.
Ví dụ: chức năng bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp chế thuộc về các cơ quan: Quốc Hội, Tòa án, Viện kiểm sát…
Chức năng của một cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động của cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện chức năng chung của nhà nước.
Ví dụ: Tòa án thực hiện chức năng xét xử vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp. Chức năng của Viện kiểm sát là công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Căn cứ vào tính chất chức năng phân thành:
a) Chức năng cơ bản
b) Chức năng không cơ bản.
Căn cứ vào thời gian thực hiện chức năng:
a) Chức năng lâu dài
b) Chức năng tạm thời
Căn cứ vào đối tượng của chức năng:
a) Chức năng đối nội (là chức năng cơ bản)
b) Chức năng đối ngoại.
2 loại chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, các chức năng đối ngoại luôn xuất phát từ việc thực hiện chức năng đối nội và phục vụ chức năng đối nội. Thực hiện tốt chức năng đối nội sẽ thuận lợi cho thực hiện chức năng đối ngoại và ngược lại.
Chức năng đối nội quan trọng và có vai trò quyết định đối với sự tồn tại của nhà nước.
3. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng:
Hình thức thực hiện chức năng:
Hình thức mang tính pháp lý:
Hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật.
Tổ chức thực hiện pháp luật .
Bảo vệ pháp luật
Hình thức mang tính tổ chức kỹ thuật- kinh tế- xã hội.
Phương pháp thực hiện chức năng: 2 phương pháp : thuyết phục và cưỡng chế.
Sự khác nhau căn bản giữa nhà nước XHCN và nhà nước bóc lột: phương pháp chủ yếu của nhà nước XHCN là thuyết phục, giáo dục còn cưỡng chế chỉ được áp dụng khi thuyết phục, giáo dục không đạt kết quả và cũng chỉ với mục đích cải tạo người xấu thành người tốt có lợi ích cho xã hội, ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực chứ hoàn toàn không mang tính chất đàn áp.
Nhà nước bóc lột: cưỡng chế là phương pháp cơ bản, được áp dụng rộng rãi mà chủ yếu là để áp bức , bóc lột nhân dân lao động.
Hình thức nhà nước:
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, là phương thức chuyển ý chí giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước.
Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất nhà nước.
Có hai loại:
Hình thức chính thể là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
Hình thức chính thể gồm 2 dạng cơ bản:
Chính thể quân chủ: quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước ( vua, hoàng đế…) theo nguyên tắc thừa kế.
Chính thể quân chủ được chia thành:
Chính thể quân chủ tuyệt đối: người đứng đầu nhà nước ( vua, hoàng đế…) có quyền lực vô hạn.
Chính thể quân chủ hạn chế: quyền lực tối cao được trao cho người đứng đầu nhà nước và một cơ quan cấp cap khác.
Chính thể cộng hòa: quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hòa có 2 hình thức:
Chính thể cộng hòa dân chủ: pháp luật quy định quyền của công dân tham gia bầu cử thành lập cơ quan đại diện của nhà nước. Nhưng vấn đề này thực hiện được hoặc không thực hiện được còn phụ thuộc vào nhà nước thuộc giai cấp nào.
Chính thể cộng hòa quý tộc: quyền tham gia bầu cử để thành lập các cơ quan đại diện của nhà nước chỉ dành riêng cho giới quý tộc (dưới chế độ nô lệ và phong kiến).
Là sự tổ chức nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương.
Có 2 hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu:
Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, thống nhất, các bộ phận hợp thành nhà nước là các đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền quốc gia và các đặc điểm của nhà nước. Có hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Ví dụ: Việt Nam, Lào, Trung Quốc…
Nhà nước liên bang: không chỉ liên bang có dấu hiệu nhà nước mà các nhà nước thành viên ở mức độ này hay mức độ khác cũng có các dấu hiệu của nhà nước, chủ quyền quốc gia. Nhà nước liên bang có 2 hệ thống cơ quan nhà nước và 2 hệ thống pháp luật.
Ví dụ: Mỹ, Liên Xô cũ, Braxin…
Có một loại hình nhà nước khác nữa là nhà nước liên minh: nhà nước liên minh chỉ ra là sự liên kết tạm thời của các quốc gia để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục đích. Nhà nước liên minh tự giải tán. Cũng có trường hợp phát triển thành nhà nước liên bang.
Ví dụ: Từ năm 1776 đến năm 1787, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh sau trở thành nhà nước liên bang.
Bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Bộ phận cấu thành nhà nước là cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước là tổ chức chính trị có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, bao gồm những cán bộ, viên chức nhà nước. Cán bộ, viên chức nhà nước là những con người được giao quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ, chức năng trong phạm vi luật định.
Phân loại cơ quan nhà nước.
Theo chức năng: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Theo vị trí, tính chất, thẩm quyền: cơ quan quyền lực, cơ quan quản lý, Tòa án, Viện kiểm sát.
Sự phát triển của bộ máy nhà nước qua các kiểu nhà nước trong lịch sử.
a) Tính tất yếu khách quan của sự phát triển bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là phạm trù năng động, luôn vận động, biến đổi để thích nghi với điều kiện khách quan của xã hội.
Bộ máy nhà nước chịu sự quy định của yếu tố kinh tế, bản chất nhà nước, tương quan lực lượng chính trị- xã hội, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán.
Bộ máy nhà nước chịu sự quy định của yếu tố chủ quan: quan điểm, nhận thức. b) Quy luật phát triển của bộ máy nhà nước qua các kiểu nhà nước.
Bộ máy nhà nước được tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện trên cơ sở thừa kế những điểm tiến bộ của bộ máy nhà nước trước đó.
Bộ máy nhà nước luôn được cải cách, đổi mới để thích nghi.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
Bài viết trong lĩnh vực nhà nước và pháp luật được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Bản Chất, Chức Năng, Bộ Máy Và Hình Thức Nhà Nước Tư Sản
50872
Bản chất của nhà nước tư sản
Chức năng của nhà nước tư sản
Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản
Chức năng kinh tế
Chức năng xã hội
Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới
Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế
1. Bản chất của nhà nước tư sản
Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội Tư sản quyết định, đó chính là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.
Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất (chủ yếu dưới dạng nhà máy, hầm mỏ, đồn điền…), được thực hiện thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư.
Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là một kết cấu xã hội phức tạp trong đó có hai giai cấp cơ bản, cùng tồn tại song song có lợi ích đối kháng với nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong hai giai cấp này giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội. Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động chúnh trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng không có tư liệu sản xuất nên họ chỉ là người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản. Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức…
2. Chức năng của nhà nước tư sản
Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội.
Qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản các chức năng của nhà nước tư sản có những thay đổi đáng kể, tuy vậy khi xem xét ta thấy tựu chung nhà nước tư sản có các chức năng đối nội và đối ngoại sau:
a) Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản
– Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản
Chức năng này bao hàm những nội dung sau:
– Trấn áp các giai cấp bị trị về mặt chính trị
Tất cả các nhà nước tư sản đều coi quyền tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thông qua pháp luật các nhà nước tư sản đã thiết lập và bảo vệ quyền tư hữu cùng với sự giúp đỡ của tất cả bộ máy bạo lực và các biện pháp khác. Song ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước tư sản đã thực hiện chức năng này cũng khác nhau, thích ứng với hoàn cảnh kinh tế của mỗi giai đoạn. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của toàn bộ giai cấp tư sản. Hiện nay, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của những nhóm tư bản độc quyền dưới nhiều hình thức khác nhau, như: chuyển sở hữu của nhóm tư bản độc quyền đang bị đe doạ sang sở hữu nhà nước, tạo cho nó những độ quyền trong đầu tư hoặc khai thác tín dụng, giúp đỡ các nhóm tư bản độc quyền mở rộng thị trường ra bên ngoài…
– Trấn áp giai cấp bị trị về mặt tư tưởng
Đây là hoạt động thường xuyên của nhà nước tư sản nhằm bảo vệ địa vị thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Tuy vậy hoạt động này cũng có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn đầu, để bảo vệ địa vị thống trị của mình, nhà nước tư sản thướng sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp trực tiếp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước tư sản vẫn duy trì sự đàn áp chính trị nhưng dưới những hình thức, phương pháp ngụy trang tinh vi hơn, như: quy định các hình thức, thể thức ứng cử, bầu cử …
Một mặt nhà nước tư sản luôn tuyên truyền về tinh thần dân chủ đa nguyên, nhưng trên thực tế trong tất cả các giai đạo phát triển các nhà nước tư sản luôn tìm mọi cách nhằm đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản việc truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt động này được bảo đảm bởi sự liên kết giữa nhà nước tư sản với các thế lực tôn giáo và hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chức năng này chưa được chú trọng. Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước tư sản từng bước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, và khi chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thì sự can thiệp này được tăng cường và làm nảy sinh chức năng mới – chức năng kinh tế.
Mục đích của chức năng này nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư bản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.
Để thực hiện chức năng này, nhà nước tư sản sử dụng hàng loạt các hình thức và phương pháp như: sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các kích thích kinh tế thể hiện trong các tác động mang tính hành chính – kinh tế lên hệ thống các quan hệ kinh tế.
Sự biểu hiện của chức năng này thể hiện:
+ Nhà nước tư sản căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội để xây dựng và đưa ra các chương trình kinh tế cụ thể.
+ Nhà nước thông qua chương trình đầu tư tài chính nhằm phục vụ trực tiếp cho các chương trình và mục tiêu kinh tế.
+ Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thị trường thích hợp với điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế.
+ Nhà nước áp dụng các biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sức ép của thị trường kinh tế quốc tế.
c) Chức năng xã hội
d) Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới
Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Các nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở rộng vùng ảnh hưởng của mình.
Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu của các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ, chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.
e) Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế
Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại, giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các vấn đề nhân đạo… với các nước có chế độ chính trị khác nhau.
3. Bộ máy nhà nước tư sản
Các nhà nước tư sản dù được tổ chức dưới hình thức chính thể nào thì vẫn đều có chung một cách thức tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở thuyết phân quyền nhằm chống lại sự độc đoán chuyên quyền của chế độ chuyên chế phong kiến, giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ của giai cấp tư sản và che đậy bản chất thực của mình trước quần chúng nhân dân lao động.
Nội dung của thuyết phân quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước thành 3 nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba nhánh quyền này phải được giao cho ba cơ quan nhà nước khác nhau nắm giữ trên một cơ chế kìm chế, đối trọng nhau nhưng độc lập với nhau, yếu tố chủ đạo của học thuyết là “dùng quyền lực để hạn chế quyền lực”.
Trên cơ sở của nguyên tắc phân chia quyền lực, về cơ bản bộ máy nhà nước tư sản bao gồm những bộ phận sau:
b) Nguyên thủ quốc gia
Nguyên thủ quốc gia là người người đớng đầu nhà nước, đại diện cho các quốc gia trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.
Chức vụ này trong các nhà nước có các hình thức chính thể khác nhau, sự hình thành và thẩm quyền cũng hết sức khác nhau. Trong các nhà nước có hình thức chính thể quân chủ lập hiến nguyên thủ được hình thành bằng con đường truyền kế, và được nhìn nhận như là biểu tượng cho truyền thống và sự thống nhất dân tộc (Nhật Bản, Vương quốc Anh…).
Ở các nước có chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia được hình thành thông qua con đường bầu cử. Tuy nhiên thẩm quyền của họ cũng hết sức khác nhau ở các loại hình chính thể khác nhau. Nếu như trong chính thể cộng hoà tổng thống quyền lực của nguyên thủ là hết sức lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp (Mỹ, Mêxicô, Philippin…), thì trái lại ở những nước có chính thể cộng hoà đại nghị cũng giống như các nước có chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện hình thức. Tuy nhiên, nguyên thủ quốc gia cũng có ảnh hưởng nhất định trong việc thành lập chính phủ hoặc trong một số vấn đề khác nhờ sử dụng sứ mạng đạo đức và là biểu tượng của vị đứng đầu đầu nhà nước (Đức, Ý, Nhật Bản…).
c) Chính phủ
Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp trong nhà nước tư sản. Chính phủ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng và giữ vị trí trung tâm trong bộ máy nhà nước. Trên thực tế, chính phủ tư sản quyết định phần lớn các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước tư sản.
Cách thức hình thành chính phủ trong các nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Đối với những nước có chính thể cộng hoà tổng thống, chính phủ được thành lập không phụ
thuộc vào nghị viện, đứng đầu chính phủ là tổng thống, những nước này không đặt ra chức vụ thủ tướng. Đối với các nước có chính thể cộng hoà đại nghị hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chính trị nắm đại đa só ghế trong nghị viện. Thủ tướng chính phủ và các thành viên chính phủ có thể do tổng thống bổ nhiệm (Italia, Pháp, Nhật), có thể do tổng thống kết hợp với nghị viện bầu (Đức).
d) Toà án
Toà án tư sản nắm quyền tư pháp, Toà án có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản.
Các thẩm phán của nhà nước tư sản thường có tính chuyên nghiệp cao, chủ yếu được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài, thậm chí ở một số nước là nhiệm kỳ suốt đời, nếu bảo đảm sức khỏe và không phạm tội.
Tuy nhiên ở các hệ thống pháp luật khác nhau, thẩm quyền và phương thức hoạt động của toà án cũng khác nhau, đặc biệt là giữa hệ thống pháp luật Ăng lô – Xắc xông và Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
Bên cạnh hệ thống toà án cổ điển, nhà nước tư sản còn thiết lập các toà án khác như: toà hành chính, toà thương mại, toà vị thành niên, toà bảo hiến …
4. Hình thức nhà nước tư sản
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hình thức nhà nước tư sản gồm: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
a) Hình thức chính thể tư sản
– Chính thể quân chủ lập hiến
Nhà nước Tư sản có hai dạng chính thể cơ bản là chính thể quân chủ lập hiến và chính thể cộng hoà.
Trong các nhà nước có chính thể quân chủ lập hiến có hai dạng biến dạng chính là chính thể quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.
Chính thể quân chủ nhị nguyên thể hiện tính song phương quyền lực giữa nhà vua và nghị viện. Vua chỉ bị hạn chế trong lĩnh vực lập pháp mà không bị hạn chế trong lĩnh vực hành pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua phải có sự phê chuẩn của nhà vua.Chính phủ chịu trách nhiệm trước nhà vua. Hình thức này chỉ tồn tại ở nhà nước tư sản trong giai đoan đầu (Nhà nước Phổ thời kỳ đệ nhị đế quốc, 1871 – 1918 và nhà nước Nhật theo Hiến pháp Minh Trị 1889).
– Chính thể cộng hoà tư sản
Hình thức quân chủ đại nghị thể hiện tính hình thức của quyền lực nhà vua. Nhà vua, với tính cách là nguyên thủ quốc gia chỉ là người đại diện tượng trưng chứ không nắm quyền hành thực tế. Trên thực tiễn, nhà vua không nắm quyền lực trên cả lĩnh vực hành pháp và lập pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua và nhà vua không có quyền phủ quyết. Chính phủ do nghị viện thành lập và phải chịu trách nhiệm trước nghị viện (Anh, Nhật bản theo Hiến pháp1946…).
Đây là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản hiện nay. Ở Hình thức này có hai biến dạng chủ yếu là cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị.
Ở chính thể cộng hoà tổng thống, vai trò của nguyên thủ quốc gia là rất quan trọng. Tổng thống vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu chính phủ, do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc do các đại biểu cử tri bầu ra. Các thành viên của chính phủ do tổng thống lựa chọn và bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật của nghị viện. Nghị viện không có quyền giải tán chính phủ trừ trường hợp tổng thống phạm tội nghiêm trọng bị hạ viện khởi tố và thượng viện xét xử theo thủ tục đặc biệt (thủ tục đàn hạch).
Ở chính thể cộng hoà đại nghị, vai trò của nghị viện là rất lớn, nghị viện là thiết chế quyền lực trung tâm trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Nghị viện bầu ra nguyên thủ quốc gia (tổng thống) và đảng chính trị nắm đa số ghế trong nghị viện có quyền thành lập chính phủ, chính phủ chịu trách nhiệm trước nghị viện và có thể bị nghị viện giải tán, vai trò của tống thống không lớn (Liên bang Đức, Ý, Áo).
Ngoài chính thể cộng hoà tổng thống và chính thể cộng hoà đại nghị, hiện nay còn xuất hiện và tồn tại hình thức cộng hoà hỗn hợp giữa cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị (Pháp, Bồ đào Nha). Trong hình thức chính thể này, những đặc điểm của cộng hoà đại nghị được bảo lưu nhưng bên cạnh đó lại tăng cường quyền lực của tổng thống. Tổng thống được tuyển cử qua hình thức phổ thông đầu phiếu. Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm, người đứng đầu chính phủ là thủ tướng nhưng tổng thống vẫn có quyền điều hành hoạt động đối với chính phủ. Trong trường hợp cần thiết, tổng thống có quyền giải tán cả nghị viện.
b) Hình thức cấu trúc nhà nước tư sản
Nhà nước tư sản có các hình thức cấu trúc sau: Hình thức liên bang và hình thức đơn nhất.
Hình thức cấu trúc liên bang là sự hợp thành từ nhiều bang thành viên, song mỗi thành viên của liên bang không có đầy đủ các dấu hiệu của một nhà nước độc lập. Mặc dù mỗi thành viên đều có lãnh thổ riêng, hiến pháp riêng, hệ thống chính quyền riêng song bang không có chủ quyền quốc gia riêng (không là chủ thể của luật pháp quốc tế). Nhà nước liên bang có hiến pháp riêng, hệ thống pháp luật riêng, có giá trị tối cao so với hiến pháp và pháp luật của các bang thành viên. Đồng thời trong nhà nước liên bang tồn tại một chế độ hai quốc tịch đối với mỗi công dân. Trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang, về mặt nguyên tắc, các thành viên không có quyền tách khỏi nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc phổ biến của các nhà nước tư sản. Nhà nước đơn nhất có những dấu hiệu đặc trưng:
– Có hiến pháp và hệ thống pháp luật thống nhất;
– Hệ thống cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất (cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp);
– Có chủ quyền lãnh thổ thống nhất;
– Có quốc tịch thống nhất;
– Các cơ quan chính quyền địa phương tổ chức và hoạt động theo quy định chung của chính quyền trung ương.
Tuy nhiên, khi xem xét hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất tư sản cần chú ý một số biểu hiện cụ thể trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước địa phương. Trong một số nước, xu hướng tập trung quyền lực về trung ương được coi trọng. Các cơ quan chính quyền địa phương phục tùng tuyệt đối quyền lực nhà nước trung ương. Nhà nước cử đại diện của mình về địa phương trực tiếp quản lý mọi mặt hoạt động ở đây. Hoặc một số nước mặc dù có bầu ra các cơ quan chính quyền địa phương bên cạnh đại diện của trung ương, song hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự kiểm soát của các đại diện do trung ương cử về. Hình thức này tồn tại ở Nhật Bản và Pháp.
Một số nước lại thực hiện nguyên tắc tản quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Tại các nước này xuất hiện dấu hiệu sự tự trị của chính quyền địa phương. Cơ quan quyền lực địa phương do nhân dân bầu ra hoạt động theo nguyên tắc tự quản. Nhà nước gián tiếp kiểm soát hoạt động của các cơ quan địa phương, hình thức này được áp dụng ở một số địa phương của Anh, Tân Tây Lan, Pháp, Tây Ban Nha.
Ngoài hai hình thức cấu trúc trên, trong lịch sử của nhà nước tư sản còn tồn tại một kiểu cấu trúc nhà nước khác là liên minh giữa các quốc gia, như liên minh ở Mỹ từ 1776 – 1787, Đức đến 1867, Thụy Sỹ 1848; nhà nước liên minh là sự kết hợp các quốc gia có chủ quyền, nhằm giải quyết một số vấn đề nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, nhà nước liên minh có cơ cấu tổ chức không chặt chẽ và chỉ gây ảnh hưởng mang tính quyền lực đối với các nước thành viên trong một số lĩnh vực nhất định. Hiện nay, đáng chú ý là Liên minh Châu Âu.
c) Chế độ chính trị của nhà nước tư sản
Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được hiểu là toàn bộ các phương pháp, thủ đoạn mà giai cấp tư sản sử dụng để thực hiện nền chính trị tư sản. Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được phản ảnh qua các phương pháp hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước, địa vị pháp lý của công dân cùng các tổ chức chính trị xã hội và những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho công dân. Chế độ chính trị tư sản là một cơ chế năng động, linh hoạt, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản, cũng như ở từng quốc gia cụ thể biểu hiện của nó là hết sức khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung cho thấy nhà nước tư sản hoặc có chế độ chính trị dân chủ hoặc chế độ phản dân chủ. Việc xác lập chế độ chính trị nào là tuỳ thuộc vào tương quan chính trị trong nước, vai trò tiến bộ hay phản động của bộ phận cầm quyền, tình hình chính trị quốc tế.
Trong các chế độ chính trị nói trên thì chế độ dân chủ tư sản là chế độ chính trị tốt nhất của nhà nước tư sản, nó được biểu hiện bằng các dấu hiệu:
– Có sự thừa nhận sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
– Khả năng người dân được sử dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ;
– Có sự cùng tồn tại của các đảng chính trị, kể cả đảng của phái đối lập bên cạnh đảng cầm quyền;
– Hệ thống các cơ quan đại diện được hình thành bằng con đường bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu;
– Nguyên tắc pháp chế tư sản được bảo đảm.
Tuy nhiên, với chế độ chính trị dân chủ tư sản bộ mặt nhà nước tư sản đã co sự thay đổi đáng kể, song thực chất nó vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của một nhà nước bóc lột, như V.I LêNin đã nhận xét: “xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều hoàn bị trong chế độ cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy tựu chung vẫn bị bó trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, và do đó, thực ra, nó tựu chung vẫn là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi”1.
Chế độ phản dân chủ là cơ chế sử dụng bạo lực của các nhóm tư sản phản động lũng đoạn ttrong việc thực hiện chuyên chính tư sản. Đặc trưng của chế độ này là mọi quyền tự do, dân chủ bị hạn chế tới mức tối đa, hoặc bị xoá bỏ hoàn toàn; các đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức chính trị – xã hội độc lập bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp dã man, các thể chế dân chủ bị vô hiệu.
Biến dạng cao nhất của chế độ phản dân chủ là chế độ phát xít. Chế độ phát xít với tính chất cực đoan đã xoá bỏ hoàn toàn các thể chế dân chủ tư sản, cấm mọi tổ chức, đảng phái đối lập hoạt động, công khai sử dụng bạo lực và các biện pháp khủng bố, thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc. Ngày nay chế độ phát xít không còn tồn tại với đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của nó. Tuy nhiên, hiện vẫn còn có khuynh hướng phục hồi chủ nghĩa phát xít ở đây đó với những luận điệu mới cùng với sự phục hồi của những đảng tân phát xít trong một số nhà nước tư sản, và vì thế nguy cơ tiềm ẩn yếu tố đe doạ nền dân chủ tư sản vẫn luôn là có thật ở một số quốc gia.
Khái Niệm Chức Năng Của Nhà Nước Và Bộ Máy Nhà Nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế … là những chức năng đối nội của các nhà nước.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: phòng thủ đất nước, chống xâm lược từ bên ngoài, thiết lập các mối bang giao với các quốc gia khác …
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nahf nước sử dụng nhiều hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức hoạt động chính là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa, thuyết phục là phương pháp cơ bản, còn cưỡng chế được sửu dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết phục và giáo dục. Các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ trung ương xuống địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp … Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Vì vậy, cần phân biệt chức năng nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà nước cụ thể. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Chức năng của một cơ quan chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu các chức năng của nhà nước và bộ máy nhà nước phải xuất phát từ bản chất nhà nước trong mỗi kiểu nhà nước cụ thể để xem xét.
Bộ Máy Nhà Nước Là Gì? Mối Liên Hệ Với Chức Năng Của Nhà Nước
Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước (Bộ máy nhà nước là gì?). Trình bày mối liên hệ giữa bộ máy nhà nước với chức năng của nhà nước.
1 – Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước
a – Bộ máy nhà nước là gì?
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
b – Phân tích các đặc điểm của bộ máy nhà nước
– Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước, bao gồm nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương:
+ Trong bộ máy nhà nước bao gồm khá nhiều cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy nhà nước. Chẳng hạn, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay gồm nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương như Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân…
+ Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một thể thống nhất, trong đó mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt xích của hệ thống đó.
– Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
+ Bộ máy nhà nước thường bao gồm nhiều cơ quan có vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động… khác nhau, do vậy, khó có thể phát huy được sức mạnh và hiệu quả hoạt động của bộ máy nếu không được tổ chức một cách chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ. Vì thế, để thiết lập trật tự trong bộ máy nhà nước nhằm tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất trong hoạt, động giữa các cơ quan nhà nước, tăng cường sức mạnh của cả bộ máy nhà nước, đòi hỏi quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy này phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và những nguyên tắc chung nhất định. Ví dụ, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc như: chủ quyền nhân dân, tập trung dân chủ, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…
– Bộ máy nhà nước được thiết lập để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, khi nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập ra các cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ ấy. Chẳng hạn, khi môi trường của đất nước bị ô nhiễm thì nhà nước phải thành lập cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường để xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường nhằm hướng dẫn mọi người bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của các chủ thể và phát hiện, xử lý các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường…
2 – Mối liên hệ giữa bộ máy nhà nước với chức năng của nhà nước
Bộ máy nhà nước được thành lập và hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước, do vậy, quy mô, cơ cấu của bộ máy nhà nước cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của từng cơ quan nhà nước… chịu sự chi phối có tính chất quyết định của chức năng nhà nước. Chẳng hạn, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà nước các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất; ngược lại, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội thì trong bộ máy nhà nước cũng chủ yếu bao gồm các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì bộ máy nhà nước càng đồ sộ, phức tạp, số lượng các cơ quan và nhân viên trong bộ máy nhà nước càng đông hơn và cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước càng phải khoa học và hợp lý hơn. Ví dụ, chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay nhiều hơn, đa dạng và phong phú hơn so với chức năng của các nhà nước phong kiến Việt Nam, do vậy, bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay đồ sộ và phức tạp hơn nhiều so với các nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây.
Do được thành lập để thực hiện các chức năng của nhà nước nên hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước lại phụ thuộc vào sự hợp lý trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu bộ máy nhà nước được tổ chức hợp lý, phù hợp với chức năng, hoạt động có hiệu quả thì hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước sẽ cao và ngược lại, nếu tổ chức của bộ máy nhà nước không hợp lý, hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả thì hiệu quả thực hiện chức năng của nhà nước sẽ thấp.
Chia sẻ bài viết:
Bạn đang xem bài viết Chức Năng, Hình Thức, Bộ Máy Nhà Nước trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!