Cập nhật thông tin chi tiết về Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc anh em. Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 01/4/2019, người Kinh chiếm 85,3% dân số, 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% dân số. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước. Sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo lên một quốc gia dân tộc bền vững, thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển. Các dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống chủ yếu ở miền núi, với địa bàn rộng lớn chiếm 3/4 diện tích cả nước, bao gồm khu vực biên giới, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và môi trường sinh thái. Các DTTS ở nước ta có số lượng dân cư không đều, sống xen kẽ, không có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Các DTTS có trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau (do rất nhiều nguyên nhân khác nhau), có sắc thái văn hóa phong phú và đa dạng, nhưng thống nhất trong bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng làm việc tại Đắk Lắk
Những năm đổi mới, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện đầy đủ trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Kinh tế vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao (trung bình 8% năm). Nền kinh tế nhiều thành phần bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Đã hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, sản xuất với số lượng hàng hóa lớn. Kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi đã được cải thiện rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Các lĩnh vực xã hội đạt được những kết quả quan trọng: Mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi; đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc được nâng cao một bước, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển; các loại dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm với nhiều chính sách ưu tiên. Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được chú trọng. Tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cơ bản ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, vùng dân tộc ở nước ta hiện nay còn có những khó khăn, thách thức cơ bản như sau: Đa số vùng nông thôn, nơi các DTTS sinh sống tập trung chưa được quy hoạch, xa các trung tâm huyện, tỉnh. Các tỉnh có đông đồng bào DTTS sinh sống là những tỉnh trong nhóm nghèo và nghèo nhất cả nước, xa các trung tâm động lực phát triển các khu vực; tài nguyên môi trường vùng miền núi biến đổi mạnh, nhanh. Rừng tự nhiên bị tàn phá ngày càng nghiêm trọng, tính đa dạng sinh học của nhiều vùng rừng quý nhất của nước ta đang mất dần; nguồn nước mặt và nước ngầm có dấu hiệu đang cạn kiệt dần, nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm nặng. Tài nguyên khoáng sản ở nhiều nơi bị khai thác bừa bãi. Còn nhiều vùng kinh tế chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Tập quán sản xuất, công cụ thô sơ, lạc hậu, năng suất lao động rất thấp. Chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế. Nguồn nhân lực lao động qua đào tạo trong các DTTS rất thấp, chỉ khoảng 5% đến dưới 10%, cá biệt có nhóm chỉ 1-2%. Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một dần. Những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại ở một số vùng sâu, vùng xa. Việc tiếp cận các dịch vụ y tế mặc dù được cải thiện nhưng chất lượng còn thấp. Chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần của một số dân cư trong cộng đồng và những làng, bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao rất thấp so với các chỉ số phát triển trung bình của các địa phương ở từng tiêu chí. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, diện tích đất ở, đất sản xuất, đất phục vụ cho cộng đồng của đồng bào DTTS ở nhiều nơi đã và đang bị thu hẹp dần cả về tương đối và tuyệt đối. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ người DTTS ở các ngành, các cấp còn rất hạn chế, nhất là ở cấp Trung ương, các ngành quản lý kinh tế, cán bộ giữ vị trí quản lý từ cấp vụ trở lên. Trong khi cấp cơ sở ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về văn hóa, về tri thức, kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, về năng lực, kỹ năng thực thi nhiệm vụ. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở các vùng DTTS diễn biến rất đa dạng và có không ít nơi không bình thường; có nơi tôn giáo đã và đang bị kẻ xấu lợi dụng để tập hợp lực lượng, kích động phá hoại đoàn kết dân tộc, chống Đảng, chống chế độ, đòi ly khai… Các tổ chức phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách lợi dụng những khó khăn phức tạp trong vùng DTTS để kích động, tập hợp lực lượng gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự xã hội(4)…
2. Tây Nguyên có diện tích tự nhiên trên 54.641 km2 (chiếm 16,51% diện tích cả nước); đường biên giới phía Tây giáp nước Lào và Campuchia khoảng 400 km; khí hậu nhiệt đới ẩm của cao nguyên ôn hòa, khô, mát, ít bão và sương muối, phân hóa thành nhiều tiểu vùng và thay đổi theo từng khu vực; là thượng nguồn sinh thủy của các sông Mê Kông, sông Ba, sông Đồng Nai… Trước năm 1975 có 12 dân tộc tại chỗ. Ở Tây Nguyên hiện nay có đủ 54 dân tộc cùng sinh sống (7). Tây Nguyên được xác định có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là vùng địa sinh thái giàu tài nguyên và là vùng địa văn hóa, đa dân tộc, đa tôn giáo, giàu bản sắc. Đảng và Nhà nước ta chủ trương nhất quán xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn vững chắc về an ninh, quốc phòng và tiến tới trở thành vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Thực hiện chủ trương trên, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ vùng Tây Nguyên từ ngày giải phóng đất nước năm 1975 đến nay, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã cử nhiều cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học ở các lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau tham gia khảo sát, nghiên cứu, xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng khu vực Tây Nguyên nói chung và vùng đồng bào DTTS, miền núi nói riêng. Qua đó, góp phần làm thay đổi to lớn diện mạo Tây Nguyên về mọi mặt kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng.
Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, đến nay đã có 03 chương trình quan trọng về Tây Nguyên, tập hợp lực lượng đông đảo cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học ở Trung ương và địa phương tham gia nghiên cứu, cung cấp kịp thời các luận cứ khoa học để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; xây dựng, ban hành các luật và chính sách phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng vùng Tây Nguyên. Đó là: Chương trình Tây Nguyên 1 “Điều tra tổng hợp về Tây Nguyên” trong các năm 1976-1980; Chương trình Tây Nguyên 2 “Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên” những năm 1984-1988; Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011-2015 “Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội Tây Nguyên” (Chương trình Tây Nguyên 3). Chỉ riêng Chương trình Tây Nguyên 3, qua 05 năm thực hiện đã huy động hơn 2.600 nhà khoa học và chuyên gia trong các tổ chức khoa học thuộc 12 bộ, ngành ở Trung ương và địa phương tham gia; thực hiện 62 đề tài và 05 nhiệm vụ độc lập, trong đó, có 21 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và an ninh, quốc phòng, 31 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và phòng, chống thiên tai, 11 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ; đáp ứng 04 mục tiêu cơ bản: Cung cấp luận cứ khoa học và cơ sở dữ liệu cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững khu vực Tây Nguyên; ứng dụng chuyển giao công nghệ thích hợp nhằm tạo các sản phẩm hàng hóa nâng cao hiệu quả kinh tế trong khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực Tây Nguyên, bước đầu đề xuất mô hình phát triển bền vững cho Tây Nguyên. Trong nhiệm vụ an ninh – quốc phòng của Tây Nguyên, các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống như an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường đã được chú ý nghiên cứu sâu, toàn diện với nhiều kết quả cập nhật phục vụ cho xây dựng các luận cứ khoa học. Các dữ liệu về văn hóa và biến đổi văn hóa, tôn giáo, dân tộc, dân cư, đào tạo đã cung cấp những luận cứ và giải pháp cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững Tây Nguyên(8).
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về công tác dân tộc trong tình hình mới, việc đẩy mạnh phát huy sự đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng, phổ biến, giáo dục và thực thi pháp luật, thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng đối với vùng dân tộc, miền núi, trong đó có vùng Tây Nguyên là hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới.
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t.9, tr.181-182.
(2) PGS. TS. Hoàng Văn Tú, TS. Nguyễn Cao Thịnh, Ủy ban Dân tộc; TS. Hoàng Thị Hương, Đại học Kinh tế:
“Thực trạng của việc Quốc hội quyết định chính sách dân tộc hiện nay và một số khuyến nghị”, tháng 7/2019.
(3) TS. Phan Văn Hùng, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc: “Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn
chính sách dân tộc hiện nay cần vai trò quyết định của Quốc hội”, tháng 7/2019.
(4) Đề án “Thể chế hóa chủ trương, đường lối công tác dân tộc của Đảng, thực hiện Khoản 5, Điều 70, Hiến
pháp năm 2013 Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước” của Đảng đoàn Quốc hội; Hội thảo tại
Hà Nội ngày 25/7/2019.
(5) Tài liệu đã dẫn như trên.
(6) Tài liệu Hội nghị tổng kết 05 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về công tác dân tộc.
(7) GS. TS. Trình Quang Phú: “Luận bàn về văn hóa Tây Nguyên” trong giá trị văn hóa truyền thống Tây
Nguyên với phát triển bền vững, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.37.
(8) Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà
nước giai đoạn 2011-2015 (Chương trình Tây Nguyên 3): Báo cáo tổng kết chương trình, Hà Nội, năm 2016.
Trần Quốc Cường
(Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương)
Một Số Định Hướng Phát Triển Giáo Dục Vùng Dân Tộc Thiểu Số Miền Núi
Nhờ đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng DTTS, MN đã có những chuyển biến đáng kể: hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ học sinh (HS) đến trường tăng cao, HS lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Tỷ lệ HS tốt nghiệp THCS và THPT hằng năm tăng rõ rệt. Hệ thống giáo dục chuyên biệt (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học) ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Chế độ cử tuyển đã góp phần đáng kể trong việc đào tạo cán bộ người DTTS có trình độ ở địa phương. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên và người học là người DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sư bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vùng DTTS, MN còn một số hạn chế. Mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đã được tăng cường đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt ở một số trường chuyên biệt vùng DTTS, MN. Chất lượng giáo dục đào tạo ở vùng DTTS, MN nhìn chung còn thấp so với yêu cầu. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nhiều nơi còn bất cập, năng lực sư phạm, khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục của một bộ phận giáo viên còn hạn chế. Chính sách cho người dạy, người học ở vùng DTTS, MN, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn vẫn còn một số bất cập,…
Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo vùng DTTS, NM, cần có những định hướng và giải pháp cụ thể trong thời gian tới.
Về định hướng phát triển giáo dục dân tộc:
Hoàn thiện cơ cấu hệ thống và mạng lưới cơ sở giáo dục, đa dạng hoá hình thức tổ chức dạy học. Từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện linh hoạt các chương trình giáo dục phù hợp với điều kiện học tập của người học; gắn giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hoá của địa phương. Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đảm bảo đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lí về cơ cấu. Thực hiện đầy đủ chính sách cho người dạy và người học. Tăng cường đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất cho giáo dục dân tộc. Thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục.
Phổ cập giáo dục mầm non: Đến năm 2020, có ít nhất 25% trẻ em người DTTS trong độ tuổi nhà trẻ và 75% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non.
Phổ cập giáo dục tiểu học: Tỷ lệ trẻ em nhập học đúng độ tuổi cấp tiểu học của từng DTTS trên 94%; Tỷ lệ trẻ em hoàn thành chương trình tiểu học của từng DTTS trên 94%. Từng bước nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.
Phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Tỷ lệ học sinh người DTTS đi học đúng tuổi cấp trung học cơ sở 93%.
Về xóa mù chữ đối với các DTTS: Tỷ lệ người từ 15 tuổi đến 60 tuổi biết chữ của từng DTTS trên 92%. Tỷ lệ học sinh người DTTS trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương 50%.
Phấn đấu đến năm 2020, số sinh viên người DTTS (đại học, cao đẳng) đạt từ 130 đến 150 sinh viên/vạn dân (người DTTS), nhóm dân tộc có chất lượng nguồn nhân lực rất thấp đạt tối thiểu 130 sinh viên/vạn dân; năm 2030 đạt từ 200 – 250 sinh viên/vạn dân;
Tỷ lệ người DTTS trong độ tuổi lao động được đào tạo các chương trình giáo dục nghề nghiệp đến năm 2020 đạt trên 30%, nhóm dân tộc có chất lượng nguồn nhân lực thấp đạt tối thiểu 25%.
Phổ cập giáo dục tiểu học: Tỷ lệ trẻ em nhập học đúng độ tuổi cấp tiểu học của từng DTTS trên 97%; Tỷ lệ trẻ em hoàn thành chương trình tiểu học của từng DTTS trên 97%. Duy trì ổn định chất lượng phổ cập giáo dục.
Về xóa mù chữ đối với các DTTS: Tỷ lệ người từ 15 tuổi đến 60 tuổi biết chữ của từng DTTS trên 98%. Đảm bảo xóa mù chữ bền vững.
Tăng cường bình đẳng giới trong giáo dục đối với các DTTS: Tỷ lệ mù chữ của phụ nữ của từng DTTS dưới 10%; Tỷ lệ học sinh nữ DTTS (trong tổng số học sinh DTTS) ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đạt 50%; Phấn đấu bình quân các chỉ tiêu tăng hoặc giảm từ 0,5 đến 1%/năm.
* Định hướng đến năm 2030:
Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ học sinh DTTS đi học đúng tuổi gần với mức bình quân của cả nước ở tất cả các cấp học.
Phấn đấu đến năm 2030, số sinh viên người DTTS (đại học, cao đẳng) đạt từ 200 – 250 sinh viên/vạn dân.
Đào tạo sau đại học cho người DTTS, phấn đấu đến năm 2030 là 0,7% trong tổng số lao động DTTS đã qua đào tạo, ưu tiên các dân tộc chưa có người ở trình độ sau đại học.
Tỷ lệ người DTTS trong độ tuổi lao động được đào tạo các chương trình giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030 đạt trên 50%, nhóm dân tộc có chất lượng nguồn nhân lực thấp đạt tối thiểu trên 45%.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần thực hiện tối một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Tiếp tục chỉ đạo rà soát, quy hoạch hệ thống mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục phù hợp với điều kiện của vùng DTTS, miền núi. Củng cố, phát triển hệ thống trường PTDTNT theo hướng trường chuẩn quốc gia. Mở rộng các trường PTDTBT ở các huyện nghèo. Củng cố, mở rộng các trường (khoa) dự bị đại học, nâng cao chất lượng đào tạo hệ dự bị đại học cho học sinh DTTS.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của các trường chuyên biệt. Thực hiện linh hoạt các chương trình giáo dục phù hợp với điều kiện học tập của người học; gắn giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hoá của địa phương.
Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, CBQLGD đảm bảo đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lí về cơ cấu, tăng cường giáo viên là người DTTS.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2016-2020. Đề xuất các chương trình, dự án giáo dục cho vùng khó khăn, vùng DTTS, miền núi.
Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá công tác giáo dục dân tộc và việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về giáo dục đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015./.
Một Số Giải Pháp Thực Hiện Bình Đẳng Giới Trong Vùng Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Và Miền Núi Hiện Nay
Qua thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế – xã hội ở các quốc gia, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cũng thấy rằng, bất bình đẳng giới thực sự vừa là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất cả các thành viên trong xã hội.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, trong đó, các tiêu chí phát triển được hướng vào cả nam giới và nữ giới.
Trong khi đó, việc định kiến giới là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng về giới, đặc biệt trong đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, vùng địa bàn đặc biệt khó khăn, đại bộ phận đời sống của các gia đình dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự tồn tại của những phong tục tập quán, tín ngưỡng, hủ tục lâu đời trong đời sống đồng bào các dân tộc cũng làm cho phụ nữ trở thành nhóm xã hội cực khổ nhất. Họ là một lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để góp phần cải thiện đời sống, nâng cao trình độ, dân trí, đảm bảo trật tự an ninh xã hội và chủ quyền quốc gia, việc thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là công tác xã hội quan trọng cần ưu tiên, đặt lên hàng đầu. Vấn đề bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề cần đặc biệt quan tâm cả trong mục tiêu phát triển và cả trong quá trình hoạch định chính sách quan hệ tộc người ở nước ta trong bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu.
Trong những năm qua, đã có nhiều văn bản (Nghị định, Thông tư) cụ thể, thể chế hóa, hướng dẫn Luật Bình đẳng giới gồm: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới, với 4 chương, 18 điều. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới với 6 chương, 23 điều. Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 chương, 29 điều.
Chương trình hành động của chính phủ đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Ban hành kèm theo Nghị định số 57/NQ-CP ngày 1/12/2009 của Chính phủ) với mục tiêu nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương đối với công tác phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới nhằm phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực.
Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 (được phê duyệt tại Quyết định số 2351/QĐ-Ttg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ) với mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước và các mục tiêu cụ thể, gồm: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin; Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng;…
Tình hình thực hiện Luật Bình đẳng giới và một số kết quả đạt được trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, Uỷ ban Dân tộc đã chủ động trong việc tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, công chức. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới công tác phổ biến giáo dục pháp luật, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới. Chú trọng lồng ghép trong các chương trình, chính sách, dự án, đề án lớn do Ủy ban Dân tộc đề xuất xây dựng và triển khai thực hiện. Trong đó, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135); Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số (Quyết định 34/2006/QĐ-TTg); Chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (Quyết định 32/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Chính sách này dựa trên thực trạng đời sống của hộ gia đình người dân tộc thiểu số, trong đó có cả chủ hộ gia đình là nam và nữ đều được bình đẳng như nhau. Kết quả thực hiện chính sách này đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế hộ gia đình và góp phần tích cực trong việc thực hiện quyền bình đẳng trong hộ gia đình dân tộc thiểu số.
Cùng với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội trong những năm qua, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và công tác phụ nữ, cán bộ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Việt Nam cũng được Liên hợp quốc đánh giá là nước có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới. Đạt được kết quả như trên, bên cạnh những thành quả chung của cả nước, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số góp phần quan trọng trong thực hiện thành công mục tiêu, chỉ tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ta có dân số chiếm 14,3% dân số cả nước, trong những năm qua, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực: Tỷ lệ cán bộ, công chức nữ trong đó có cán bộ, công chức nữ là người dân tộc thiểu số tham gia trong khu vực công ngày càng tăng, như: tỉnh Điện Biên tỷ lệ cán bộ, công chức trong khu vực công chiếm 36%, trong đó cán bộ, công chức nữ dân tộc thiểu số chiếm 18,7%. Tỉnh Lào Cai, tỷ lệ này là 62,2% và 15%; Tỉnh Kom Tum tỷ lệ này là 56,84% và 12,50%. Điều đó cho thấy, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần phụ nữ dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt còn khiêm tốn. Ở một số tỉnh cán bộ, công chức nữ chiếm tỷ lệ trên 50%, nhưng tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 – 2016 (Phó Giám đốc sở, ngành và tương đương trở lên) còn chưa tương xứng với lực lượng cán bộ công chức nữ, như: Lai Châu: 25,94%; Lào Cai: 23,26%, Hòa Bình: 39,83%, Điện Biên: 28,05%. Trong lao động, việc làm thì phụ nữ dân tộc thiểu số có thời gian làm việc nhiều hơn nam giới, ngoài lao động kiếm sống hàng ngày, còn phải làm việc nhà và chăm sóc con cái. Mặc dù pháp luật quy định trong gia đình vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con cái, cha mẹ… nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Vì vậy, phụ nữ dân tộc thiểu số ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ không chỉ gánh vác mọi công việc, chăm sóc con cái, mà đồng thời còn là lao động chính trong gia đình.
Một số vấn đề mới về bình đẳng giới và quan hệ tộc người trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Đến nay, mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh được coi là mối quan hệ lớn nhất, chủ đạo nhất trong quan hệ dân tộc. Mối quan hệ này ngày càng trở nên gần gũi và gắn bó hơn, sự gắn bó đó thể hiện trong quan hệ hôn nhân giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh. Trước đây theo quan niệm, tư duy và phong tục tập quán, người dân tộc thiểu số chủ yếu kết hôn trong tộc người của mình, nhưng đến nay đã có những quan hệ hôn nhân được thiết lập giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh, tạo nên những gia đình hỗn hợp dân tộc.
Theo ông Lưu Xuân Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc) cho biết, với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi cùng với thực hiện Luật Bình đẳng giới, phần nào đã đem đến những quyền lợi và cơ hội mới cho người phụ nữ DTTS, Phụ nữ DTTS được đi học, đã hiểu biết, mở mang nhận thức và mối quan hệ xã hội, nâng cao vị thế, chuyển biến từ hôn nhân mang tính chất gả ép họ nhận thức được tự do hôn nhân, từ đó có một phần các phụ nữ DTTS kết hôn với nam giới người Kinh, đồng thời cũng có một bộ phận phụ nữ người Kinh kết hôn với nam giới người DTTS. Không chỉ giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số khác, sự giao thoa trong lĩnh vực hôn nhân còn diễn ra giữa các dân tộc thiểu số với nhau, như ở khu vực miền núi Quảng Bình hôn nhân khác tộc ngày càng diễn ra phổ biến, như chồng người Sách, Rục, Mã Liềng, Arem, vợ người Nguồn hoặc người Việt… Điều đó tạo nên mối quan hệ giữa các dân tộc biểu hiện trong quan hệ hôn nhân – quan hệ được coi là tổng hợp vì nó bao hàm cả văn hóa, tình cảm, nguồn gốc… Xu thế tích cực từ giao thoa hôn nhân giữa các tộc người góp phần hòa hợp dân tộc tốt hơn, dẫn tới đại đoàn kết dân tộc.
Khả năng tiếp cận thị trường giúp phụ nữ DTTS đóng góp vào kinh tế gia đình cũng là một trong những yếu tố tác động tích cực đến việc nâng cao vị thế của người phụ nữ DTTS trong gia đình và xã hội. Thực tế này đang dần thay đổi nếp nghĩ về người phụ nữ. Về một phương diện nào đó có thể kết luận rằng, vị thế của người phụ nữ DTTS có sự liên hệ mật thiết với mức độ phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản và tiếp cận thị trường ở từng địa phương cụ thể. Việc đáp ứng những nhu cầu thực tế của phụ nữ là cần thiết để làm nền tảng cho việc đáp ứng những nhu cầu chiến lược và vị thế của người phụ nữ DTTS. Những cộng đồng nào có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn cũng có nghĩa người phụ nữ có điều kiện được quan tâm đầy đủ hơn cả về vật chất và tinh thần. Vì vậy, cần làm tốt mục tiêu bình đẳng giới để góp phần thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các dân tộc là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Bên cạnh đó, thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng người DTTS cũng còn những tồn. Các nhóm dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không những bị tách biệt về không gian địa lý, mà còn bị tách biệt về không gian xã hội. Chính sự tách biệt này đã và đang ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với những thay đổi không lường trước trong môi trường sống của họ. Điều đó cho thấy, có rất nhiều đặc điểm chung trong bất bình đẳng giới nói chung và bất bình đẳng giới trong các nhóm DTTS nói riêng.
Một số giải pháp đối với thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số
Thứ nhất, trong công tác giáo dục, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ DTTS là ưu tiên hàng đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những giải pháp xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ DTTS trong việc tiếp cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên cứu tổng thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ DTTS, tăng cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, những hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em… Đây là những vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Thứ hai, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế “có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Thứ ba, hiện nay lao động nữ thanh niên DTTS vẫn bị tụt hậu so với mặt bằng chung của xã hội do rào cản ngôn ngữ và hạn chế về trình độ học vấn. Các lớp đào tạo dạy nghề cho phụ nữ DTTS cần quan tâm đến những đặc thù này và khả năng tham gia vào thị trường lao động cụ thể. Trong công tác đào tạo nghề thì cần có sự hài hòa về vai trò sản xuất và tái sản xuất của người phụ nữ.
Thứ tư, cần tiếp tục đầu tư và củng cố cơ sở hạ tầng ở một số vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục và y tế. Đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới vùng DTTS có việc làm tại chỗ, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình không phải đi làm ăn xa, có điều kiện chia sẻ lẫn nhau trong thực hiện vai trò sản xuất, sinh sản nuôi dưỡng, cộng đồng.
Bình đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung. Để đạt được mục tiêu này cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân.
Nguyễn Duy Dũng, ThS, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộcNguồn: http://tapchimattran.vn
1. Lê Ngọc Lân , Thực trạng đời sống và khả năng tham gia phát triển kinh tế của gia đình phụ nữ nghèo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
2. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng, Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1996.
3. Quốc hội, Luật Bình đẳng giới, Hà Nội, 2007.
4. Báo cáo hiện trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE, 2010).
5. Chính phủ, Dự thảo báo cáo việc thực hiện Mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017.
6. Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc về bình đẳng giới, Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2011.
Một Số Giải Pháp Xóa Đói Giảm Nghèo Bền Vững Trong Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Ở Các Huyện Miền Núi Tỉnh Quảng Ngãi
Thứ hai, 15 Tháng 5 2017 10:45
(LLCT) – Xóa đói giảm nghèo là một trong nhữngvấn đề xã hội được đặt vào vị trí ưu tiên giải quyết trong phát triển xã hội và là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia, luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, xác định là một mục tiêu quan trọng phát triển đất nước.
Quảng Ngãi là tỉnh thuộc duyên hải miền Trung, có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố và 13 huyện (6 huyện miền núi, 1 huyện trung du, 5 huyện đồng bằng, 1 huyện đảo); dân số hơn 1,2 triệu người, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Được sự quan tâm của Chính phủ, bộ, ngành nên công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ:
Năng lực tổ chức, ý thức thực hiện XĐGN được nâng lên cả trong cán bộ, đảng viên và cộng đồng dân cư. Hầu hết các hộ nghèo DTTS, hộ ở các huyện miền núi đều được tiếp cận và thụ hưởng các chính sách giảm nghèo của Nhà nước, các dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội cơ bản.
Các chính sách XĐGN mới có tính đặc thù (Nghị quyết 30a,…), được triển khai đã tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS. Tỉnh ưu tiên bố trí các nguồn vốn hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, đầu tư xây dựng các công trình đã có tác động trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người nghèo.
Nông thôn miền núi tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều thay đổi, cải thiện về nhà ở, các công trình trường học, trạm y tế, điện, giao thông, thủy lợi,… nâng cao mức độ hưởng thụ, trình độ dân trí cho người dân.
Hộ nghèo được hỗ trợ trực tiếp trong sản xuất, như: giống, cây trồng, vật nuôi, phân bón; chuồng trại; được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất; kiến thức sản xuất của người dân được nâng lên rõ rệt, giúp cho người dân dần thay đổi tập quán canh tác và chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm.
Việc giao khoán chăm sóc, bảo vệ rừng tạo điều kiện cho một bộ phận hộ nghèo có thêm việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống, xây dựng nông nghiệp, nông thôn. Chính sách tăng cường cán bộ về xã và đảm nhiệm vị trí lãnh đạo theo đề án 600 trí thức trẻ đã góp phần ổn định công tác cán bộ ở các xã nghèo, giúp xã tổ chức triển khai, thực hiện tốt hơn các chương trình mục tiêu, chính sách, dự án phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Nguyên nhân của vấn đề này là do nhận thức của người DTTS về chính sách XĐGN chưa đầy đủ, bản thân người nghèo chưa nỗ lực vươn lên tự thoát nghèo, hạn chế về ngôn ngữ, còn tâm lý tự ti, mặc cảm. Do nhiều chính sách hỗ trợ dẫn đến một số gia đình dân tộc ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tâm lý bảo thủ, thích giữ một số phong tục tập quán lạc hậu, nạn tảo hôn, sinh nhiều con, mê tín… vẫn còn diễn ra. Mặt khác, các chính sách, dự án giảm nghèo chưa thật sự phù hợp với từng nhóm đối tượng đặc thù. Công tác kiểm tra, rà soát, đánh giá chính sách chưa được thực hiện thường xuyên. Để công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện một cách hiệu quả đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi cần quán triệt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, nhóm giải pháp chung giảm nghèo bền vững:
– Chú trọng tiếp cận địa bàn. Đảng uỷ, chính quyền các huyện cần tập trung chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các xã, thôn xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công cán bộ, đảng viên phụ trách từng hộ nghèo để tư vấn, giúp đỡ về mọi mặt, đến từng hộ để khảo sát, tìm hiểu kỹ về gia cảnh, động viên, thuyết phục họ nỗ lực phấn đấu vươn lên. Với xã có hộ nghèo chủ yếu là người đồng bào dân tộc thì cán bộ làm công tác giảm nghèo biết tiếng dân tộc là rất quan trọng, đây là điều kiện để cán bộ trực tiếp vận động các hộ nghèo, thuyết phục, động viên hiệu quả hơn. Đối với những xã không có đủ nguồn lực tài chính và xây dựng nội dung, chương trình trình cho cán bộ học tiếng dân tộc, huyện, tỉnh và Trung ương cần ban hành chính sách đào tạo phù hợp. Hơn nữa, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, nắm bắt thông tin đối với các hộ mới thoát nghèo là rất quan trọng để giảm thiểu tái nghèo.
– Nâng cao ý thức, ý chí phấn đấu thoát nghèo.Việc này không chỉ thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, thuyết phục thông thường. Thực tế, một bộ phận người dân khi còn được hưởng nhiều lợi ích của hộ nghèo vẫn muốn được ở diện hộ nghèo để tiếp tục thụ hưởng các hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, có tình trạng hộ nghèo muốn tách hộ để trở thành nhiều hộ nghèo và được hưởng lợi nhiều hơn từ các chương trình giảm nghèo. Để người dân thực sự muốn thoát nghèo, đặc biệt đối với những hộ mới thoát nghèo, Nhà nước cần duy trì một số chính sách để họ được hưởng các lợi ích có được của hộ nghèo trong một thời gian nhất định để họ có điều kiện phát triển kinh tế giúp thoát nghèo bền vững. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, vận động, nhân rộng các mô hình, tấm gương thoát nghèo để các hộ nghèo khác phấn đấu và thấy được việc thoát nghèo là đáng tự hào. Nếu thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần nâng cao ý thức của người dân và tạo động lực cả về vật chất và tinh thần để họ phấn đấu đi lên.
– Đánh giá, rà soát phân loại hộ nghèo để có giải pháp cụ thể cho từng loại. Cụ thể:
Loại 1: đối với các gia đình già yếu, bệnh tật, thiếu lao động, không có khả năng thoát nghèo, cần vận động xã hội hỗ trợ và thực hiện chính sách xã hội để bảo đảm an sinh xã hội. Về lâu dài, xếp những đối tượng này vào diện bảo trợ xã hội thường xuyên.
Loại 2: Có nhân lực, có nhu cầu lao động nhưng thiếu tư liệu sản xuất, thiếu việc làm. Đây là nhóm có khả năng thoát nghèo cao. Đối với đối tượng này cần tập trung cho vay vốn, hỗ trợ tư liệu sản xuất, tạo việc làm để thoát nghèo. Tùy vào điều kiện từng xã của huyện có thể thực hiện các mô hình “2 hộ giàu giúp 1 hộ nghèo”, hay mỗi chi bộ, mỗi đoàn thể giúp 1 hộ thoát nghèo,…
Loại 3: Không chịu lao động, không biết tổ chức cuộc sống, sa vào các tệ nạn, nghiện ngập, ỷ lại, trông chờ. Đây là nhóm khó chuyển biến nhất. Do vậy, cần tuyên truyền vận động chuyển hoá thành hộ nghèo loại 2 trước khi hỗ trợ vốn, tư liệu sản xuất. Nếu không, các khoản hỗ trợ sẽ không có tác dụng, hiệu quả. Vì khi được hỗ trợ họ lại bán để lấy tiền tiêu dùng. Như vậy, họ vẫn nghèo.
Với những hộ có quá ít đất sản xuất, không có thu nhập thêm ngoài làm nông nghiệp đơn giản, cần nghiên cứu, hướng dẫn để họ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, đưa các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với thổ nhưỡng và điều kiện sản xuất dược liệu,… Trong chuyển đổi cây trồng, cần phải có sự quan tâm của huyện, tỉnh với các đề án tổng thể và tầm nhìn dài hạn, phối hợp trên toàn địa bàn và thậm chí là phối hợp liên vùng.
Đối với những hộ nghèo, có lao động, nhưng không biết tiếng Kinh và không thể tự tìm việc, cần xây dựng kế hoạch dạy tiếng Kinh. Hơn nữa, chính quyền cần có kế hoạch hỗ trợ tìm kiếm, giới thiệu việc làm cho lao động nghèo. Tuyên truyền, vận động lao động trẻ sẵn sàng đi xuất khẩu lao động.
– Chú trọng công tác cán bộ. Cốt lõi cho mọi kế hoạch giảm nghèo là đội ngũ cán bộ trực tiếp tổ chức thực hiện. Thực tế ở cơ sở cho thấy, năng lực của cán bộ còn yếu, sự nhiệt tình, quan tâm tới đời sống của người dân chưa cao; không nhiều cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo thông thạo tiếng dân tộc là rào cản lớn trong công tác tuyên truyền, vận động. Do vậy, cần có kế hoạch cụ thể về công tác cán bộ. Một trong những giải pháp quan trọng là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc để thuyết phục, hướng dẫn đồng bào thoát nghèo.
– Xây dựng một số chính sách đặc thù. Trong thời gian tới, việc XĐGN đối với các huyện miền núi phải thực hiện rà soát lại những nét đặc thù, xây dựng một số chính sách riêng cho từng địa phương trên cơ sở chính sách của Chính phủ.
Các chính sách hỗ trợ người nghèo vùng DTTS cần chuyển dần từ việc hỗ trợ trực tiếp thành việc hỗ trợ sinh kế là chủ yếu. Gắn trách nhiệm của người được hưởng lợi vào hiệu quả của các chương trình hỗ trợ. Việc xây dựng các chính sách, các chương trình mới cần quan tâm hơn đến vấn đề phối hợp ngay từ khâu thiết kế chính sách để tạo cơ sở phối kết hợp, lồng ghép trong tổ chức thực hiện, nhưng không làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện cũng như khả năng gọi vốn đầu tư nước ngoài của mỗi chương trình.
Hai là, nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
– Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí; nâng cao thể chất lực lượng lao động; đào tạo nghề, việc làm, hỗ trợ sinh kế cho người nghèo. Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân nghèo đói không chỉ do môi trường, điều kiện địa lý mà còn do hoàn cảnh và đặc điểm cá nhân, từng hộ gia đình, trong đó mấu chốt là vấn đề tri thức. Do vậy, cần xây dựng chương trình “xóa nghèo tri thức đối với người nghèo dân tộc thiểu sô”. Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở đối với 100% trẻ em. Áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm miễn phí cho học sinh nghèo, được phát sách giáo khoa, tập vở miễn phí, được phụ cấp gạo mỗi tháng, miễn phí toàn bộ học phí. Sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi trình độ học vấn, tư duy nhận thức của trẻ em được nâng lên, các em sẽ cùng với cộng đồng tác động làm thay đổi tư duy những người trưởng thành là ông, bà, cha mẹ.
– Chăm sóc sức khỏe cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số: Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, không để các trạm y tế quá xa khu dân sinh sống, người dân đến cấp cứu, thăm khám được kịp thời, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, điều trị nội trú của nhân dân cũng như của người nghèo. Đa dạng hóa các hình thức khám chữa bệnh miễn phí, giảm phí, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho người nghèo, đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ em như xây dựng chương trình dinh dưỡng đối với trẻ em, chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ… Tiếp tục thực hiện kéo dài thời hạn điều động luân chuyển cán bộ y tế các tuyến trên về công tác có thời hạn ở cơ sở. Có chính sách thỏa đáng để khuyến khích các bác sĩ đến công tác tại vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc.
các giải pháp hỗ trợ sinh kế, nâng cao thu nhập cho người nghèo:
– Thực hiện các biện pháp phát triển rừng, nghề rừng, nông – lâm kết hợp và các hoạt động kinh tế khác để thực hiện đanh canh, định cư, ngăn chặn nạn đốt phá rừng.
– Thực hiện hỗ trợ người nghèo dân tộc biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro, như: hỗ trợ vật chất trực tiếp cho người nghèo trong những rủi ro đột xuất do thiên tai, dịch bệnh…, hỗ trợ một phần giúp người nghèo tham gia các hoạt động kinh tế: giống cây trồng, giống con nuôi, vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu… cùng với những hỗ trợ về vật chất cho người nghèo trên cơ sở hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế tùy theo điều kiện gia đình.
– Bố trí cán bộ khuyến nông cơ sở để giúp người dân áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật và lựa chọn được giống cây, con và mô hình sản xuất thích hợp. Từng bước hướng dẫn người nghèo sản xuất được hàng hóa tập trung và tiếp cận thị trường để có những sản phẩm có giá trị cao trên thị trường.
Bốn là, nhóm giải pháp nâng cao nhận thức, phối hợp tổ chức thực hiện chính sách của các cấp, các ngành và người dân.
– Đẩy mạnh tuyên truyền để người nghèo chủ động vượt khó, có ý thức thoát nghèo. Nội dung tuyên truyền phải thiết thực, cụ thể để người dân hiểu được vì sao phải xóa đói giảm nghèo và trách nhiệm mỗi người.
– Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin và truyền thông bằng tiếng DTTS
Nâng cao năng lực cho đài phát thanh – phát lại truyền hình huyện và đài truyền thanh của các xã: Tìm hiểu nhu cầu thông tin của người DTTS, cải thiện các chương trình phát thành, làm hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu thông tin của người dân. Tập huấn thực hiện các chương trình phát thanh DTTS hiện đại; Tập huấn, tham quan học tập việc thực hiện các chương trình phát thanh tương tác.
Năm là, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách
– Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, bất cập để có sự điều chỉnh kịp thời hoặc có các biện pháp xử lý, chỉnh đốn thực hiện nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chính sách để phù hợp với thực tế; có cơ chế khuyến khích các tổ chức đoàn thể, hộ nghèo là người đồng bào dân tộc tham gia vào quá trình giám sát thực hiện chính sách.
– Thường xuyên đánh giá chính sách để tìm ra những mô hình tốt nhất. Từ đó đưa ra các chính sách linh hoạt, phát huy được tính chủ động, sáng tạo và nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương ở các địa bàn khó khăn, vùng đồng bào dân tộcvới những đặc điểm, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tập quán và dân trí rất khác nhau.
Với truyền thống cần cù, chịu khó cùng với sự quan tâm của các cấp, các ngành, sự triển khai đồng bộ các giải pháp cơ bản nêu trên sẽ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
ThS Đào Văn Quang
Trường Chính trị Quảng Ngãi
Bạn đang xem bài viết Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!