Xem Nhiều 6/2023 #️ Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới # Top 14 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới # Top 14 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VẬT LÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI

Thứ năm – 10/08/2017 01:09

 

 

 

Trong thời đại ngày nay, thế giới đang có sự biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng lần thứ tư, đang mang lại những cơ hội phát triển nhanh chóng và cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, nhất là đối với các nước còn chậm phát triển. Mặt khác, môi trường sống tự nhiên cũng như xã hội của con người đang biến đổi nhanh chóng.

logo HVL anh nen

Chúng ta đang chứng kiến những biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt; ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trầm trọng; chính trị, xã hội đang có nhiều biến động. Đứng trước những thách thức của thời đại, không có con đường phát triển nào tốt hơn là con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội để bảo đảm phát triển bền vững. Thách thức của thời đại buộc phải đổi mới giáo dục, đó là nhu cầu cấp thiết và là xu thế tất yếu toàn cầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới được quy định rõ trong Nghị quyết 88/2014/ QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của moi học sinh”. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, “chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [2]. Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu tối thượng của giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là phát triển năng lực của con người. Biểu hiện của năng lực là kỹ năng giải quyết một tình huống có ý nghĩa, chứ không phải ở việc tiếp thụ một lượng tri thức rời rạc. Để có thể “góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh” thì việc dạy học tích hợp là một cách thức rất hữu hiệu. Vì thế, tuân theo xu thế phát triển của giáo dục thế giới và điều kiện Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng những cách thức giáo dục khác, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước đi ban đầu về dạy học tích hợp. Là một chương trình môn học của Chương trình giáo dục phổ thông, ^ chương trình môn Vật lý quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông dưới góc độ vật lý. Nội dung giáo dục vật lý được phân bố ở cả hai giai đoạn giáo dục, với các mức độ khác nhau. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản được thực hiện qua môn Tìm hiểu tự nhiên (cấp Tiểu học) và môn Khoa học tự nhiên (cấp Trung học cơ sở). Ở giai đoạn giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua môn Vật lý (cấp Trung học phổ thông). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, thông qua môn Khoa học tự nhiên, giáo dục vật lý giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lý cơ bản của thế giới tự nhiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, làm nền tảng cho việc học tập ở các mức độ tiếp theo hoặc có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ngoài việc góp phần cùng với các môn học khác để phát triển các năng lực chung, môn học này còn nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn: i) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, ii) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, iii) vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào thực tiễn, iv) ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc chú trọng xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, chương trình môn học cũng tính đến điều kiện cơ sở trang thiết bị và đặc biệt là tính đặc thù của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở nên việc tích hợp được thực hiện sao cho các mạch nội dung được cấu trúc một cách khoa học, đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc tổ chức dạy học. Vì thế, chương trình đã được thiết kế để có thể soạn sách giáo khoa, hay bài giảng của giáo viên được thuận tiện cho mỗi phân môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, ở cả ba lớp: 10, 11 và 12, Vật lý là môn học độc lập, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Nội dung môn học được thiết kế thành các bài học và các chuyên đề để vừa bảo đảm phát triển tri thức và kỹ năng thực hành trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông góp phần giúp học sinh củng cố vững chắc các phẩm chất, kỹ năng phổ thông cốt lõi, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học. Trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị cho học sinh trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình lựa chọn phát triển những vấn đề thiết thực nhất, mang tính ứng dụng cao đối với học sinh trong việc định hướng ngành nghề sau khi hoàn thành Trung học phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận được với những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học Vật lý phù hợp với trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung môn học với thực tiễn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Do những yêu cầu khách quan nói trên nên cấu trúc nội dung chương trình môn Vật lý có những thay đổi so với cấu trúc chương trình môn Vật lý hiện hành. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh học môn Vật lý. Như chúng ta đã biết, mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, hoạt động quản lý và phát triển chương trình, nhằm bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể và chương trình môn học. Phạm vi đánh giá bao gồm toàn bộ các môn học mà học sinh học. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong nhóm, trong lớp. Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục. Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Ở Việt Nam, sự thành bại của một chương trình giáo dục phụ thuộc rất mạnh vào việc quan niệm và tổ chức các “kỳ thi”. Chính các “kỳ thi” hiểu không đúng đã góp phần làm méo mó các mục tiêu của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ở nước ta. Nếu không trả lại đúng ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá thì các đổi mới trong giáo dục rất khó đạt được mục tiêu mong muốn.

 

Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Văn Khánh

Nguồn tin: Hội Vật Lý

Chương Trình Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Có Gì Mới?

Tích hợp ở giai đoạn giáo dục cơ bản, phân hóa ở THPT

Theo chúng tôi Nguyễn Văn Khánh, Chủ biên chương trình môn Vật lý, chương trình mônVật lý được phân bố ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ sở); Vật lý (trung học phổ thông).

Các phương pháp giáo dục của môn Vật lý góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lý (năng lực vật lý) cũng như góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể.

Sách giáo khoa phải thể hiện được tinh thần đổi mới

Trong nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh, chương trình tạo điều kiện để chú trọng tập trung đánh giá các thành phần của năng lực vật lý. Bên cạnh đánh giá kiến thức, coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm, các kỹ năng thực hành và năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.

Do hình thức trắc nghiệm khách quan không phù hợp cho đánh giá kỹ năng thực hành nên chương trình quan tâm hợp lý đến việc sử dụng cách đánh giá qua các sản phẩm thực hành của học sinh (ví dụ sản phẩm của các dự án học tập) cũng như các đánh giá mang tính tích hợp (ví dụ STEM).

Chương trình có cấu trúc nội dung cũng như yêu cầu cần đạt về cơ bản là giống nhau cho tất cả các vùng, miền. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những kỹ năng cơ bản trong tìm tòi, khám phá đối tượng vật lý, giáo viên có thể chủ động tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm và thực hành một số nội dung mang sắc thái riêng của địa phương mình.

Chương trình có định hướng phát triển năng lực và định hướng dạy học phân hóa. Do vậy, sách giáo khoa phải được biên soạn có cấu trúc thể hiện rõ yêu cầu cần đạt ở những mức độ khác nhau (theo thang nhận thức và mức độ kỹ năng) hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực đã được đề cập trong chương trình và phải tạo cho người dạy thuận tiện trong việc tổ chức dạy học cho các đối tượng khác nhau.

Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

Giáo dục con cái đặc biệt là chương trình giáo dục phổ thông luôn là niềm trăn trở cho nhiều các bậc lãnh đạo và nhà trường. Vậy đâu mới là phương pháp giáo dục tốt cho học sinh ở cấp bậc phổ thông để các em có thể phát triển một cách toàn diện? Đây có lẽ chính là câu hỏi được đặt ra với rất nhiều giáo viên . Ở đây chúng tôi sẽ mang đến cho các bậc phụ huynh chương trình giáo dục phổ thông mới – rèn luyện 5 phẩm chất và 10 năng lực của học sinh giúp các em không chỉ phát triển về mặt lý thuyết mà còn cả thực hành.

Chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ hình thành và phát triển cho học sinh 5 phẩm chất là yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

Ngoài ra, chương trình cũng hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi gồm:

– Những năng lực chung, được hình thành và phát triển từ tất cả các môn học và hoạt động giáo dục.

– Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định.

Yêu nước: Đây là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, được xây dựng và bồi đắp qua các thời kỳ từ khi ông cha ta dựng nước vàgiữ nước. Tình yêu đất nước được thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, di sản, yêu người dân đất nước mình; tự hào và bảo vệ những điều thiêng liêng đó.

Nhân ái: Nhân ái là biết yêu thương, đùm bọc mọi người; yêu cái đẹp, yêu cái thiện; tôn trọng sự khác biệt; cảm thông, độ lượng và sẵn lòng giúp đỡ người khác.

Chăm chỉ: Đức tính chăm học, chăm làm, hăng say học hỏi và nhiệt tình tham gia công việc chung sẽ giúp các em rèn luyện, phát triển bản thân để đạt được những thành công lớn lao trong tương lai.

Trung thực: Dù một người có giỏi đến đâu mà thiếu đi đức tính này thì vẫn là kẻ vô dụng.. Bởi thế nên ngay từ nhỏ, các học sinh cần được rèn luyện tính thật thà, ngay thẳng và biết đứng ra bảo vệ lẽ phải.

Trách nhiệm: C hỉ khi một người có trách nhiệm với những gì mình làm thì đó mới là khi họ trưởng thành và biết cống hiến sức mình cho một xã hội tốt đẹp hơn

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới các em học sinh không chỉ được phát triển 5 phẩm chất nêu trên mà còn được hình thành và phát triển 10 năng lực thiết yếu để từ đó phát huy và vận dụng tối đa khả năng của mình vào thực tiễn.

10 năng lực đó được chia ra thành 2 nhóm năng lực chính là năng lực chung và năng lực chuyên môn.

Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi, làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Các năng lực này được hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền của con người, quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc sống; đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Nhưng năng lực chung sẽ được nhà trường và giáo viên giúp các em học sinh phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông là:

Năng lực chuyên môn là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động. Đây cũng được xem như một năng khiếu, giúp các em mở rộng và phát huy bản thân mình nhiều hơn. Các năng lực chuyên môn được rèn luyện và phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông mới là:

Đây chính là 5 phẩm chất và 10 năng lực mà chương trình giáo dục phổ thông mới chú trọng hình thành và phát triển các em học sinh, nhờ vậy mà học sinh phổ thông sẽ được phát triển toàn diện hơn.

Link tham khảo: http://rgep.moet.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/infographics-5-pham-chat-va-10-nang-luc-can-phat-trien-cho-hoc-sinh-4875.html

Giải Pháp Đổi Mới Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

02/11/2017, 18:35

Thực hiện Thông báo kết luận của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 15, Chính phủ đã có báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, SGK GDPT. Trong đó, nêu rõ các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đổi mới chương trình, SGK GDPT giai đoạn 2017 – 2024.

Bảo đảm khoa học, hiệu quả, công khai, minh bạch

Bộ GD&ĐT hoàn thành dự thảo các chương trình môn học, hoạt động giáo dục và tổ chức lấy ý kiến góp ý thông qua đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ GD&ĐT, tổ chức các hội thảo và gửi xin ý kiến chuyên gia; tổ chức tập huấn cho người tham gia thẩm định các chương trình môn học và hoạt động giáo dục; tổ chức thực nghiệm các chương trình môn học và hoạt động giáo dục.

Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) căn cứ Thông tư số 14/2017/TT-BGDĐT ngày 6/6/2017 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tiến hành thẩm định các chương trình môn học, hoạt động giáo dục và thẩm định (lần 2) chương trình GDPT tổng thể.

Bộ GD&ĐT chỉnh sửa, hoàn thiện và ban hành chính thức chương trình GDPT mới (gồm chương trình GDPT tổng thể và các chương trình môn học, hoạt động giáo dục).

Bảo đảm tính khoa học, tính sư phạm, tính khả thi và độ tin cậy

Bộ GD&ĐT tổ chức biên soạn tài liệu hướng dẫn biên soạn SGK theo chương trình GDPT mới và tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho người tham gia biên soạn, thẩm định SGK mới.

Bộ GD&ĐT chỉ đạo tổ chức biên soạn một bộ SGK theo chương trình GDPT mới gồm đủ các môn học ở các lớp học đáp ứng lộ trình triển khai áp dụng chương trình, SGK mới:

Tuyển chọn chủ biên, tác giả SGK; xây dựng bản thảo SGK; lấy ý kiến góp ý rộng rãi cho bản thảo SGK; thực nghiệm SGK mới theo hình thức cuốn chiếu ở mỗi cấp học đảm bảo đồng bộ, đồng tốc với lộ trình triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới; trình Hội đồng quốc gia thẩm định SGK tiến hành thẩm định sách giáo khoa; phê duyệt, cho phép sử dụng sách giáo khoa.

Căn cứ chương trình GDPT mới và quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa SGK và tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn SGK do Bộ GD&ĐT ban hành, các tổ chức, cá nhân tiến hành biên soạn SGK.

Căn cứ quy định về tiêu chuẩn SGK, tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định SGK do Bộ GD&ĐT ban hành, các Hội đồng quốc gia thẩm định SGK được thành lập và tiến hành thẩm định SGK từng môn học (gồm một bộ SGK do Bộ GD&ĐT chỉ đạo tổ chức biên soạn và các SGK khác do tổ chức, cá nhân biên soạn); Bộ GD&ĐT phê duyệt, cho phép sử dụng SGK.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức xây dựng, thẩm định tài liệu giáo dục của địa phương, trình Bộ GD&ĐT phê duyệt để đưa vào chương trình GDPT mới.

Ban hành chuẩn, tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý

Ban hành chuẩn, tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý, gồm: Chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông, chuẩn hiệu trưởng trường phổ thông, tiêu chuẩn lựa chọn giáo viên phổ thông cốt cán và cán bộ quản lý trường phổ thông cốt cán, khung năng lực giáo viên phổ thông các môn học đặc thù; chuẩn nghề nghiệp giảng viên sư phạm; tiêu chuẩn giảng viên sư phạm cốt cán.

Ban hành các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý trường phổ thông thống nhất trong cả nước theo các chuẩn đã ban hành.

Biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn dạy học các môn học và hoạt động giáo dục theo chương trình GDPT mới; xây dựng và triển khai hệ thống tập huấn, bồi dưỡng giáo viên qua mạng trên phạm vi cả nước.

Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo viên bảo đảm đồng bộ, đồng tốc với lộ trình triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới.

Xây dựng, ban hành quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm, thực hiện đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của trường sư phạm theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII; thực hiện giao chỉ tiêu đào tạo giáo viên cho các trường sư phạm đảm bảo yêu cầu về số lượng, cơ cấu, chất lượng dựa trên định mức kinh tế – kỹ thuật; ban hành Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên (trong đó có giảng viên trường sư phạm).

Thực hiện đổi mới tuyển dụng, sử dụng giáo viên: Các địa phương quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, chủ động cụ thể hóa các chương trình, kế hoạch của Bộ GD&ĐT trong việc tuyển dụng, sử dụng giáo viên.

Tiếp tục rà soát đội ngũ giáo viên, xác định số giáo viên thừa, thiếu từng cấp học, môn học; thực hiện nghiêm túc đánh giá giáo viên, CBQL theo chuẩn nghề nghiệp làm căn cứ bồi dưỡng, đào tạo lại đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình GDPT.

Chủ động phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo giáo viên trên địa bàn và các cơ sở khác để đặt hàng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và CBQL; đảm bảo các chế độ chính sách cho giáo viên và cán bộ quản lý trong thực hiện chương trình GDPT và SGK mới.

Xây dựng và thực hiện các chính sách tạo động lực cho giáo viên và giáo sinh: Xây dựng các quy định gắn kết hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên sư phạm; đồng thời chọn lọc và đào tạo những sinh viên sư phạm giỏi, yêu nghề nhằm bổ sung cho đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông; điều chỉnh, bổ sung các quy chế thực hành nghiệp vụ sư phạm, quy chế thực tập sư phạm của sinh viên sư phạm.

Nghiên cứu chính sách hỗ trợ đối với sinh viên sư phạm trong thời gian học và sau khi ra trường; nghiên cứu, rà soát và đề xuất chế độ, chính sách về tuyển dụng, sử dụng, lương, phụ cấp và thu nhập của giáo viên…

Tiếp tục chuẩn bị cơ sở vật chất cho chương trình GDMN và GDPT

Hướng dẫn các địa phương triển khai có hiệu quả Đề án bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và GDPT sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đảm bảo thực hiện theo lộ trình triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về nhân trắc học, hướng dẫn các địa phương mua sắm bàn ghế phù hợp với lứa tuổi học sinh và chương trình, SGK GDPT mới.

Rà soát, điều chỉnh các chuẩn, quy chuẩn về trường lớp học phù hợp với chương trình GDPT mới, làm căn cứ xây dựng, ban hành Đề án tổng thể về cơ sở vật chất, thiết bị trường học (bao gồm cả mầm non, phổ thông và đại học).

Tiếp tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Xây dựng, ban hành các văn bản quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa SGK; tiêu chuẩn tổ chức, cá nhân biên soạn SGK; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định SGK; hướng dẫn cơ sở GDPT lựa chọn, sử dụng SGK; hướng dẫn xây dựng tài liệu giáo dục của địa phương…

Sửa đổi, bổ sung các chính sách về nhà giáo và CBQL giáo dục trong quá trình xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục nhằm tạo thuận lợi và động lực cho giáo viên, CBQL giáo dục triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông

Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch truyền thông nhằm tăng cường hiểu biết về mục tiêu, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình và điều kiện thực hiện đổi mới chương trình, SGK GDPT.

Phân biệt rõ đổi mới chương trình, SGK GDPT lần này và các lần trước đó và chỉ ra khả năng dẫn đến kết quả tốt hơn;

Biểu dương kịp thời gương người tốt, việc tốt trong các hoạt động thực hiện đổi mới chương trình, SGK GDPT và đổi mới đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, CBQL; tạo sự tin tưởng, lạc quan, đồng thuận đồng thời phát huy hiệu quả đóng góp của xã hội cho công cuộc đổi mới GDPT.

Triển khai áp dụng chương trình theo hình thức cuốn chiếu

Triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới theo hình thức cuốn chiếu ở mỗi cấp học trên phạm vi toàn quốc đối với cấp tiểu học từ năm học 2019 – 2020, đối với cấp THCS từ năm học 2020 – 2021 và đối với cấp THPT từ năm học 2021 – 2022, cụ thể:

– Năm học 2019 – 2020: Lớp 1;

– Năm học 2020 – 2021: Lớp 2 và lớp 6;

– Năm học 2021 – 2022: Lớp 3, lớp 7 và lớp 10;

– Năm học 2022 – 2023: Lớp 4, lớp 8 và lớp 11;

– Năm học 2023 – 2024: Lớp 5, lớp 9 và lớp 12.

Trong thời gian chưa triển khai áp dụng chương trình GDPT và SGK mới trên phạm vi toàn quốc, các cơ sở GDPT thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học chương trình GDPT hiện hành và đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá giáo dục học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học, từ đó tạo thuận lợi cho học sinh và giáo viên khi chuyển sang thực hiện chương trình GDPT và SGK mới.

Hoan Nguyễn

Bạn đang xem bài viết Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!