Cập nhật thông tin chi tiết về Đổi Mới Để Không Ngừng Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát Của Đảng mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Xác định công tác kiểm tra, giám sát là phương thức lãnh đạo của Đảng, có vị trí, vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng; thời gian qua, cấp ủy các cấp trong Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm đổi mới cách làm và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Do đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng được nâng lên, sự đoàn kết thống nhất được tăng cường; kỷ cương, kỷ luật của Đảng được giữ vững; có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng; qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng.
Ngay sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác kiểm tra, giám sát từ khâu quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện; lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy; thường xuyên nghe báo cáo và chỉ đạo giải quyết kịp thời những vụ việc phức tạp phát sinh… Thông qua đó đã giúp các tổ chức đảng, đảng viên nắm vững các nội dung trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát; nhận thức rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác xây dựng Đảng; từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát.
Điểm nổi bật trong đổi mới công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ tỉnh đó là đổi mới từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp theo hướng sâu sát cơ sở, chỉ đạo tập trung, kiên quyết, giải quyết dứt điểm các vụ việc phức tạp phát sinh. Cụ thể, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), trọng tâm là việc đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; kiểm tra, làm rõ một số vụ việc điển hình trên địa bàn; gợi ý kiểm điểm đối với các tổ chức đảng và đảng viên; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp khắc phục những khuyết điểm, vi phạm sau kiểm điểm. Đã chỉ đạo kiểm tra, làm rõ và kết luận một số vụ việc bức xúc được dư luận báo chí, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân quan tâm phản ánh, nhất là về công tác cán bộ, quản lý đất đai, việc chấp hành quy chế làm việc và trách nhiệm nêu gương… Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định kiếm tra dấu hiệu vi phạm đối với 2 đồng chí Tỉnh ủy viên, Giám đốc sở; kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với trách nhiệm nêu gương đối với 1 đồng chí Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện; chỉ đạo UBKT Tỉnh ủy kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số cấp ủy cấp dưới trực tiếp và 6 Tỉnh ủy viên và cán bộ diện Tỉnh ủy quản lý. Qua kiểm tra, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và UBKT Tỉnh ủy đã xem xét, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền đối với 1 Ban Thường vụ Huyện ủy và 5 cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý (trong đó có 3 đồng chí Tỉnh ủy viên) . Đồng thời, qua kiểm tra đã chỉ đạo cấp ủy cấp dưới thi hành kỷ luật đối với 13 tổ chức đảng và 27 đảng viên, đề nghị điều chuyển công tác khác đối với một số đảng viên bị thi hành kỷ luật. Căn cứ Nghị quyết Trung ương 4 và các quy định nêu gương; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, làm rõ và nhận diện cụ thể mức độ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao đối với một số đảng viên, nhất là của người đứng đầu; kịp thời xem xét, xử lý nghiêm minh theo quy định của Điều lệ Đảng. Cụ thể, đã phát hiện ra một số người đứng đầu cơ quan, đơn vị có “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng “chợ chiều, cuối khóa”, chỉ tập trung giải quyết những việc ngắn hạn, trước mắt, chưa quan tâm đầy đủ công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện. Chưa thực hiện nghiêm túc các quy định nêu gương, còn bố trí người nhà, người thân tham gia đấu thầu và thực hiện các dự án do ngành mình làm chủ đầu tư, gây dư luận không tốt như đồng chí Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giao thông vận tải; đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ… Việc không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả… như ở Ban Thường vụ Huyện ủy Sông Lô; đồng chí nguyên Bí thư Huyện ủy Sông Lô ( n ay là Phó Gi á m đốc Sở Công thương); đồng chí Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện Sông Lô. Thực hiện không đúng các quy định về công tác cán bộ; chưa gương mẫu trong kê khai tài sản thu nhập như đồng chí nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo và đồng chí nguyên là Bí thư Huyện ủy Sông Lô ( hiện là Phó Giám đốc Sở Công thương). Sai phạm ở việc ra quyết định, tổ chức thực hiện công việc gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai… như trường hợp đồng chí nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, nguyên Phó Chủ tịch UBND thành phố Vĩnh Yên (hiện là Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ). Những biểu hiện của lợi ích nhóm, thờ ơ, vô cảm được thể hiện rõ ở Ban Thường vụ Huyện ủy Sông Lô (trước thời điểm tháng 3-2019), cụ thể: Ban Thường vụ Huyện ủy, đồng chí Bí thư Huyện ủy quyết định bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử nhiều cán bộ không bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định; không chấp hành ý kiến chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, thậm chí có trường hợp bổ nhiệm cán bộ có số phiếu tín nhiệm đạt rất thấp nhưng đồng chí Bí thư và tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy vẫn quyết định bổ nhiệm.
Điểm mới rõ nét trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa XII) thời gian qua, đó là kết hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra với công tác cán bộ, gắn việc xem xét, thi hành kỷ luật nghiêm minh, kịp thời đối với các trường hợp có sai phạm với việc chỉ đạo cho thôi giữ chức vụ, điều chuyển công tác khác đối với những cán bộ vi phạm kỷ luật; uy tín, tín nhiệm thấp, năng lực công tác yếu, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cấp ủy các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phân công đồng chí ủy viên Ban Thường vụ cấp ủy trực tiếp làm trưởng các đoàn kiểm tra, giám sát, coi trọng việc phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu giúp việc, nhất là UBKT trong việc tham mưu giúp cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy chỉ đạo và tố chức thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát đã đạt được kết quả cụ thể như: Đối với việc kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên đã tập trung kiểm tra công tác cán bộ, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đối với 9/9 huyện ủy, thành ủy; công tác phòng ngừa tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản; việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của cấp ủy về phát triển kinh tế – xã hội… Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội…; trong năm 2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tiến hành kiểm tra đối với Đảng đoàn HĐND tỉnh, Ban cán sự đảng UBND tỉnh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 01,02 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế – hội; việc thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xâ dựng cơ bản.
Thực hiện chương trình công tác kiểm tra, giám sát hằng năm; cấp ủy các cấp đã tiến hành kiểm tra đối với 2.068 tổ chức đảng và 1.714 đảng viên; trong đó, cấp tỉnh kiểm tra 52 tổ chức và 22 đảng viên; cấp ủy cơ sở và chi bộ kiểm tra 1.457 tổ chức đảng và 1.362 đảng viên. Qua kiểm tra phát hiện 21 tổ chức đảng và 25 đảng viên có khuyết điểm, vi phạm, phải thi hành kỷ luật đối với 3 tổ chức đảng và 7 đảng viên.
Cùng với đổi mới, đẩy mạnh công tác kiểm tra, cấp ủy các cấp tăng cường công tác giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề. Qua giám sát đã phát hiện 13 tổ chức đảng và 21 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, chuyển kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với 4 tổ chức đảng và 9 đảng viên.
Đối với UBKT các cấp, trong những năm qua, cùng với làm tốt công tác tham mưu, UBKT Tỉnh ủy và UBKT các cấp trong Đảng bộ đã tổ chức thực hiện toàn diện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đã tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt và là giải pháp quan trọng để thực hiện tốt các nhiệm vụ về công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa XI, XII). Sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm kiếm tra khi có dấu hiệu vi phạm trong những năm qua, đó là: Ngay từ đầu năm, UBKT Tỉnh ủy đã chủ động xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu thực hiện đến các đơn vị, đồng thời tập trung chỉ đạo quyết liệt UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh đề ra các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể trong công tác nắm bắt tình hình để lựa chọn vấn đề, phát hiện dấu hiệu vi phạm và xác định đúng đối tượng, nội dung kiểm tra; trong đó, tập trung kiểm tra những lĩnh vực nhạy cảm, dễ nảy sinh vi phạm, tăng cường kiểm tra đối với cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý, kết luận và xem xét, xử lý đối với các tập thế và cá nhân có sai phạm, công khai kết quả xử lý,
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 331 tổ chức đảng và 672 đảng viên; cụ thể: UBKT Tỉnh ủy đã tiến hành kiểm tra 8 tổ chức đảng (trong đó có 1 Ban Thường vụ Huyện ủy) và 17 đảng viên (trong đó có 5 đảng viên là Tỉnh ủy viên và cán bộ diện Tỉnh ủy quản lý); UBKT cấp huyện kiểm tra 88 tổ chức và 198 đảng viên, cấp cơ sở kiểm tra 235 tố chức và 457 đảng viên.
Nội dung kiểm tra tập trung ở việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý đất đai; tài chính ngân sách; đầu tư xây dựng; việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao… Qua kiểm tra, phát hiện 273 tổ chức đảng và 570 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 9 tổ chức đảng và 194 đảng viên.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện nhiệm vụ này còn có một số đơn vị chưa thực hiện tốt công tác nắm bắt tình hình để phát hiện và xác định dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, từ đó chưa tiến hành kiểm tra hoặc kiểm tra được ít tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Chất lượng của một số cuộc kiểm tra còn hạn chế; do vậy, đã ảnh hưởng đến tác dụng, hiệu quả của công tác kiểm tra trong việc phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Đối với một số cấp ủy cấp huyện và cơ sở vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm đó là chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát chưa cao, kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy viên, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể còn ít, nội dung kiểm tra, giám sát chưa đi vào lĩnh vực nhạy cảm như quản lý đất đai, quản lý trật tự đô thị, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội, công tác cán bộ. Kết luận kiểm tra chưa nêu rõ trách nhiệm của cá nhân, tập thể đối với những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm. Trước những kết quả và những mặt còn hạn chế, từ nay đến cuối nhiệm kỳ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh tập trung vào một số công việc trọng tâm sau:
Cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công tác kiếm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng; đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tô chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiếm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.
Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát để các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững và tự giác chấp hành. Quan tâm, tạo điều kiện đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho UBKT các cấp; kịp thời triển khai thực hiện các chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, đặc biệt là ở cấp cơ sở, qua đó tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ kiểm tra yên tâm công tác, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát; giải quyết tốt những vấn đề sau kết luận kiểm tra; bảo đảm ổn định tình hình phục vụ đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 – 2025 đạt kết quả.
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện các nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với các quy định (Quy định số 101, 55 và 08 của Ban Chấp hành Trung ương) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu. Qua công tác kiểm tra, giám sát đánh giá, nhận diện và chỉ rõ các mức độ suy thoái của cán bộ, đảng viên tại địa phương, đơn vị mình, kiên quyết khắc phục tình trạng đánh giá chung chung, thiếu cụ thể trong việc nhận diện suy thoái của cán bộ, đảng viên.
UBKT các cấp bám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng, tình hình hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên thuộc Đảng bộ cấp mình, phối hợp với các Ban Xây dựng Đảng để tham mưu giúp cấp ủy xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình công tác kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm; trong đó tập trung kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc của cấp uỷ và các nội dung được cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân quan tâm, phản ảnh. Tăng cường công tác tham mưu giúp cấp ủy kiểm tra, giám sát đối với công tác cán bộ; công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, sử dụng ngân sách; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cấp uỷ viên, người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thế chính trị – xã hội.
UBKT các cấp chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, tập trung kiểm tra đối với các đối tượng là cấp ủy viên và cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý, đi sâu kiểm tra những nội dung trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề mà cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân quan tâm, phản ảnh. Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên vỉ phạm, xử lý đúng trách nhiệm người đứng đầu, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác kiếm tra, giám sát đế nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Chú trọng công tác kiện toàn về tổ chức, bộ máy của UBKT các cấp đủ về số lượng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, quá trình kiện toàn phải xem xét các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, lối sống; năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; kinh nghiệm làm công tác xây dựng Đảng và đặc biệt là quá trình tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện và kết quả hoàn thành các nhiệm vụ được giao để lựa chọn được các đồng chí có đầy đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bầu vào UBKT các cấp./.
Hoàng Thị Thúy Lan Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc
Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Quả Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát Của Đảng
Thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn chú trọng đến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức trong các tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, coi đó là một khâu quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng bộ. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng có những chuyển biến tích cực, đã từng bước đi vào nền nếp, hoạt động có hiệu quả, bám sát và đáp ứng kịp thời những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ trong từng thời kỳ.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT các cấp từng bước đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm; đã triển khai kiểm tra, giám sát trên các lĩnh vực công tác đảm bảo tính toàn diện, trong đó đã tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; việc quán triệt, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, mà trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ; kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên…
Đoàn kiểm tra của Tỉnh ủy làm việc với Chi cục Kiểm Lâm tỉnh về chấp hành các Nghị quyết của HĐND tỉnh.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”, gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát, trong thời gian tới các cấp ủy, tổ chức Đảng trong toàn Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 14-NQ/TƯ, ngày 30-7-2007 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và Kết luận số 72-KL/TƯ, ngày 3-12-2011 của Bộ Chính trị về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”. Trước mắt, sẽ tập trung quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Hướng dẫn số 10-HD/UBKTTƯ, ngày 4-9-2014 của UBKT Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát; Hướng dẫn về công tác nhân sự UBKT phục vụ Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015- 2020.
Bên cạnh đó, UBKT Tỉnh ủy tiếp tục xây dựng và chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát có trọng tâm, sát hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị, nhất là tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, chương trình, đề án trong nhiệm kỳ, giúp cấp ủy, tổ chức Đảng đánh giá đúng tình hình, dự báo và xây dựng kế hoạch 5 năm tới đảm bảo khả thi, sát tình hình thực tế.
Ngoài ra, UBKT Tỉnh ủy tập trung kiểm tra, giám sát những vấn đề nổi cộm, bức xúc, những lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, xây dựng cơ bản, công tác chính sách, công tác cán bộ..; về trách nhiệm cá nhân của cán bộ chủ chốt, của người đứng đầu; tăng cường kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng và đảng viên là cấp ủy viên, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý về tình hình chấp hành nguyên tắc Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; tình hình chấp hành chỉ thị, nghị quyết; kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; việc thực hiện quy chế làm việc, giữ gìn đoàn kết nội bộ, nâng cao tính chiến đấu của từng tổ chức cơ sở Đảng; kiểm tra mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mỗi người, kỷ luật phát ngôn, việc chấp hành Quy định số 47-QĐ/TƯ, ngày 1-11-2011 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; chú ý kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất cách mạng, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên; việc cải cách hành chính, cải cách tư pháp gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TƯ về “Đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Qua mỗi cuộc kiểm tra phải có đánh giá, rút kinh nghiệm để phục vụ kịp thời cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Đồng chí Nguyễn Đình Tuấn, UBKT Tỉnh ủy cùng đoàn công tác thăm Trường Mầm non Hoa Sen, TP Cẩm Phả.
Mới đây, tại hội nghị tổng kết công tác kiểm tra, giám sát, đồng chí Nguyễn Đức Long, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh: Năm 2015 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII; là năm tiến hành tổ chức Đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, bởi vậy yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là hết sức nặng nề, đòi hỏi hệ thống chính trị phải tích cực vào cuộc. Trong đó vẫn phải luôn xác định rõ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” và phải đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng. Thường trực cấp ủy và UBKT các cấp phải sâu sát, xây dựng kiểm tra giám sát theo hướng tăng cường kiểm tra đột xuất, phản ánh đánh giá đúng tình hình, khách quan; kiểm tra có trọng tâm trọng điểm ngay từ cơ sở, giải quyết tốt đơn thư, khiếu nại, nhất là những vấn đề nổi lên để khi bước vào đại hội đảm bảo ổn định. Đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật trong Đảng phải xử lý nghiêm minh, có sức răn đe trên cơ sở hợp tình, hợp lý…
Có thể nói, nhiệm vụ trước mắt của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh còn rất nặng nề, đòi hỏi ngành Kiểm tra Đảng khắc phục những tồn tại, hạn chế, nỗ lực phấn đấu để đưa công tác kiểm tra, giám sát lên tầm cao mới, luôn xứng đáng với vị trí là một khâu trọng tâm, không thể thiếu trong các hoạt động lãnh đạo của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng các cấp đề ra./.
Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Lực, Hiệu Quả Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát, Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Ðảng trong nhiệm kỳ Ðại hội XII đã có bước tiến mạnh với nhiều chuyển biến rõ rệt và đạt kết quả quan trọng toàn diện.
Kỳ họp 48 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Ðảng đã góp phần khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém; từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”, tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng, xây dựng hệ thống chính trị liêm chính, hành động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Ðảng nhằm thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ðồng bộ, chủ động và quyết liệt
Các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã nghiêm túc tổ chức thực hiện nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XII về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã kịp thời ban hành chương trình, kế hoạch, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận để triển khai thực hiện. Nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa và tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát đã được nâng lên.
UBKT Trung ương và UBKT các cấp đã tăng cường thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát với tinh thần quyết tâm, quyết liệt, “chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả”; giám sát “mở rộng”, kiểm tra “có trọng tâm, trọng điểm”; không chờ kết quả của công tác điều tra, thanh tra; có lúc, có việc, công tác kiểm tra của UBKT đi trước làm cơ sở, “mở đường” cho công tác thanh tra, điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật. UBKT các cấp đã tập trung kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, làm rõ đến đâu, kết luận và xử lý đến đó, làm vụ nào ra vụ ấy, làm bài bản, khoa học, làm đến nơi, đến chốn.
Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần tích cực vào kết quả thực hiện Nghị quyết Ðại hội XII, các nghị quyết của Ðảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Ðảng của các địa phương, đơn vị. Qua công tác kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật để đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng với công tác giám sát, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước ngày càng chặt chẽ, hiệu quả.
Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được UBKT Trung ương và UBKT các cấp quan tâm, thực hiện có nhiều đề tài, đề án chất lượng cao, đóng góp chung cho công tác lý luận của Ðảng và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành các chủ trương, nghị quyết, chính sách, quy định cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Ðảng và công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Ðạt được kết quả nêu trên có một số nguyên nhân và kinh nghiệm như sau:
Một là: Có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, vừa khẩn trương, tích cực, vừa bài bản, chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, nhất là sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, cụ thể, kiên quyết của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngay từ đầu nhiệm kỳ.
Hai là: Kế thừa kinh nghiệm, truyền thống của ngành, UBKT Trung ương đã tập trung tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cụ thể hóa Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng; sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng làm cơ sở, căn cứ thực hiện thống nhất trong toàn Ðảng, tạo điều kiện thuận lợi cho cấp ủy, UBKT các cấp triển khai thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là: UBKT Trung ương đã chủ động, tập trung cho việc tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trên cơ sở thông tin từ nguồn tin cậy, có căn cứ và kết hợp kiểm tra thường xuyên với kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giám sát chuyên đề; làm bài bản, chặt chẽ, khoa học, đến đâu chắc đến đó.
Bốn là: Chú trọng công tác giám sát để phát hiện sớm, ngăn ngừa, kịp thời, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, vi phạm của một người trở thành vi phạm của nhiều người, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm.
Năm là: Phải chú trọng vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng và nhất là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát; thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Sáu là: Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới, nhất là trong các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, lĩnh vực nhạy cảm, quan trọng và xử lý vi phạm về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Bảy là: Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng của Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm.
Những hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả, nỗ lực cố gắng của các cấp, ngành, địa phương và UBKT các cấp, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng còn một số hạn chế, khuyết điểm cần được thẳng thắn đánh giá và tập trung khắc phục trong giai đoạn tiếp theo. Ðó là, kết quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp tuy có chuyển biến nhưng chưa đồng đều, chưa toàn diện, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế, có nơi chuyển biến chậm, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay; việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý vi phạm trong nội bộ đảng bộ, chi bộ, cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu.
Bên cạnh đó, cơ cấu ủy ban kiểm tra, tổ chức bộ máy cơ quan UBKT các cấp chưa thống nhất, một số quy định chậm được triển khai trên thực tế. Việc thực hiện thí điểm sắp xếp, hợp nhất cơ quan kiểm tra của Ðảng và thanh tra của Nhà nước theo Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII bước đầu có gặp một số khó khăn, vướng mắc trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ. Năng lực, trình độ, bản lĩnh, kinh nghiệm và phương pháp công tác của một bộ phận cán bộ kiểm tra còn hạn chế.
Kiên định, kiên quyết, kiên trì hơn nữa
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn nhấn mạnh quan điểm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức và trách nhiệm về quyết tâm chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, ngành và cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, từ đó nâng cao đạo đức, danh dự, tinh thần trách nhiệm để mọi người “không còn muốn tham nhũng”.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán và các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong hoạt động kiểm tra, giám sát. UBKT các cấp tiếp tục tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy cùng cấp sửa đổi, bổ sung, xây dựng ban hành mới quy chế phối hợp giữa UBKT với cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm toán, viện kiểm sát, tòa án nhân dân và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo hướng UBKT chủ trì phối hợp và điều phối thực hiện việc phối hợp…
Yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Ðảng đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo thông qua việc ban hành đầy đủ, kịp thời các quy định của Ðảng về xây dựng Ðảng, công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức nghiên cứu, quán triệt triển khai thực hiện và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện trong thực tế. UBKT các cấp chủ động nắm tình hình để kịp thời phòng ngừa, phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm để kiểm tra; thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát, chú trọng giám sát cấp ủy viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý, cán bộ tham mưu chiến lược, trước hết là người đứng đầu, tập trung vào những nội dung trọng yếu, những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh vi phạm; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý tình trạng thiếu gương mẫu, thiếu trách nhiệm, suy thoái, tham nhũng, “lợi ích nhóm”.
Ðổi mới, kiện toàn UBKT, tổ chức bộ máy và cơ quan UBKT đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng chuyên nghiệp hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu cao, có kinh nghiệm công tác xây dựng Ðảng, kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ; nắm vững và thực hiện đúng các nguyên tắc, thẩm quyền, quy trình, thủ tục, cơ chế, chính sách, quy định của Ðảng và Nhà nước nhằm xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; không lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để trục lợi.
Trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Ðảng, cần quan tâm đầu tư nghiên cứu cả ở tầm vĩ mô và vi mô; nâng cao khả năng dự báo về tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là những vi phạm mới do tác động của toàn cầu hóa, cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ mới… Tăng cường nghiên cứu, lý luận, tổng kết thực tiễn, học tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng với các đảng cộng sản và về giám sát, phản biện xã hội của một số nước trên thế giới.
Cao Văn Thống
(Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương)
Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát, Kỷ Luật Đảng
Thứ hai, 24 Tháng 8 2015 09:50
(LLCT) – Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã luôn coi trọng và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật; hệ thống các văn bản về công tác xây dựng đảng nói chung, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng nói riêng được ban hành khá đồng bộ, giúp cho các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật; thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ này.
Cấp uỷ các cấp đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành chương trình, kế hoạch và thực hiện ngày càng có chất lượng, hiệu quả; khắc phục dần tình trạng cấp uỷ khoán trắng cho uỷ ban kiểm tra thực hiện. Quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp, tăng cường đội ngũ cán bộ và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra chuyên trách.
Ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, giúp cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Qua công tác kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, những quy định, chính sách không còn phù hợp; đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp kịp thời bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành các quy định mới phù hợp với thực tiễn.
Kết quả thực hiện kiểm tra, giám sát góp phần nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; kịp thời thanh lọc ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật đảng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập:
Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, nên tình trạng vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn diễn ra khá trầm trọng, có lĩnh vực còn gia tăng.
Trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, một số cấp uỷ vẫn còn khoán trắng cho uỷ ban kiểm tra thực hiện; chưa phát huy được vai trò tham mưu của các ban tham mưu, giúp cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Các ban của cấp uỷ mới chỉ thực hiện chức năng tham mưu cho cấp uỷ, còn ít thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định.
Một số uỷ ban kiểm tra thực hiện chưa hiệu quả các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, việc thực hiện giám sát thường xuyên còn hình thức, thực hiện giám sát chuyên đề còn hạn chế, việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đạt kết quả chưa cao. Còn một số nơi chưa tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Việc phát hiện, nhân rộng những cách làm mới, sáng tạo, mô hình hay qua công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế.
Tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra chưa thống nhất, đồng bộ ở các cấp; năng lực trình độ, bản lĩnh, tính chiến đấu, phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ kiểm tra còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Điều kiện, phương tiện làm việc còn hạn chế, chính sách đối với đội ngũ cán bộ kiểm tra chưa mang tính đột phá để thu hút cán bộ có năng lực, trình độ về làm công tác kiểm tra.
Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, như nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chậm được cụ thể hoá thành quy chế, quy định của Đảng, một số nơi còn bị vi phạm nghiêm trọng; kỷ luật, kỷ cương ở nhiềucấp uỷ, tổ chức đảng không nghiêm; sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ, tổ chức đảng và nhiều chi bộ chưa tốt, ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, cần thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của đảng để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng, chức trách nhiệm vụ của đảng viên và chấp hành nghiêm chỉnh khi được kiểm tra, giám sát.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Ban hành mới các quy chế, quy định: Quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; Quy chế về chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; Quy chế miễn nhiệm, thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ, mất uy tín; Quy chế kiểm tra trong Đảng; Quy định về giải quyết khiếu nại kỷ luật trong Đảng; Quy chế về trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các Luật Tố cáo, Luật Khiếu nại, Luật Thanh tra, Luật Công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Đấu thầu một cách đồng bộ và thống nhất. Cần nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật tiếp cận thông tin, Luật Bảo vệ nhân chứng, Luật Đầu tư công.
Ba là, đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và của chi bộ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, bổ sung nhiệm vụ, thẩm quyền bảo đảm hoạt động có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh đối với những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, giữ gìn đoàn kết nội bộ; về công tác tổ chức và cán bộ; về giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; trong lĩnh vực hành chính và tư pháp; trong quản lý sử dụng tài chính, ngân sách, vốn ODA; về đầu tư và xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản.
Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao nhằm kiểm soát chặt chẽ việc trao và thực thi quyền lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ ở các cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, quy chế làm việc. Coi trọng kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng ở các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước về hiệu quả lãnh đạo, quản lý sản xuất kinh doanh. Uỷ ban kiểm tra các cấp tập trung kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, để giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn, không chờ vụ việc xảy ra nghiêm trọng mới kiểm tra, xử lý. Đổi mới, tăng cường phối hợp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử và công tác giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Thông qua kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập của các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bổ sung, sửa đổi hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện; đồng thời giáo dục, ngăn chặn, chấn chỉnh kịp thời các khuyết điểm, xử lý nghiêm minh vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để đề xuất bổ sung, hoàn thiện phương pháp, quy trình, kỹ năng về công tác kiểm tra, giám sát. Nâng cao khả năng dự báo về tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là những vi phạm mới do tác động của toàn cầu hoá, cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
Coi trọng nghiên cứu các chủ trương, cơ chế, chính sách để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng khoa học – công nghệ phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng có chất lượng, hiệu quả.
Năm là, kiện toàn uỷ ban kiểm tra, tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để đủ khả năng, điều kiện hoàn thành nhiệm vụ được giao:
Nghiên cứu cơ cấu, số lượng thành viên uỷ ban kiểm tra các cấp hợp lý; xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp bảo đảm thống nhất mô hình các đơn vị giúp việc từ cấp tỉnh trở lên. Tăng cường cán bộ kiểm tra chuyên trách cho uỷ ban kiểm tra các xã, phường thị, trấn, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp có từ 300 đảng viên trở lên.
Đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có cơ cấu hợp lý ở các cấp, đủ phẩm chất năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Có chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ kiểm tra các cấp, trong đó có chế độ phụ cấp đối với cán bộ kiểm tra kiêm chức.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, điều kiện làm việc, bảo đảm nguồn lực cho hoạt động của uỷ ban kiểm tra.
Sáu là,tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế thành lập uỷ ban kiểm tra các cấp để tăng vị thế, tính độc lập và tăng thẩm quyền của uỷ ban kiểm tra trong thực hiện nhiệm vụ theo hướng: Uỷ ban kiểm tra các cấp do đại hội đảng cùng cấp bầu. Đồng thời, nghiên cứu tăng thêm bốn thẩm quyền cho uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện và tương đương trở lên trong Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020. Nghiên cứu đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát, trong đó được sử dụng phương pháp điều tra hành vi vi phạm của đảng viên, nhất là những vi phạm về tham nhũng; được yêu cầu các cơ quan điều tra phối hợp sử dụng các biện pháp điều tra để phục vụ công tác kiểm tra trong một số vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp.
Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là những chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, công khai và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng.
Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm để chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm từ khi còn manh nha. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm để răn đe và giáo dục.
Đề cao ý thức trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2014
Cao Văn Thống
TS Trần Duy Hưng
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
Bạn đang xem bài viết Đổi Mới Để Không Ngừng Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát Của Đảng trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!