Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Theo Hướng Bền Vững Ở Đakrông mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đến nay, huyện Đakrông có tổng đàn gia súc hơn 26.600 con; gia cầm hơn 81.000 con; tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng hằng năm hơn 1.350 tấn; 40% hộ chăn nuôi đại gia súc và 70% hộ chăn nuôi tiểu gia súc đã xây dựng hệ thống chuồng trại để chăn nuôi. Có được kết quả đó là nhờ huyện Đakrông tăng cường tuyên truyền, vận động người dân từng bước thay đổi tư duy, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, tự phát sang phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, hàng hóa với quy mô lớn; phát triển các loại vật nuôi đặc trưng của địa phương như: Gà ri, lợn Vân Pa, dê cỏ… theo hướng chủ lực, tạo thương hiệu; tổ chức lại sản xuất kết nối với thị trường tiêu thụ; phát triển ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới; quy hoạch, chuyển đổi những vùng đất chưa sử dụng, sản xuất kém hiệu quả sang vùng chăn nuôi tập trung, vùng trồng cây làm thức ăn cho chăn nuôi để nâng cao giá trị sử dụng đất… Để phát triển chăn nuôi theo hướng bền vững, thời gian tới huyện Đakrông đã có các giải pháp như: Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về phát triển chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới; tổ chức các hội nghị và sinh hoạt chuyên đề đến toàn thể cán bộ, Nhân dân nhằm từng bước thay đổi tư duy, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, tự phát sang phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, hàng hóa với quy mô lớn (trong đó, chú trọng phát triển các loại vật nuôi đặc trưng của địa phương như: Gà ri, lợn Vân Pa, dê cỏ…); tuyên truyền, vận động người dân áp dụng các mô hình chăn nuôi an toàn sinh học và địa điểm xây dựng chuồng trại chăn nuôi phải đảm bảo cách xa với nơi ở, nguồn nước sinh hoạt; vận động người dân xây dựng hệ thống xử lý chất thải, hầm biogas, đệm lót sinh học… đảm bảo chuồng trại chăn nuôi không gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái; đẩy mạnh phát triển đàn trâu theo hướng sản xuất hàng hóa với việc khoanh vùng chăn nuôi và chú trọng nâng cao chất lượng đàn; phát triển quy mô và chất lượng đàn bò (trong đó, chú trọng nâng cao chất lượng đàn, tăng tỉ lệ bò lai và làm tốt việc lai giống bằng thụ tinh nhân tạo); phát triển đàn bò theo hướng sản xuất hàng hóa, chăn nuôi tập trung với quy mô gia trại, tổ hợp tác, nhóm hộ… Hằng năm, huyện Đakrông sẽ tìm nguồn kinh phí để hỗ trợ người dân khoảng 100 con bò cái vàng Việt Nam và 120 con bò cái lai sind F2, F3 nuôi sinh sản; từng bước hình thành các trang trại chăn nuôi bò thịt, bò sinh sản với quy mô 100 con ở các xã Ba Lòng, Hướng Hiệp để cung cấp con giống cho người chăn nuôi bò trên địa bàn huyện…; khuyến khích người dân phát triển, nhân rộng giống dê cái địa phương hiện có và sử dụng dê đực lai để từng bước cải thiện tầm vóc, năng suất, chất lượng giống dê cỏ địa phương; phát triển mạnh đàn dê cỏ địa phương theo hướng thâm canh tăng năng suất, quy mô gia trại, tổ hợp tác, nhóm hộ; hình thành các gia trại, tổ hợp tác chăn nuôi dê để vừa cung cấp dê thịt, vừa đảm bảo cung cấp con giống tại các xã Ba Nang, Tà Rụt, Đakrông, Húc Nghì, A Vao, Triệu Nguyên…; bảo tồn và phát triển giống lợn Vân Pa, gắn với xây dựng thương hiệu và liên kết tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích người dân chăn nuôi theo hướng tập trung, bán chăn thả, sử dụng thức ăn sẵn có tại địa phương để sản phẩm thịt thơm ngon, mang đặc trưng vùng, địa phương… cung cấp cho thị trường tiêu thụ trong và ngoài huyện; hình thành các tổ hợp tác chăn nuôi lợn Vân Pa; khuyến khích các hộ chăn nuôi lợn thịt theo hướng trang trại, gia trại và chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm…; khuyến khích phát triển chăn nuôi gia cầm thả vườn, đồi theo loại hình trang trại, gia trại, tổ hợp tác theo hướng an toàn sinh học; chú trọng xây dựng thương hiệu và liên kết tiêu thụ sản phẩm để dần thay thế việc chăn nuôi gia cầm phân tán, nhỏ lẻ trong khu dân cư. Bên cạnh đó, huyện Đakrông cũng đã chú trọng việc xây dựng quy trình giám sát dịch bệnh gia súc, gia cầm từ tuyến huyện đến cơ sở…; tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người chăn nuôi bảo quản rơm, ủ rơm, ủ xanh các loại cây làm thức ăn cho gia súc, để người chăn nuôi tận dụng hết các phụ phẩm nông sản tại chỗ… Khuyến khích người dân chuyển đổi một số diện tích đất chưa sử dụng hoặc trồng các loại cây trồng hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cỏ nuôi gia súc; hỗ trợ máy cắt cỏ, máy băm cỏ, giống cỏ, phân bón… cho một số hộ chăn nuôi gia súc; tăng cường tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi cho người dân; tổ chức cho người chăn nuôi tham quan các mô hình chăn nuôi hiệu quả kinh tế cao trong và ngoài huyện… ; tăng cường cập nhật thông tin cho người dân về tình hình chăn nuôi và thị trường các sản phẩm chăn nuôi; hỗ trợ quảng bá và tiếp cận thị trường cho các vùng chăn nuôi có ưu thế cạnh tranh của huyện; tăng cường kết nối thị trường trong và ngoài huyện để có định hướng điều tiết các sản phẩm chăn nuôi một cách năng động, có lợi cho người chăn nuôi; trên cơ sở quy hoạch các vùng chăn nuôi, khuyến khích người dân phát triển các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn gắn với bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chăn nuôi, gắn với việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm chăn nuôi…; từng bước hình thành mối liên kết giữa người chăn nuôi với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích hình thành các nhóm hộ, tổ hợp tác chăn nuôi gắn với giết mổ, chế biến để tạo nên sự ổn định về giá cả, sản phẩm và tạo thương hiệu cho sản phẩm chăn nuôi… và nhiều giải pháp hữu hiệu khác.
Phát Triển Chăn Nuôi Gia Cầm Theo Hướng Bền Vững
Phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng bền vững
Mô hình nuôi gà của gia đình chị Trần Thị Vân, xã Thọ Dân (Triệu Sơn).
Do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, cùng với dịch cúm A/H5N6 xuất hiện ở một số địa phương, nên giá các loại thịt, trứng gia cầm giảm mạnh, khiến người chăn nuôi gặp khó…
Thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông, hiện tỉnh ta có tổng đàn gia cầm khoảng 23 triệu con. Số lượng gia cầm tăng cao so với cùng kỳ những năm gần đây là bởi sau đợt dịch tả lợn châu Phi năm 2019, nhiều hộ nông dân đã chuyển từ nuôi lợn sang gia cầm. Hiện các hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đang nuôi gia cầm theo 2 hình thức là chăn nuôi gia công cho các doanh nghiệp, các hộ chăn nuôi được đầu tư con giống, thức ăn và bao tiêu sản phẩm, tuy nhiên chỉ chiếm số lượng rất nhỏ. Còn phần lớn là các hộ tự đầu tư chăn nuôi và bán lẻ ra thị trường. Dù chăn nuôi gia cầm với số lượng lớn, nhưng phần lớn chủ trang trại chưa liên kết với các doanh nghiệp hình thành chuỗi khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ, nên đầu ra bấp bênh, phụ thuộc vào thương lái. Ba tháng gần đây, giá các loại gia cầm liên tục giảm, nhất là sau khi dịch cúm A/H5N6 xuất hiện trên đàn gia cầm ở một số địa phương cùng với ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19, nhiều nhà hàng, bếp ăn tập thể phải đóng cửa, nhu cầu tiêu dùng thịt gia cầm giảm khiến giá gia cầm giảm mạnh. Có thời điểm giá gà ri trên thị trường chỉ còn khoảng 60.000 đồng/kg, giảm 20.000 đồng/kg, giá vịt chỉ còn khoảng 25.000 đồng/kg, giảm 15.000 đồng/kg; trứng gà còn 1.700 đồng/quả, giảm 500 đồng/quả so với thời điểm trước Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020 nhưng người nuôi vẫn phải bán vì càng nuôi kéo dài càng bị lỗ nặng.
Suốt 3 tháng nay, ông Hứa Xuân Hưng, thị trấn Nưa (Triệu Sơn) chủ trang trại nuôi 11.000 con gà lo lắng không yên vì giá gà giảm sâu, trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Theo ông Hưng, mỗi ngày trang trại gà của ông tiêu thụ khoảng 20 triệu đồng tiền cám, 1.000 lít nước. Trong đó, đã đến ngày xuất chuồng thương lái chỉ trả 50.000 – 55.000 đồng/kg gà thịt, trứng gà giảm còn 1.500 đến 1.700 đồng/quả nhưng vẫn không có người mua. Gà đã quá ngày xuất chuồng cả tháng nay nhưng không thể bán được trong khi đó giá thức ăn lại tăng nên chúng tôi cũng không biết giải quyết như thế nào.
Gia đình chị Trần Thị Vân ở thôn 2, xã Thọ Dân (Triệu Sơn) hiện nuôi hơn 2.000 con gà, trong đó gần 1.000 con đã đến kỳ xuất chuồng. Được biết, giá gà ri nuôi theo hình thức thả đồi của gia đình chị trước đây được bán với giá trung bình từ 80.000 đến 90.000 đồng/kg nay giảm xuống chỉ còn 60.000 đồng/kg nhưng vẫn không có người mua. Hiện gia đình chị đang phải vay mượn tiền để tiếp tục đầu tư mua thức ăn, nhằm duy trì đàn gà.
Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá các loại gia cầm giảm sâu như hiện nay chủ yếu do ảnh hưởng bởi dịch bệnh, thời gian tới khi tình hình ổn định, các trường học, bếp ăn tập thể hoạt động trở lại thì giá gia cầm sẽ dần trở lại ổn định. Do vậy, người chăn nuôi cần theo dõi thị trường, tránh tăng đàn ồ ạt, phá vỡ quy hoạch khiến thị trường mất ổn định. Trước mắt, với giá gia cầm giảm mạnh như hiện nay, người chăn nuôi cần bình tĩnh, không nên bán vội với giá quá thấp. Bên cạnh đó, để giảm thiểu chi phí chăn nuôi, người dân nên mở rộng chuồng trại, phát triển đàn gà theo hướng thả vườn, chuyển đổi thức ăn chăn nuôi từ cám công nghiệp sang những loại thức ăn sẵn có như ngô, sắn… Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia cầm, tỉnh ta đã chỉ đạo ngành nông nghiệp và các địa phương phát triển chăn nuôi gia cầm, nhất là chăn nuôi gà theo chuỗi phục vụ chế biến và xuất khẩu. Từng bước thay đổi căn bản ngành chăn nuôi gà theo hướng nâng cao giá trị, tăng khả năng cạnh tranh, tạo sản phẩm chăn nuôi an toàn và phát triển bền vững. Thực hiện mục tiêu phát triển chăn nuôi gà theo chuỗi phục vụ chế biến và xuất khẩu. Khuyến khích xây dựng, phát triển các trang trại, khu, cụm trang trại chăn nuôi gà tập trung, tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng của đơn vị đầu tư, thu mua, chế biến và xuất khẩu. Hiện các địa phương cũng đang tập trung rà soát lại số lượng tổng đàn gia cầm trên địa bàn, thông báo tới người chăn nuôi, khuyến cáo nông hộ khi tăng đàn cần phải xem xét, tính toán cẩn thận, điều tiết cho cân đối với cung cầu của thị trường. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng và chuyển giao các vùng, cơ sở chăn nuôi gia cầm an toàn dịch bệnh, đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật của thị trường, để nâng cao giá trị cạnh tranh của sản phẩm.
Lương Khánh
Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Lợn Bền Vững
Giải pháp phát triển chăn nuôi lợn bền vững
Trang trại chăn nuôi lợn tại xã Vân Sơn (Triệu Sơn).
Sau dịch bệnh tả lợn châu Phi, tỉnh Thanh Hóa đặc biệt quan tâm đến việc tái đàn, bảo đảm an toàn dịch bệnh để phát triển chăn nuôi bền vững.
Theo đó, ngay từ thời điểm dịch bệnh tả lợn châu Phi đang bùng phát mạnh năm 2019, tỉnh đã có giải pháp, chính sách cụ thể để bảo vệ, duy trì đàn lợn giống ông bà, bố mẹ. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp ngăn chặn, khống chế dịch bệnh hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh gây ra, từ đó tạo môi trường an toàn cho người chăn nuôi đầu tư tái sản xuất. Chủ động phát hiện, xử lý các trường hợp lợn không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch từ các tỉnh bị dịch vào địa bàn tỉnh.
Cùng với đó, chú trọng hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ sở chăn nuôi lợn áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các cơ sở chăn nuôi, nhất là tái đàn, tăng đàn, kiên quyết không thực hiện tái đàn đối với những cơ sở chăn nuôi không bảo đảm các điều kiện chăn nuôi an toàn sinh học. Thực hiện chuyển đổi con nuôi đối với các cơ sở chăn nuôi lợn không đủ điều kiện để tái đàn. Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý con giống, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở sản xuất lợn giống trên địa bàn tăng cường nhân giống, cung ứng con giống có chất lượng, bảo đảm an toàn dịch bệnh cho người chăn nuôi để thực hiện tái đàn, tăng đàn. Đồng thời, thực hiện hỗ trợ nhanh, kịp thời cho các hộ chăn nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh tả lợn châu Phi, tạo điều kiện về nguồn vốn để các hộ, cơ sở chăn nuôi lợn tái đàn, khôi phục sản xuất.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp khôi phục chăn nuôi lợn, nên đàn lợn trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục đáng kể. Hiện, tổng đàn lợn toàn tỉnh được khôi phục và duy trì gần 1,2 triệu con, đạt 98% so với trước thời điểm xảy ra dịch bệnh tả lợn châu Phi. Chăn nuôi lợn chuyển biến theo hướng tích cực, chăn nuôi lợn nông hộ giảm chỉ còn chiếm 60%, chăn nuôi trang trại phát triển, chiếm tới 40%. Đây có thể xem là bước chuyển tạo ra cơ hội lớn để chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh phát triển theo hướng bền vững.
Chi cục Chăn nuôi và Thú y đánh giá, mặc dù chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh đã cơ bản được khôi phục trở lại, song nguy cơ tiềm ẩn bùng phát các loại dịch bệnh vẫn còn cao, nhất là dịch bệnh tả lợn châu Phi. Do đó, để chăn nuôi lợn phát triển bền vững, các địa phương, cơ sở và hộ chăn nuôi lợn cần tiếp tục chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống hiệu quả các loại dịch bệnh thông qua việc tăng cường quản lý con giống, tiêm đầy đủ các loại vắc-xin phòng bệnh, vệ sinh tiêu độc, khử trùng cơ sở, môi trường chăn nuôi định kỳ, thường xuyên. Quản lý chặt chẽ công tác vận chuyển, giết mổ, kinh doanh lợn và các sản phẩm từ lợn.
Hiện nay, chăn nuôi lợn cả nước và trên địa bàn tỉnh đang gặp khó khăn về nguồn giống. Vì vậy, để chăn nuôi lợn phát triển ổn định, bền vững cần khuyến khích các cơ sở chăn nuôi đầu tư sản xuất con giống, giới thiệu các cơ sở sản xuất con giống đạt chất lượng, an toàn dịch bệnh, có giấy chứng nhận kiểm dịch. Đồng thời, thực hiện việc kiểm dịch, lấy mẫu giám sát định kỳ, thường xuyên kiểm tra chất lượng con giống, tinh lợn đực giống. Bên cạnh đó, tăng cường áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học.
Cùng với các giải pháp về phòng, chống dịch bệnh, quản lý con giống, ngành nông nghiệp cùng chính quyền các địa phương và hộ chăn nuôi cần chú trọng thực hiện giải pháp về kêu gọi, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư phát triển chăn nuôi lợn bằng cách liên kết, hợp tác đầu tư và bao tiêu sản phẩm; thu hút các doanh nghiệp có đủ năng lực đầu tư vào lĩnh vực giết mổ, chế biến, gắn liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, nhằm nâng cao giá trị và phát triển bền vững.
Châu Giang
Tìm Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Lợn Bền Vững
Biên phòng – Chăn nuôi lợn đang tạo thu nhập cho khoảng 1/3 số hộ nông dân sản xuất nông, lâm, thủy sản. Đặc biệt, hình thức chăn nuôi nông hộ rất phổ biến ở vùng biên giới, dân tộc thiểu số và đóng góp đáng kể vào thu nhập của các hộ dân. Tuy nhiên, chăn nuôi nông hộ đang chịu nhiều tác động nhất từ dịch bệnh.
Chăn nuôi lợn mang lại thu nhập cho hơn 3,4 triệu gia đình. Ảnh: Bích Nguyên
Thu nhập cho hơn 3 triệu nông hộ
Theo nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, ngành hàng lợn Việt Nam tạo thu nhập cho hơn 3,4 triệu hộ dân trong tổng số 9,32 triệu hộ sản xuất nông, lâm, thủy sản. Việt Nam là nước xếp thứ 5 trong top 10 quốc gia sản xuất thịt lợn với sản lượng móc hàm đạt 2,8 triệu tấn (2018), sau Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, Brazil, Nga. Những năm trước đây, chăn nuôi lợn tăng trưởng với tốc độ 1,5%/năm. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi lợn những năm qua liên tục lâm vào tình trạng bất ổn về cung – cầu khiến đầu ra luôn bấp bênh, giá lợn hơi xuất chuồng luôn biến động ngoài tầm kiểm soát.
Từ cuối 2016 đến hết năm 2017, giá lợn giảm mạnh, quanh mức 25.000-30.000 đồng/kg và giảm sâu khi dịch tả lợn châu Phi bắt đầu nổ ra hồi đầu năm 2019. Dịch tả lợn châu Phi đã tác động đến cung – cầu, giá cả thị trường. Đến cuối năm 2019, giá thịt lợn tăng “phi mã” và ở thời điểm hiện tại vẫn ở mức hơn 100.000/kg do chưa tái đàn đủ.
Các hộ nông dân nuôi lợn bị ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của dịch bệnh, đặc biệt không được hưởng lợi nhiều dù giá lợn tăng cao. Nghiên cứu về tác động của dịch bệnh tới cung – cầu ngành hàng lợn và sinh kế hộ chăn nuôi trong năm vừa qua cho thấy, còn khoảng cách lớn về giá giữa người bán lẻ và người chăn nuôi, khiến lợi nhuận của nông hộ chăn nuôi thấp. Cục Chăn nuôi cho rằng, một trong những nguyên nhân khác khiến thịt lợn khó giảm giá là lợn hơi xuất chuồng đến tay người tiêu dùng phải qua 2-5 khâu trung gian, làm tăng giá thịt lợn (gần 43%).
Trong 2 năm 2018-2019, hàng trăm nghìn hộ chăn nuôi đã bị thua lỗ do dịch bệnh cùng với giá thịt lợn thấp. Khi giá thịt lợn lên cao, nông dân chăn nuôi nhỏ lại không có lợn xuất bán. Vì thế, người nông dân nuôi lợn không được hưởng lợi. Tại thời điểm này, khi dịch tả lợn châu Phi đã được khống chế, việc tái đàn được khuyến khích, nhưng nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hầu như không đủ vốn để tái đàn. Ví dụ như tại Yên Bái, tỉ lệ chăn nuôi hộ gia đình chiếm 65% tổng đàn lợn của địa phương. “Khó khăn hiện nay trong tái đàn là con giống, tiếp đến là vốn. Chúng tôi đã phải giảm điều kiện về quy mô chăn nuôi và tăng mức hỗ trợ cho các hộ nông dân” – Ông Đỗ Đức Duy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái cho biết.
Để phát triển bền vững
Ông Nguyễn Việt Hưng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết, rủi ro dịch bệnh tới ngành hàng lợn và sinh kế hộ gia đình chăn nuôi lợn trong bối cảnh hội nhập là rất lớn. Do đó, về lâu dài, phải có chiến lược phát triển chăn nuôi lợn bền vững. Trong bối cảnh hiện nay, điều đầu tiên cần làm là phải tái đàn lợn thành công.
“Nếu không thực hiện nhanh, hiệu quả việc tái đàn, chúng ta sẽ mất một góc thị phần của ngành chăn nuôi lợn. Chắc chắn không thể để giá lợn cao mãi như này được, sẽ phải có nhiều giải pháp để điều hành. Do đó, ngoài 15 doanh nghiệp nòng cốt chiếm khoảng 35% thị phần rất cần sự vào cuộc, chung tay của các trang trại, gia trại, chăn nuôi lợn nông hộ” – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Về mặt giải pháp, ở góc nhìn từ địa phương, ông Duy cho rằng, Chính phủ và Bộ NN&PTNT cần có giải pháp đảm bảo bình ổn, phát triển chăn nuôi lợn phục vụ trong nước và xuất khẩu, tránh mất cân đối cung – cầu và biến động giá, bởi địa phương cũng như các hộ chăn nuôi rất lo lắng về đầu ra sản phẩm. Đồng thời, đẩy mạnh cung ứng con giống thương phẩm an toàn cho các hợp tác xã, hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT hỗ trợ địa phương các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo chăn nuôi an toàn sinh học.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, bài học rút ra trong quá trình phòng, chống dịch tả lợn châu Phi đến nay là phải chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh. Nếu làm tốt công tác an toàn sinh học, dịch bệnh rất khó để xâm nhập vào chuồng trại, hoặc nếu có xâm nhập vẫn đủ thời gian và biện pháp để xử lý, khắc phục để giảm thiệt hại xuống mức thấp nhất. Bộ NN&PTNT đang chỉ đạo, khuyến khích các địa phương tăng đàn, tái đàn, song phải đảm bảo đáp ứng an toàn sinh học. Khai thác và phát triển nguồn gen giống lợn theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các giống vật nuôi bản địa chất lượng cao, có lợi thế.
Để giảm thiểu tác động của dịch bệnh và hội nhập thành công, các chuyên gia khuyến nghị, cần phải tận dụng cơ hội do hội nhập mang lại tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng: Ưu tiên hỗ trợ các địa phương, các doanh nghiệp xây dựng các chuỗi, vùng an toàn dịch bệnh, tổ chức chăn nuôi gắn với giết mổ, chế biến và kết nối thị trường theo các chuỗi liên kết khép kín. Bên cạnh đó, cần kiểm soát tốt công tác tái đàn; hỗ trợ đền bù thiệt hại, hỗ trợ phát triển có trọng điểm; tăng cường công tác cảnh báo sớm, thông tin và dự báo thị trường.
Nguyễn Bích
Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Phát Triển Chăn Nuôi Theo Hướng Bền Vững Ở Đakrông trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!