Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Đặt vấn đề
2. Một số khái niệm cơ bản
2.1. Phát triển đội ngũ
Khái niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như “đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y bác sỹ, đội ngũ giảng viên (ĐNGV)…”. Từ đội ngũ xuất phát theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự đó là: “khối đông người được tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức lại thành lực lượng chiến đấu”. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có chung một điểm là: một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp nhưng đều có chung một mục đích nhất định [1]. Như vậy, có thể nói đội ngũ là một tập thể gồm số đông người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
Khái niệm đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo dục được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ qui định của pháp luật, thể chế xã hội.
2.2. Phát triển đội ngũ giảng viên
` Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Phát triển là “biến đổi hoặc làm cho nó biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp hay rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [2, tr.759]. Phát triển trong giáo dục được hiểu là quá trình học tập nhằm mở ra cho những cá nhân những công việc mới dựa trên những định hướng tương lai của tổ chức.
Theo quan điểm phát triển đội ngũ của ngành giáo dục: “Phát triển đội ngũ là làm sao để có một lực lượng những người làm giáo dục đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng (nhân cách) đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và yêu cầu phát triển giáo dục nói riêng”.
Phát triển đội ngũ giảng viên là tổng thể các phương pháp, biện pháp, cách thức, chính sách để hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ (đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu, có trình độ chuyên môn và năng lực nghề nghiệp, phẩm chất tốt) đáp ứng yêu cầu phát triển của tổ chức. Một trong những nhiệm vụ quan trọng để phát triển giáo dục đại học là phát triển nguồn nhân lực. Trong phát triển nguồn nhân lực của cơ sở giáo dục đại học thì giảng viên đóng vai trò trung tâm, là nhân tố quan trọng quyết định chất lương đào tạo của nhà trường.
2.3. Ngành Quản lý văn hóa
Quản lý văn hóa (QLVH), là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung [3, tr.25]. QLVH là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.
Ngành QLVH, một ngành khoa học đào tạo chuyên môn về lĩnh vực văn hóa, Ngành QLVH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong hoạt động văn hóa trên phạm vi cả nước, gồm: quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, thông tin tuyên truyền, quảng bá, xuất bản, dịch vụ văn hóa công cộng, thiết chế văn hóa (Chính phủ qui đinh) và tổ chức các hoạt động của sự nghiệp văn hóa như: đào tạo bồi dưỡng, sáng tác, biểu diễn, quản lý tốt tài sản, cơ sở vật chất và các phương tiện chuyên dùng, kinh doanh các dịch vụ văn hóa nhằm nâng cao mức hưởng thụ của nhân dân và hội nhập quốc tế [3, tr.1]. Chương trình đào tạo ngành QLVH ngày càng được hoàn thiện và đổi mới, đã dựa vào ba tiêu chí cơ bản sau: là ngành khoa học thực hành; chương trình đào tạo ngày càng được chuẩn hóa; phải gắn liền với sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin và thiết bị hiện đại [4].
2.4. Những thành tố của quá trình phát triển ĐNGV
Bao gồm “phẩm chất” và “năng lực”, hai mặt này nó biểu hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong quá trình dạy học mà thể hiện rõ nét nhất là năng lực chuyên môn, khả năng điều khiển trong phạm vi trường học, uy tín trước tập thể sư phạm, khả năng ứng biến trong các tình huống sư phạm xã hội, trong đó vấn đề tổ chức thực hiện nhiệm vụ sẽ sáng tỏ được năng lực người giảng viên. Bên cạnh đó người giảng viên còn phải có phẩm chất về chính trị, tư cách đạo đức, tác phong sư phạm trước tập thể sư phạm, sinh viên, phụ huynh và các lực lượng giáo dục khác ngoài nhà trường.
2.5. Nhu cầu xã hội
Hiện nay, khái niệm nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng đào tạo theo nhu cầu xã hội gồm: đào tạo theo yêu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử dụng lao động, nhu cầu của người học và cả nhu cầu của phụ huynh học sinh. Song cũng có quan điểm cho rằng: đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn, đào tạo đáp ứng ngay nhu cầu trước mắt. Và quan điểm khác lại cho rằng nhu cầu cầu xã hội là nhu cầu của người học, khách hàng quan trọng nhất của nhà trường trong cơ chế thị trường là người học, có người học nhà trường mới tồn tại. Hiện nay, có rất nhiều người muốn đi học, nhất là học đại học nên phải mở rộng tuyển sinh, mở thêm nhiều trường đại học để đáp ứng nhu cầu xã hội. Bởi vậy, đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội, thì cần phải trả lời được câu hỏi (1) Xã hội là ai; họ yêu cầu gì; (2) Làm thế nào để đáp ứng yêu cầu của họ…[5].
Đào tạo theo nhu cầu xã hội chính là mục tiêu của giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước, nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn là của toàn xã hội. Trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo, điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho nhu cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung.
3. Thực trạng đội ngũ giảng viên khoa quản lý văn hóa
Để có cơ sở đánh giá thực trạng về ĐNGV đào tạo cử nhân ngành QLVH, tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế ở các trường ĐHVH TP. HCM tại TP Hồ Chí Minh từ tháng 6 đến tháng 9/2016; trong đợt khảo sát này, tác giả sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến của 16 cán bộ quản lý nhà trường từ trưởng/phó bộ môn trở nên đến Hiệu trưởng; 16 giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy cử nhân ngành QLVH kết quả:
3.1 Phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên
Bảng 1. Số lượng ĐNGV cơ hữu hiện có thuộc khoa QLVH-NT đào tạo ngành QLVH
STT
Tên đơn vị khảo sát
Tổng số
PGS
T. sỹ
GVC
Th.sỹ
ĐH
Khác
1
Khoa QLVH-NT
20
01
03
02
12
3
2
Cộng
20
01
03
02
12
03
02
(Nguồn: do phòng tổ chức Trường ĐHVH chúng tôi cung cấp tháng 9/2016)
Đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên, tác giả dùng thang đo Liker: từ 5 đến 1; 5 = rất thường xuyên, 4 = thường xuyên, 3 = đôi khi, 2 = không thường xuyên, 1 = không thực hiện.
Bảng 2. Đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên
STT
Các tiêu chí đánh giá
Mức đánh giá (%)
Xếp hạng
5
4
3
2
1
1
Tổ chức Hội giảng từ bộ môn trở nên
0
10,3
45,6
32,4
11,8
2,54
8
2
Bồi dưỡng lý thuyết chuyên môn
0
13,2
45,6
32,4
8,8
2,63
6
3
Bồi dưỡng thực hành chuyên môn
4,4
19,1
45,6
27,9
2,9
2,94
5
4
Bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp
7,4
33,8
44,1
11,8
2,9
3,31
3
5
Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
13,2
29,4
32,4
30,9
2,9
3,40
2
6
Bồi dưỡng lý luận chính trị
4,4
29,4
32,4
30,9
2,9
3,01
4
7
Bồi dưỡng phương pháp NCKH
8,8
39,7
38,2
10,3
2,9
3,41
1
8
Bồi dưỡng ngoại ngữ/tin học
0
16,2
50,0
8,8
25,0
2,57
7
Kết quả khảo sát ở bảng 2 cho thấy số người được hỏi đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng ĐNGV trong: bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học, xếp hạng 1 có điểm trung bình chung cao nhất 3,41; bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, xếp hạng 2 có điểm trung bình chung 3,40; trong khi đó, tổ chức hội giảng từ cấp bộ môn trở nên, xếp hạng 8 thấp nhất có điểm trung bình 2,54; sau đó là bồi dưỡng ngoại ngữ/tin học xếp hạng 7, bồi dưỡng lý thuyết chuyên môn, thực hành chuyên môn xếp hạng 6 và 5.
Bảng 3. Qui định việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giảng viên ngành QLVH
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ %
Đảm bảo thực hiện đầy đủ kế hoạch lên lớp, kiểm tra đánh giá và NCKH theo qui định
32
51,6%
Tổ chức dự giờ thăm lớp và các hoạt động chuyên môn theo định kỳ
16
25,8%
Thường xuyên đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy
14
22,6%
Tổng cộng
62
100%
Kết quả khảo sát qua phiếu hỏi 62 ý kiến của cán bộ quản lý và giảng viên ngành QLVH, bảng 3 cho thấy: có 51,6% GV đảm bảo thực hiện đầy đủ kế hoạch lên lớp, kiểm tra đánh giá và NCKH theo qui định; 25,8% Tổ chức dự giờ thăm lớp và các hoạt động chuyên môn theo định kỳ; 22,6% thường xuyên đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy.
Bảng 4. Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn dành cho ĐNGV ngành QLVH
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ %
Nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm do giảng viên đề xuất nhằm đáp ứng với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn theo yêu cầu của từng chuyên ngành trong ngành QLVH
17
34,70
Có sự tham gia trực tiếp của các nghệ sỹ, nhà giáo chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực QLVH và đơn vị dụng lao động
17
34,70
Có thời gian điền dã cơ sở, tham quan mô hình, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và trải nghiệm thực tiễn với cơ sở sử dụng lao động
8
16,30
Tổ chức các hình thức thi kỹ năng nghiệp vụ ngành QLVH cho GV
7
14,30
Tổng cộng
49
100%
Kết quả khảo sát công tác đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn nâng cao trình độ chuyên môn dành cho giảng viên khoa QLVH, cho thấy việc đào tạo bồi dưỡng đã được quan tâm song thời gian điền dã cơ sở, tham quan mô hình, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và trải nghiệm thực tiễn với cơ sở sử dụng lao động còn rất khiên tốn chỉ có 16,3%; tổ chức các hình thức thi kỹ năng nghiệp vụ ngành QLVH cho GV cũng chỉ có 14,3%. Kết quả này sẽ là căn cứ để có giải pháp nâng cao trình độ cho ĐNGV.
Như vậy, để nâng cao trình độ ĐNGV hiện có, cần tạo môi trường cho ĐNGV có điều kiện tham gia các hoạt động như tổ chức hội giảng từ cấp bộ môn trở nên đến việc tham gia các cuộc thi nâng cao tay nghề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ một mặt để chuẩn hóa theo qui định hiện hành, mặt khác nâng cao chất lượng ĐNGV nhằm hoàn thiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn, từng bước nâng cao trình độ, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, vững vàng về tư tưởng chính trị, mẫu mực về phẩm chất, đạo đức, lối sống…là việc làm cần thiết của mỗi nhà trường trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh để phát triển và hội nhập quốc tế.
3.2. Công tác qui hoạch và dự báo
Đánh giá công tác qui hoạch và dự báo ĐNGV ngành QLVH, tác giả dùng thang đo Liker: từ 3 đến 1; 3 = rất thường xuyên, 2 = thường xuyên, 1 = không thường xuyên
Bảng 5. Đánh giá công tác qui hoạch và dự báo đội ngũ giảng viên ngành QLVH
STT
Nội dung và hình thức tổ chức
Mức độ thực hiện %
Thứ bậc
3
2
1
1
Công tác qui hoạch và dự báo được thực hiện bởi nhu cầu của bộ môn/ khoa chuyên môn, được triển khai rộng rãi
dân chủ công khai, 6 tháng/lần
8,2
53,1
38,8
1,69
4
2
Qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi có yêu cầu của tổ chức
24,5
70,4
5,1
2,19
1
3
Qui hoạch và dự báo không theo đinh kỳ, có thể 1 đến 2 năm mới thực hiện 1 lần
6,1
68,4
25,5
1,81
2
4
Công tác qui hoạch và dự báo chỉ triển khai đến lãnh đạo quản lý (từ tổ trưởng bộ môn trở nên) sau đó thống nhất với cấp ủy đảng và thông báo rộng rãi, công khai
10,2
48,0
41,8
1,68
5
5
Chỉ thực hiện qui hoạch ĐNGV theo yêu cầu của tổ chức, không thực hiện dự báo nhu cầu vì những khó khăn chưa tháo gỡ được như biên chế, độ tuổi, chuyên môn sâu…
8,2
60,2
31,6
1,77
3
Kết quả khảo sát ở bảng 5 cho thấy, số người được hỏi đánh giá về công tác qui hoạch và dự báo ĐNGV khoa QLVH: qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi có yêu cầu của tổ chức, đã được triển khai, xếp hạng 1 có điểm trung bình chung cao nhất 2,19; qui hoạch và dự báo không theo đinh kỳ có thể 1 đến 2 năm mới thực hiện 1 lần, xếp hạng 2 có điểm trung bình chung 1,81; chỉ thực hiện qui hoạch ĐNGV theo yêu cầu của tổ chức, không thực hiện dự báo nhu cầu vì những khó khăn chưa tháo gỡ được như biên chế, độ tuổi, chuyên môn sâu, xếp hạng 3 có điểm trung bình chung 1,77; công tác qui hoạch và dự báo được thực hiện bởi nhu cầu của bộ môn/ khoa chuyên môn, được triển khai rộng rãi dân chủ công khai 6 tháng/lần, xếp hạng 4 có điểm trung bình chung 1,69; công tác qui hoạch và dự báo chỉ triển khai đến lãnh đạo quản lý (từ tổ trưởng bộ môn trở nên) sau đó thống nhất với cấp ủy đảng và thông báo rộng rãi, công khai, xếp hạng 5 có điểm trung bình chung 1,68.
Như vậy, công tác qui hoạch và dự báo, chưa được làm thường xuyên, việc triển khai công tác qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi nhà trường có yêu cầu cho nên khoa QLVH chưa chủ động làm công tác qui hoạch cho nên tình trạng giảng viên chưa đạt chuẩn vẫn tồn tại, kéo dài nhiều năm, đến nay rất cần có những giải pháp để giúp giảng viên chuyên ngành hẹp, độ tuổi trên 50 hoàn thành nhiệm vụ. Những GV trẻ cần được bổ sung dự nguồn căn cứ vào: năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, tư cách nghề nghiệp cần được qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ; cần có lộ trình sắp xếp luân phiên cán bộ trẻ được đào tạo nâng cao, sẽ khắc phục được tình trạng một số môn học không có giảng viên thay thế.
3.3. Sắp xếp luân chuyển
Đây là việc khó, nếu không có biện pháp khoa học, giải pháp cụ thể để GV tự nguyện lựa chọn sẽ nảy sinh đến tư tưởng. Xây dựng chiến lược quy hoạch và luân chuyển lâu nay chưa được triển khai một cách kỹ lưỡng và cụ thể nên việc rà soát, bố trí, sắp xếp, luân chuyển ĐNGV cho phù hợp với điều kiện thực tế là không thể làm được dẫn đến một số GV không có việc làm, trong khi nhiều môn học vẫn phải mời GV thỉnh giảng. Sự thay đổi ngành nghề do đào tạo theo nhu cầu xã hội và đổi mới phương pháp là những bất cập trong sắp xếp và luân chuyển nên cần phải có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ khoa quản lý văn hóa, đáp ứng yêu cầu xã hội
Nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ nhà giáo, đáp ứng kịp thời với những đổi mới của mỗi nhà trường về chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo theo yêu cầu xã hội, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường phải thường xuyên chú ý tới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy [6].
Quản lý và phát triển ĐNGV nhằm xây dựng ĐNGV trong tương lai đảm bảo về chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu ngành nghề đào tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực ngành QLVH giai đoạn 2016 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 là trách nhiệm của khoa QLVH-NT tham mưu cho nhà trường, nhằm bổ sung, bố trí, sử dụng hợp lý và trẻ hóa ĐNGV.
4.1. Thực hiện qui hoạch ĐNGV
Đây là công việc làm thường xuyên định kỳ, đảm bảo dân chủ, công khai trên cơ sở sự đồng thuận từ cấp ủy đảng và lãnh đạo nhà trường, khoa chuyên môn các bộ phận chức năng. Qui hoạch ĐNGV cơ hữu trong khoa chưa đạt chuẩn và những GV trẻ (dự nguồn) có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, có tư cách nhà giáo, giỏi nghề cần được tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn, được qui hoạch theo thứ tự ưu tiên theo lộ trình để đào tạo ở trong và ngoài nước, tạo ra những điểm nhấn trong ngành QLVH. Đồng thời đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng GV, biến quá trình đào tạo bồi dưỡng thành tự đào tạo bồi dưỡng. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường giúp đội ngũ nhà giáo có ý thức tự học mọi lúc, mọi nơi, qua hoạt động thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân.
4.2. Tạo môi trường nâng cao năng lực chuyên môn
– Đối với công tác bồi dưỡng GV, căn cứ vào kết quả khảo sát năng lực GV từ đó xác định mục tiêu, nội dung và hình thức, thời gian, địa điểm, giảng viên tham gia bồi dưỡng theo chuyên đề phù hợp. Cần mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn ngắn hạn, có tính chuyên sâu, những chuyên đề mới hấp dẫn do những chuyên gia giàu kinh nghiệm, tâm huyết giỏi nghề thực hiện. Đồng thời căn cứ vào kết quả khảo sát, theo lộ trình cử giảng viên có năng lực chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ được đào tạo chuyên sâu ở trong và ngoài nước về lĩnh vực/ngành nghề mà GV có sở trường năng lực, nhằm phát huy triệt để khả năng của từng GV và tạo được điểm nhấn trong đào tạo ngành QLVH.
– Định kỳ tổ chức hội thi, hội giảng từ cấp bộ môn/khoa/trường và cấp cao hơn để ĐNGV có cơ hội, có điều kiện tham gia, thông qua đó cá nhân GV tự nâng cao được trình độ cho bản thân.
– Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các cơ sở GDĐH có đào tạo ngành QLVH. Xây dựng kế hoạch phối hợp với các nhà tuyển dụng trong nghiên cứu khoa học (NCKH) ứng dụng và chuyển giao công nghệ về lĩnh vực QLVH, thông qua hoạt động NCKH, GV có điều kiện tiếp cận với tư duy khoa học, vận dụng năng lực nghiên cứu vào giảng dạy. Đây là lĩnh vực đặc thù nên việc xây dựng kế hoạch năm học cần có những chỉ tiêu cụ thể để GV có điều kiện tiếp cận và chủ động thực hiện. Các vấn đề về văn hóa gồm: đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, cưới xin, ma chay, lễ hội, tiếp biến văn hóa, sưu tầm văn hóa vật thể, phi vật thể và những hoạt động VHNT khác rất cần được nghiên cứu.
– Hoàn thiện cơ chế quản lý, định mức lao động, NCKH, chính sách ưu đãi nhà giáo phù hợp. Tham mưu ban hành chính sách thu hút, động viên GV có trình độ chuyên môn cao có học hàm, học vị, danh hiệu…về khoa QLVH công tác. Bên cạnh đó chính sách xã hội như chế độ khám chữa bênh, thăm quan nghỉ mát và các khoản thu nhập khác ngoài lương được hưởng theo thu nhập tăng thêm cần được điều chỉnh phù hợp và kịp thời.
4.3. Sắp xếp luân chuyển
Để thực hiện được giải pháp phát triển ĐNGV ngành QLVH cần thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất: đánh giá đúng thực trạng ĐNGV nhà trường, dự báo nhu cầu phát triển ĐNGV, căn cứ vào nhiệm vụ đào tạo, qui mô phát triển nhà trường, nhu cầu đào tạo nhân lực của ngành QLVH để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho phù hợp với từng cơ sở GDĐH;
Thứ hai: dân chủ hóa trong xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển ĐNGV. Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp quản lý, xác định nhu cầu, hình thức đào tạo bồi dưỡng ĐNGV phù hợp và khả thi;
Thứ ba: nhà trường phải có hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực GV, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ĐNGV.
5. Kết luận
Ngành QLVH thuộc nhóm khoa học xã hội với sự liên kết liên ngành, ngoài phần kiến thức đại cương theo qui định chung, thì cơ sở ngành, kiến thức ngành và chuyên ngành được thiết kế một cách hợp lý, một số chuyên ngành thuộc nhóm nghệ thuật có tính đặc thù như: âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, múa, tổ chức sự kiện…rất cần được quan tâm, là yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý và qui hoạch ĐNGV. Đào tạo cử nhân ngành QLVH đáp ứng nhu cầu xã hội thì cần có một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ, có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. ĐNGV quyết định chất lượng và thương hiệu của một nhà trường do đó cần phải đầu tư để đạt chuẩn về trình độ. Mặt khác đối với GV ngành QLVH, ngoài năng lực kinh nghiệm giảng dạy như những giảng viên khác, thì rất cần những giảng viên/nhà giáo tâm huyết yêu nghề, có trình độ chuyên môn sâu và thành thạo kỹ năng kỹ xảo, những tố chất hoạt động VHNT. Là những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng ĐNGV. Tuy nhiên, cần phải biết khai thác ĐNGV sao cho họ tự nguyện phát huy sở trường, năng lực, kinh nghiệm, “xả thân vì sự nghiệp” điều này sẽ phụ thuộc vào năng lực quản lý, lãnh đạo của nhà trường, nghệ thuật dùng người của người lãnh đạo và cơ chế, chính sách của nhà nước. Quản lý tốt ĐNGV sẽ làm cho chương trình đào tạo được vận hành một cách thông suốt, chất lượng giáo trình, bài giảng sẽ được nâng cao, phương pháp giảng dạy sẽ được đổi mới và trang thiết bị phục vụ giảng dạy sẽ được khai thác một cách hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
1. Từ điển Giáo dục học (2001), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
2. Từ điển bách khoa Việt Nam (2010), Nxb Khoa học. Hà Nội
3. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2014), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Văn Tú, Phạm Bích Huyền (2009), Về ngành Quản lý văn hóa, tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 297 tháng 03-2009, Hà Nội.
5. http://vi.Wikipedia.org/wiki/
6. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003) Lý luận đại cương về quản lý, Đại học sư phạm, Trường cán bộ và quản lý GD & ĐT, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Điều lệ trường đại học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Chương trình khung đào tạo (2014), Ban hành kèm theo Quyết định số 232/QĐ-ĐHVH HCM ngày 14/4 /2014 của Hiệu trưởng, Trường Đại học Văn hóa, Tp Hồ Chí Minh.
9. Bành Tiến Long (2007), Đào tạo theo nhu cầu xã hội ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp, Tạp chí khoa học giáo dục, số 17 tháng 02, Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
10. Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Nhiều tác giả (2014), Đổi mới công tác đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo, Đại học Văn hóa, Tp Hồ Chí Minh.
Các Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giáo Viên Tiểu Học Ở Quận 5 Tp Hồ Chí Minh Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Giáo Dục
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THANH HẢI
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Ở QUẬN 5 – TP HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ
: 06.14.05
Người hướng dẫn khoa học : chúng tôi Trần Hữu Cát
Vinh, 2011
2
MỞ ĐẦU 1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”; và yêu cầu về nội dung “Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật”để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. (Luật Giáo dục 2005). Nhằm cụ thể mục tiêu tổng quát của giáo dục tiểu học đã được ghi trong Luật Giáo dục và phù hợp với bối cảnh mới, Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục 2008-2020 đã xác định các mục tiêu cụ thể của giáo dục tiểu học : a) Về quy mô : “Đến năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học và trung học cơ sở” b) Về chất lượng : “Đối với giáo dục tiểu học : năng lực đọc hiểu và làm toán của học sinh được nâng cao rõ rệt, tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu trong cách đánh giá quốc gia về đọc hiểu và tính toán là 90% vào năm 2020. Tất cả học sinh tiểu học được học 2 buổi ngày vào năm 2020. Học sinh tiểu học được học chương trình tiếng Anh mới từ lớp 3 và 70% số này đạt mức độ 1 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế vào năm 2020″. Dự thảo Chiến lược giáo dục cũng đã đưa ra một hệ thống giải pháp, trong đó hai giải pháp: Đổi mới quản lý giáo dục và phát triển đội ngũ nhà giáo được xác định là những giải pháp mang tính đột phá nhằm phát triển giáo dục của nước ta hiện tại và tương lai.
3
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học có ý nghĩa quan trọng, là bậc học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Đội ngũ giáo viên Tiểu học phải hội tụ được một cách đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, trình độ sư phạm, trình độ chuyên môn….để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung. Chính vì vậy, giáo viên là lực lượng rất quan trọng trong các trường học. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đội ngũ giáo viên cần phải đáp ứng được những yêu cầu cao về phẩm chất và năng lực chuyên môn sư phạm. Do đó chúng ta cần phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc để xây dựng được một hệ thống lí luận, tập hợp được các kinh nghiệm nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ngày càng tốt hơn. Thực tiễn trong những năm gần đây giáo dục Tiểu học Quận 5 đã đạt được một số những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhất là việc mở rộng quy mô giáo dục và tất cả học sinh được học 2 buổi/ 1 ngày. Tuy đáp ứng được yêu cầu về số lượng và bước đầu đã có sự tiến bộ về chất lượng nhưng trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kì đổi mới, trước yêu cầu của việc thay SGK và đổi mới trong phương pháp giảng dạy thì vấn đề trên vẫn còn có những hạn chế như: – Cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa hợp lý và chất lượng còn thấp. Khó khăn hiện nay là giáo viên chưa mạnh dạn tự linh động điều chỉnh chương trình dạy như chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo tình hình thực tế của địa phương.
4
– Thiết bị dạy học cung cấp tối thiểu đầy đủ nhưng chất lượng còn hạn chế. Một số giáo viên sử dụng ƯDCNTT chưa thuần thục và sĩ số học sinh còn đông ảnh hưởng không tốt đến việc đổi mới phương pháp dạy học. – Việc xây dựng hệ thống các trường chuẩn còn rất chậm, chưa đồng đều, đặc biệt một số trường chưa đủ về diện tích đất, sân chơi, bãi tập, phòng chức năng theo quy định chung. – Đội ngũ cán bộ quản lý cấp trường còn hạn chế vì thiếu sự năng động sáng tạo, chưa cập nhật kịp thời những yêu cầu đổi mới giáo dục tiểu học và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Để góp phần giải quyết từng bước những bất cập trên, đồng thời để tạo cơ sở khoa học cho quận xây dựng Chương trình phát triển giáo dục tiểu học đến năm 2015, hoạch định chính sách phát triển giáo dục phù hợp với thực tiễn, tôi đã lựa chọn đề tài : “Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học Quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục. Giáo dục là một lĩnh vực nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Những vấn đề nghiên cứu và xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển giáo dục đã có nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý giáo dục trong và ngoài nước nghiên cứu. Đã có những công trình nghiên cứu về hệ thống lý luận dự báo kinh tế – xã hội nói chung và ứng dụng chúng trong dự báo giáo dục làm cơ sở cho cán bộ quản lý giáo dục cách nhìn nhận vấn đề một cách có cơ sở khoa học. Nhưng mỗi địa phương lại có điều kiện về mặt địa lý tự nhiên, và những đặc điểm về mặt kinh tế – xã hội khác nhau, do đó việc dự báo và xác định mục tiêu, giải pháp phát triển giáo dục cũng có những sắc thái riêng, những đặc điểm riêng. Vấn đề nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển giáo dục tiểu học của Quận 5 có ý nghĩa quan trọng và làm tiền đề cho việc xây dựng kế hoạch,
5
chương trình phát triển giáo dục tiểu học đến năm 2015 và cũng chưa trùng với bất cứ công trình nghiên cứu nào. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề xuất một hệ thống giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học Quận 5 – thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay có căn cứ khoa học và thực tiễn. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu Đội ngũ giáo viên Tiểu học thuộc Q5 – TP. Hồ Chí Minh. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học của Quận 5 Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Đội ngũ giáo viên Tiểu học Quận 5 – Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển một cách hài hoà trên cả 3 phương diện cơ bản: quy mô, cơ cấu và chất lượng, nếu có một giải pháp đồng bộ, phù hợp với điều kiện thực tế của các trường trong Quận. 5.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU – Hệ thống hoá cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học dựa trên cách tiếp cận quản lí giáo dục. – Thu thập các số liệu thống kê, các báo cáo hàng năm và phân tích đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học Quận 5 – Thành Phố Hồ Chí Minh. – Đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học tại Quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6
7
+ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ + DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO + PHỤ LỤC
8
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu: Bước sang thế kỷ 21,với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức, sự nghiệp giáo dục-đào tạo và khoa học- công nghệ có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Việc đào tạo nguồn nhân lực giàu khả năng chủ động, sáng tạo nắm bắt được công nghệ mới, nhất là công nghệ cao đang là một vấn đề mà tất cả các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Đất nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa, với mục tiêu đến năm 2020, cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế- xã hội và dẫn đến sự thay đổi nguồn nhân lực. Vì vậy, sự nghiệp giáo dục- đào tạo của nước ta phải thay đổi, phải vươn lên trong việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước và bắt nhịp được với sự phát triển của khu vực và thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó, giáo dục và đào tạo phải cải cách, đổi mới toàn diện: mục tiêu, nội dung, chương trình, sách giáo khoa, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục, đổi mới công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, đổi mới quản lý giáo dục, v.v…, nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục-đào tạo theo yêu cầu mới của kinh tế- xã hội của đất nước.
9
10
11
b/ Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; c/ Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; d/ Lý lịch bản thân rõ ràng. “( 14 )” – Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998) định nghĩa: “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng” ( 28 ) Các khái niệm về đội ngũ dùng cho các tổ chức xã hội như đội ngũ trí thức, đội ngũ nhà văn, đội ngũ nhà giáo, đội ngũ công chức nhà nước, … , . Các khái niệm tuy khác nhau nhưng đều phản ánh một điều, đó là tập hợp người được tổ chức thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể có cùng nghề nghiệp hoặc không cùng nghề nghiệp, nhưng cùng có một mục đích nhất định. Vậy đội ngũ giáo viên được hiểu là một tập hợp số đông người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Đội ngũ giáo viên mạnh hay yếu tùy thuộc vào chất lượng, vào quy mô số lượng, cơ cấu ( bộ môn, tuổi đời, tuổi nghề, giới tính, …) và sự đồng bộ, đồng đều về phẩm chất tư tưởng đạo đức, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của mỗi giáo viên. 1.2.2. Khái niệm phát triển và phát triển đội ngũ giáo viên. – Cũng theo từ điển tiếng Việt ( Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1998) thì khái niệm phát triển được định nghĩa như sau: ” Phát triển: biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” ( 28 )
12
Theo hướng tiếp cận này, phát triển là sự gia tăng về số lượng và sự biến đổi về chất lượng vận động theo hướng đi lên, hướng tích cực trong mối quan hệ bổ sung cho nhau tạo nên giá trị mới trong một thể thống nhất, trong thể ổn định và bền vững. Phát triển bao giờ cũng xuất phát từ thực tế. Phát triển từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh, bao hàm trong đó có một số giai đoạn phát triển có cả đường cong, đường dích dắc, vừa liên tục vừa đứt đoạn, vừa có tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Đó là một quá trình tích lũy và chuyển hóa không ngừng giữa lượng và chất, thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập theo con đường phủ định của phủ định. Nó bao hàm cả những bước tiệm tiến và nhảy vọt. – Phát triển đội ngũ giáo viên có thể hiểu là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của đội ngũ giáo viên trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô, số lượng và chất lượng giáo viên, và cơ cấu của đội ngũ giáo viên. Đó là sự tiến bộ về nhận thức, tư tưởng, trình độ chuyên môn – nghiệp vụ, khả năng chuyên môn đạt đến chuẩn và trên chuẩn của yêu cầu, các tiêu chuẩn và tiêu chí dành cho các giáo viên các cấp học, bậc học. Trong đó chú trọng đến sự phát triển bền vững. Theo định nghĩa của hội đồng thế giới về phát triển bền vững ( WCDE): ” Sự phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các yêu cầu hiện tại và có khả năng thích ứng với yêu cầu của thế hệ kế tiếp sau”. Vậy, phát triển đội ngũ giáo viên cũng có nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sắp xếp bố trí giáo viên có phẩm chất chính trị và đạo đức, làm cho đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng chuẩn hóa về trình độ đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo của nhà trường.
13
1.2.3. Giải pháp và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên. – Khái niệm giải pháp. Theo từ điển tiếng Việt, định nghĩa khái niệm giải pháp như sau: ” Giải pháp là cách thức giải quyết một vấn đề, một công việc cụ thể nào đó để đạt một mục tiêu cụ thể” ( 28 ) Như vậy, nói đến giải pháp là nói đến cách thức, con đường tác động nhằm làm thay đổi, chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái, một công việc nhất định, …để đạt đến mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu, càng giúp con người nhanh chóng giải pháp thành công những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên để có được những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy. – Giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên là những cách thức tác động hướng vào việc tạo ra những biến đổi tích cực về số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học của giáo dục nhà trường, ( theo hướng đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chuyên môn – nghiệp vụ.). Giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên phải được xem xét cụ thể ở từng địa phương, từng đơn vị nhà trường hoặc cơ sở giáo dục cụ thể sao cho phù hợp với nhiệm vụ, chức năng và mục đích phát triển của đơn vị đó. 1.3. Trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân 1.3.1- Vị trí và vai trò của trường tiểu học. Trong hệ thống giáo dục quốc dân bậc tiểu học được xếp vào giáo dục phổ thông ( gồm có bậc tiểu học và bậc trung học có hai cấp học: cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông) (xem sơ đồ 1.1). Luật giáo dục qui
14
định giáo dục Tiểu học được thực hiện trong năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp 1 là sáu tuổi. Giáo dục tiểu học có một số đặc điểm sau: – Giáo dục tiểu học là một nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng, phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên của phổ thông có nhiệm vụ phải xây dựng nền móng cho hệ thống giáo dục phổ thông. Một đứa trẻ chỉ tiến bộ trong cấp học tiếp theo nếu đạt được kết quả tốt ở bậc Tiểu học. – Giáo dục Tiểu học là bậc học phổ cập và phát triển, tạo điều kiện để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tính phổ cập yêu cầu trẻ em phải học xong bậc Tiểu học và đạt yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, bậc học Tiểu học cũng tạo ra những điều kiện để trẻ em tiếp tục phát triển, có khả năng học tập suốt đời để trở thành những con người có trí tuệ phát triển, có tình cảm đẹp, có ý chí cao. Tính phổ cập của giáo dục Tiểu học thể hiện ở tính đồng loạt và tính cá thể. Tính đồng loạt là yêu cầu mọi trẻ em đến 11 tuổi, thậm chí đến 14 tuổi phải đạt trình độ học vấn Tiểu học. Tính cá thể ở chỗ đối với những trẻ em có khả năng và điều kiện học tập thì có thể học cao hơn không hạn chế. – Ở bậc Tiểu học chủ yếu dạy học sinh ” Cách học”, ” Cách sống” để tiến tới các em có kỹ năng học tập và kỹ năng sống. Ở các lớp đầu của bậc Tiểu học, học sinh chủ yếu là học “Cách sống”, ” Cách học”. Còn ở các lớp cuối bậc Tiểu học, thì ” Cách học”, ” Cách sống” được hoàn thiện thành kỹ năng để các em chiếm lĩnh tri thức khoa học ở mức độ cao hơn, chủ động hơn.
15
– Nội dung dạy học ở bậc Tiểu học, vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại, bao gồm những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống và thẩm mỹ. Giáo dục phổ thông Giáo dục Mầm non
THCS
THPT
Giáo dục đại học
THCN
Sơ đồ 1.1 Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam 1.3.2. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học được xác định tại điều 27- Luật giáo dục như sau: ” Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học THCS” ( 14 ). Từ mục tiêu này, HS học xong bậc Tiểu học phải đạt được những yêu cầu sau: – Có lòng nhân ái, mang bản sắc con người Việt Nam: Yêu quê hương, đất nước, hòa bình và công bằng, bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết và sẵn sàng hợp tác với mọi người; có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, bạn bè, cộng đồng, môi trường sống; tôn trọng và thực hiện đúng
16
pháp luật, các qui định của nhà trường, khu dân cư, nơi công cộng, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực. – Có kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội con người và thẩm mỹ, có khả năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán, có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật. – Biết cách học tập, biết tự phục vụ, biết sử dụng một số đồ dùng trong gia đình và công cụ lao động bình thường; biết vận dụng và làm một số việc như chăn nuôi, trồng trọt, giúp đỡ gia đình, … 1.3.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường Tiểu học. Tại điều lệ trường Tiểu học, xác định nhiệm vụ và quyền hạn của trường Tiểu học như sau: – Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo mục tiêu, chương trình giáo dục Tiểu học do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT ban hành – Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi ( Tuổi của HS Tiểu học từ 6 đến 14 tuổi), vận động trẻ em tàn tật, khuyết tật, trẻ em đã bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục và chống mù chữ trong cộng đồng. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công nhận hoàn thành chương trình Tiểu học của HS trong nhà trường và trẻ em thuộc địa bàn quản lý của nhà trường. – Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh. – Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật
17
– Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện hoạt động giáo dục. – Tổ chức cho CBQL, GV, nhân viên và HS tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng. – Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. 1.4. Một số vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học. 1.4.1. Các quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên. Có nhiều quan điểm khác nhau về xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên. Song có thể tổng hợp làm ba quan điểm nhiều người đề cập: – Quan điểm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên lấy người giáo viên làm trung tâm. Đây là quan điểm được nhiều tác giả đề cập và đề cao vai trò của giáo viên trong quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ. Giáo viên là trung tâm, là đối tượng cần đặc biệt chú ý và quan tâm. Tất cả mọi hoạt động khác đều tập trung vào mục đích tăng cường năng lực của các cá nhân giáo viên trên cơ sở đáp ứng nhu cầu và khuyến khích sự phát triển của họ như những chuyên gia. – Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên trên cơ sở kết hợp giữa cá nhân giáo viên với mục tiêu của nhà trường. Đây là quan điểm có sự kết hợp giữa nhu cầu cá nhân ( giáo viên) với nhu cầu tổ chức ( nhà trường) trong sự phát triển đội ngũ giáo viên, nhằm đảm bảo cho nhà trường ổn định và phát triển bền vững. Quan điểm này đánh giá vai trò của GV và nhà trường ngang nhau. Đó là sự hợp tác, sự cộng đồng trách nhiệm, vì thế công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên sẽ đạt hiệu quả.
18
– Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên phải là sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, tạo dựng nên đội ngũ các nhà giáo vững mạnh, ổn định, bền vững. Phát triển đội ngũ giáo viên là một quá trình liên tục, nhằm hoàn thiện, thậm chí “Cách mạng hóa tình hình” tạo nên tổ chức (nhà trường) phát triển cùng nhịp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, (của địa phương). 1.4.2. Vị trí, vai trò và chức năng của đội ngũ giáo viên Tiểu học. – Vị trí. Từ xưa tới nay, ông cha ta, nhân dân ta, Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn vinh nghề dạy học và vị trí cao cả của người thầy giáo. Đội ngũ giáo viên là nòng cốt của sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Giáo viên là người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa, truyền thụ cho học sinh lý tưởng, đạo đức cách mạng, bồi đắp cho học sinh nhân cách văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, dạy cho các em tri thức khoa học và kỹ năng cuộc sống và nghề nghiệp. Ở tầm vĩ mô, đội ngũ giáo viên nói chung, đội ngũ giáo viên tiểu học nói riêng góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, đã hơn 60 năm qua, đội ngũ giáo viên đã có mặt khắp trên mọi miền của Tổ quốc, không quản khó khăn gian khổ, vượt qua mọi thử thách, cống hiến tài năng, tâm trí cho sự nghiệp trồng người, cho thế hệ trẻ trưởng thành và trở thành chủ nhân xây dựng, bảo vệ đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
19
-Vai trò. Trong nhà trường giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục – đào tạo, là người trực tiếp tổ chức quá trình dạy học trên lớp và quá trình giáo dục theo nội dung, chương trình của Bộ GD-ĐT với phương pháp sư phạm nhằm đạt mục tiêu giáo dục của cấp học, bậc học, của nhà trường. Về vai trò của người thầy giáo, Bác Hồ đã khẳng định: ” Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục.” ( …) Trong thế kỷ mới, như đã nhận định: ” Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta đã nêu rõ: Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế – xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, giáo dục – đào tạo đang đứng trước những thách thức lớn của thời đại: Giáo dục phải mang tính toàn cầu, quốc tế hóa nhằm đạt tới những chuẩn mực chung về đào tạo nguồn nhân lực, xã hội học tập phải trở thành triết lý giáo dục. Xu thế đổi mới giáo dục – đào tạo đang đặt ra những yêu cầu cao mới đối với người giáo viên và đội ngũ giáo viên. Trong bối cảnh biến đổi nhanh chóng về khoa học – công nghệ, kinh tế – xã hội, cũng đang tạo ra sự chuyển dịch nhanh định hướng giá trị. Giáo viên không chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức, mà còn phải phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi của học sinh, đảm bảo người học làm chủ được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó. Người giáo viên phải quan tâm phát triển ở
20
người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần thẩm mỹ tạo nên bản sắc tồn tại của loài người, vừa kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị mới thích ứng với thời đại mới. Giáo dục phải được chuyển biến về nhiều mặt: mục tiêu, chương trình, nội dung, CSVC, tài chính ngân sách, quản lý giáo dục, …. Vấn đề phương pháp dạy học phải được coi trọng đổi mới. Ngày nay phương pháp dạy học đang chuyển biến từ kiểu dạy học tập trung vào vai trò của giáo viên, sang dạy học tập trung vào vai trò học sinh và hoạt động dạy học từ kiểu thông báo – đồng loạt, sang kiểu dạy học hoạt động – phân hóa. Giáo viên không còn đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mỡ, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động nhận thức tìm tòi, tranh luận của HS. Giáo viên giỏi là người biết giúp học sinh tiến bộ nhanh trên con đường học tập tự lực, biết kết hợp thành công việc giảng dạy tri thức với giáo dục giá trị và phát triển tư duy học sinh. Vì vậy trước yêu cầu mới của thời đại, người giáo viên phải có ý thức, có nhu cầu và có tiềm năng không ngừng tự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong hoạt động sư phạm, biết phối hợp nhịp nhàng với tập thể nhà trường trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục – đào tạo. Người giáo viên không chỉ tiếp thu sự đào tạo, mà cái quan trọng, quyết định sự thành đạt là sự tự học, tự đào tạo, học và học suốt đời. – Chức năng. Trong nhà trường xã hội chủ nghĩa, người giáo viên tiểu học có những chức năng sau đây: a/ Chức năng của một nhà sư phạm.
Hiện Đại Hóa Ngành Điện Tp Hồ Chí Minh
Tổng Công ty Điện Lực Thành phố Hồ Chí Minh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc chăm sóc khách hàng. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN
EVN HCMC cũng xác định mục tiêu phát triển mọi nguồn lực, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm nâng cao năng lực kinh doanh, thương hiệu và sức cạnh tranh của ngành điện.
Kiến tạo nguồn lực
Trong những năm gần đây, ngành điện thành phố đã triển khai nhiều giải pháp đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đạt hơn 71.000 lượt/năm; đảm bảo số giờ bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho người lao động tối thiểu là 40 giờ/năm. Nội dung đào tạo tập trung nâng cao năng lực quản lý điều hành cấp 2, 3, 4; đào tạo đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như: Smart grid, hệ thống thông tin địa lý (GIS), AMI, thị trường điện, quản lý dự án đầu tư xây dựng; đào tạo lực lượng công nhân lành nghề, thi công sửa chữa lưới điện đang mang điện (live line)…
Theo ông Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Ban Tổ chức và nhân sự EVN HCMC, hoạt động đào tạo còn hướng đến vào cập nhật kiến thức mới, ứng dụng công nghệ mới cho lực lượng kỹ sư điện, công nhân kỹ thuật; trong đó, có giải pháp liên kết hợp tác với các trường đại học, cao đẳng tổ chức các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn ở các lĩnh vực chuyên môn cho người lao động và cán bộ trong quy hoạch.
Điển hình như, liên kết với các trường Đại học Kinh tế, Bách Khoa, Tôn Đức Thắng, Công nghệ (HUTECH) đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ quản trị kinh doanh, tài chính, kỹ sư hệ thống điện, kỹ thuật điện kỹ sư bảo hộ lao động an toàn. EVN HCMC còn kết hợp với trường Cao đẳng Điện lực, Lý Tự Trọng đào tạo ngắn hạn lớp thi công cáp ngầm 110kV, đào tạo liên thông đại học; xây dựng được đội ngũ giảng viên nội bộ, có khả năng lực làm việc độc lập, sáng tạo, kỹ năng thực hành cao; làm nòng cốt trong truyền đạt kinh nghiệm, bồi dưỡng sát hạch nghề hàng năm…
“Thống kê đến đầu năm 2020, EVN HCMC đã có 104 kỹ sư được Liên đoàn kỹ sư Đông Nam Á công nhận đạt chuẩn kỹ sư ASEAN; 66 chuyên gia thuộc các nhóm lĩnh vực lưới điện thông minh; trên 300 kỹ sư, công nhân lành nghề trong các lĩnh vực bảo trì sửa chữa live line, GIS, thi công cáp ngầm trung thế, công nghệ thông tin, lưới điện thông minh (SCADA), vận hành và xử lý sự cố cáp quang… Đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân chất lượng cao của EVN HCMC trong giai đoạn mới đã góp phần không nhỏ vào việc tái cơ cấu mô hình tổ chức, ứng dụng phát triển công nghệ thông tin, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động”, ông Hưng chia sẻ.
Đại diện người lao động, ông Nguyễn Văn Minh, Chủ tịch Công đoàn EVN HCMC cho biết thêm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ thông qua bồi huấn mà còn được thực hiện từ khâu tuyển dụng đầu vào, phát triển, bố trí công việc; hoạt động thi đua khen thưởng, động viên, chế độ lương, đề bạt, bổ nhiệm… Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn đặt trọng tâm huy động, phát triển mọi nguồn lực, đặc biệt tập trung cho nguồn nhân lực chất lượng cao, từng bước nâng cao uy tín, thương hiệu và năng lực cạnh tranh của công ty.
Quản lý, vận hành lưới điện bằng công nghệ thông tin tại Trung tâm điều độ hệ thống điện Thành phố. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN
“Hàng năm, Công đoàn ngành phối hợp cùng Ban Tổ chức và nhân sự, lãnh đạo các ban chuyên môn tham gia bồi huấn, rèn luyện tay nghề, cập nhật chuyên môn kỹ thuật cho đội ngũ kỹ sư, công nhân trực tiếp sản xuất kinh doanh; có kế họach tổ chức nghỉ điều dưỡng cho người lao động trong môi trường năng nhọc, độc hại, nguy hiểm để tái tạo sức lao động…”, ông Minh chia sẻ.
Gần đây, EVN HCMC còn tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo thông qua việc cử người tham gia các chương trình đào tạo theo các gói thầu mua sắm; tham gia các chương trình học tập, trao đổi kinh nghiệm ngắn hạn hướng đến xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp hoạch định chiến lược của Tổng công ty.
Ngoài ra, EVN HCMC còn cử nhiều cán bộ, kỹ sư, chuyên gia tham gia các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ các Công ty Điện lực thuộc khối ASEAN, HAPUA, tham gia các Hội nghị quốc tế chuyên ngành như IEEE, ICA-SEA, ASEAN weeks…
Phát triển bền vững
Bước đầu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật từ cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư cùng với chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngành điện thành phố đã triển khai thành công 19 loại hình dịch vụ điện tử; nâng cao tỷ lệ giải quyết trực tuyến, điểm hài lòng; đảm bảo khách hàng dễ tiếp cận, dễ tham gia dịch vụ, dễ giám sát quy trình thực hiện…
Công nhân EVN HCMC tập huấn thi công trên lưới điện trung thế. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN
Đặc biệt, hoàn thành việc thanh toán tiền điện bằng hình thức điện tử thông qua 23 ngân hàng, 9 đối tác thu hộ; khách hàng có thể đăng ký, yêu cầu các dịch vụ cấp điện mới, tăng cường công suất, thay đổi vị trí đo đếm, thông báo sự cố, tư vấn sử dụng điện an toàn tiết kiệm… thông qua ứng dụng công nghệ tại 9 kênh dịch vụ.
Ông Phạm Quốc Bảo, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN HCMC cho biết, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn giúp đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân ứng dụng, khai thác hiệu quả các công nghệ mới, hiện đại đang được triển khai tại EVN; tăng cường hiệu quả hoạt động, đảm bảo cung cấp điện với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân sau khi được bồi huấn trở thành lực lượng nòng cốt, thúc đẩy ngành điện phát huy sức mạnh nội lực, năng lực quản lý; có thể đảm đương các công việc phức tạp, đòi hỏi trình độ cao về khoa học công nghệ, mà trước đây hoàn toàn phụ thuộc chuyên gia nước ngoài.
“Đặc biệt, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các chuyên gia có vai trò rất lớn trong việc “kéo” mặt bằng chung về trình độ chuyên môn, kỹ thuật của đội ngũ người lao động đi lên… giảm dần sự phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, tạo dựng đội ngũ công nhân giỏi nghề”, ông Phạm Quốc Bảo khẳng định.
Từ kết quả này, EVN HCMC tiếp tục xác định mục tiêu trọng tâm không ngừng đổi mới sáng tạo, tăng cường chất lượng dịch vụ, nâng cao năng suất lao động và hoàn thiện năng lực quản trị doanh nghiệp để đạt mức phát triển ngang tầm với các công ty điện lực hàng đầu của các nước tiên tiến trong khu vực.
Mới đây, Đại hội Đảng bộ EVN HCMC nhiệm kỳ 2020 – 2025 cũng xác định “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” là một trong 9 chương trình trọng điểm để thực hiện thắng lợi các chương trình “Xây dựng lưới điện thông minh”, “Ngầm hóa lưới điện kết hợp ngầm hóa dây thông tin”, “Phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4″… là then chốt để doanh nghiệp hướng đến phát triển bền vững.
Ông Phạm Quốc Bảo cho rằng, những năm tới, việc hợp tác phát triển giữa Việt Nam với các nước trên thế giới tiếp tục tăng, nhất là khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ diễn biến nhanh, sâu rộng, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho sự phát triển của thành phố và cả ngành điện.
“Vì thế, ngành điện cần tập trung tận dụng thời cơ, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn hiện nay”, ông Phạm Quốc Bảo nhấn mạnh.
Lộ trình từ nay đến năm 2025, EVN HCMC tập trung thực hiện các nhóm giải pháp đổi mới, chuyên sâu hóa đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, năng lực quản lý điều hành; đẩy mạnh xây dựng đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực trọng điểm, công nhân lành nghề, sửa chữa lưới điện live line, kỹ sư ASEAN… có chuyên môn cao, đủ năng lực nắm bắt công nghệ mới, có kỹ năng phân tích, giải quyết các tình huống phức tạp trong khoa học công nghệ, hướng thay thế dần các chuyên gia, tư vấn nước ngoài.
Song song đó, EVN HCMC sẽ tập trung thực hiện nhóm giải pháp tăng năng suất lao động, bố trí, sử dụng lao động hiệu quả; hoàn thiện hệ thống định mức, định biên lao động; rà soát, cải thiện các quy trình làm việc, cơ cấu nhân sự; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh cho từng loại công việc, đánh giá mức độ hoàn thành công việc…
Với nỗ lực của mình, EVN HCMC tập trung phát huy sức mạnh của từng thành viên, năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị phấn đấu hoàn thành mục tiêu đã đề ra; trong đó, đặt trọng tâm huy động, phát triển mọi nguồn lực, xây dựng và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh hướng đến xây dựng thành phố thành văn minh, hiện đại.
Phát Triển Giáo Dục Nghề Nghiệp Đáp Ứng Nhu Cầu Thị Trường Lao Động
Thực trạng giáo dục nghề nghiệp hiện nay
Giáo dục nghề nghiệp không chỉ bảo đảm nguồn nhân lực lao động kỹ thuật cho nền kinh tế mà còn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và thực hiện chính sách công bằng trong dạy nghề. Do đó, việc gắn giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu thị trường lao động là giải pháp hữu hiệu để phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh mới.
Thời gian qua, sự gắn kết giữa giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và việc làm bền vững đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp đang bắt đầu hình thành, vận hành tốt trong thực tiễn. Các địa phương đã quan tâm hơn đến hoạt động gắn kết với doanh nghiệp. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã chủ động hơn, thuận lợi hơn khi tìm đến doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã tích cực hơn trong việc tiếp cận, tìm đến các nhà trường.
Tính trung bình, năm 2018 tỷ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng, trung cấp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt khoảng 85%, trong đó tỷ lệ sinh viên cao đẳng ra trường có việc làm đạt 87%, trung cấp đạt 82%. Khả năng có việc làm, thu nhập ổn định của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường cao đẳng, trung cấp, dạy nghề đã góp phần định hướng, thay đổi dần nhận thức của xã hội về vai trò của giáo dục nghề nghiệp.
Tuy nhiên, vấn đề kết nối cung – cầu trong đào tạo nghề hiện nay vẫn còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tỷ lệ doanh nghiệp có hợp tác với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn ở mức khiêm tốn và chưa có nhiều đột phá. Tính đến hết năm 2018, cả nước có 1.948 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (397 trường cao đẳng, 519 trường trung cấp, 1.032 trung tâm giáo dục nghề nghiệp). Trong số này, chỉ có 46 trường cao đẳng, 84 trường trung cấp, 181 trung tâm giáo dục nghề nghiệp thuộc doanh nghiệp.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trách nhiệm của người sử dụng lao động về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động chưa được thực hiện tốt. Khung pháp lý về trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp chưa được áp dụng trong thực tiễn; thiếu các chế tài trong tuyển dụng, sử dụng lao động qua đào tạo của doanh nghiệp. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa thiết lập được quan hệ với doanh nghiệp để tạo sự chủ động trong cung cầu lao động qua đào tạo nghề nghiệp. Nhiều doanh nghiệp còn chỉ muốn tuyển lao động phổ thông, không qua đào tạo nghề nghiệp…
Do đó, cần có các giải pháp tháo gỡ để công tác giáo dục nghề nghiệp có thể song hành cùng doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tạo việc làm cho người lao động.
Phát triển giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động
Để khắc phục những tồn tại, đẩy mạnh việc phát triển giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác thống kê; thiết lập hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp với dự báo về thị trường lao động, việc làm. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý giáo dục nghề nghiệp, việc làm, thị trường lao động từ trung ương đến địa phương; phối hợp chặt chẽ giữa tuyển sinh, đào tạo và sử dụng sau đào tạo để tránh học sinh ra trường không có việc làm.
Hai là, tiếp tục triển khai cơ chế 3 bên: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp thông qua chương trình hợp tác giữa Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; hợp tác với các hiệp hội doanh nghiệp, tập đoàn, doanh nghiệp lớn, có sử dụng nhiều nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt là những lĩnh vực thiếu nhân lực (công nghệ thông tin, du lịch…); triển khai thí điểm một số mô hình gắn kết thông qua cơ chế này.
Ba là, đổi mới quản lý nhà nước để khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo giáo dục nghề nghiệp. Nhà nước tạo cơ chế khuyến khích và quy định mức độ doanh nghiệp phải tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp; đưa ra một số giải pháp thúc đẩy sự gắn kết bền vững giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; đổi mới và tăng cường công tác quản lý nhà nước để định hướng, khuyến khích và hỗ trợ sự gắn kết bền vững giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp.
Bốn là, tăng quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chủ động về quy mô đào tạo, hình thức tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, thu chi nguồn tài chính. Khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động tiếp cận và tìm đến các doanh nghiệp trên địa bàn để đề xuất và ký kết các chương trình hợp tác (hợp đồng liên kết đào tạo, hợp đồng đặt hàng đào tạo hoặc các thỏa thuận hợp tác khác…); xây dựng mạng lưới doanh nghiệp đối tác đào tạo và tuyển dụng thường xuyên.
Năm là, cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần tham khảo nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp để xây dựng chương trình giảng dạy phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, của từng giai đoạn phát triển, đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, thực hiện phương châm đào tạo những gì xã hội cần, không phải đào tạo những gì nhà trường có. Chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp, giáo trình, tài liệu, cách kết nối của cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải thay đổi phù hợp với thực tế sản xuất của doanh nghiệp.
Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!