Xem Nhiều 3/2023 #️ Giải Pháp Quản Lý Giáo Dục Đại Học Tại Việt Nam # Top 3 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Giải Pháp Quản Lý Giáo Dục Đại Học Tại Việt Nam # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Pháp Quản Lý Giáo Dục Đại Học Tại Việt Nam mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Giáo dục đào tạo những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng còn không ít bất cập, hạn chế. Một trong những nguyên nhân là “việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ”. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra với giáo dục (GD) và đào tạo (ÐT) nói chung, giáo dục đại học (GDÐH) nói riêng cần “đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất” đòi hỏi toàn ngành GD & ÐT cần có những đổi mới phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Bài viết phân tích những hạn chế và đặt ra một số giải pháp trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam.

Từ khóa: Quản lý Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cơ sở Giáo dục đại học.

1. Đặt vấn đề

Sau hơn 30 năm đất nước đổi mới, GDÐH đã có những đóng góp quan trọng trong đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, vấn đề quản lý GDÐH còn yếu kém là một trong những nguyên nhân tạo nên những hạn chế trong phát triển nâng cao chất lượng đào tạo. Việc thực hiện đổi mới quản lý GDÐH ở các cấp, các ngành, nhất là ngành GD và ÐT được thực hiện một cách bài bản sẽ nâng cao chất lượng GDÐH. Ðiều này sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu “đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài” đồng thời, góp phần thực hiện tốt Chiến lược phát triển giáo dục 2020 với mục tiêu: “Ðào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động và một bộ phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới”.

2. Đánh giá những hạn chế trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam

Một là, chưa hoàn thiện được khung pháp lý về phân cấp quản lý đối với cơ sở GDĐH, đặc biệt là quản lý tài chính, đầu tư.

Hai là, thể chế QLNN về GDĐH chậm được đổi mới và còn tập trung nhiều vào vấn đề quản lý hành chính các cơ sở GDĐH;

Ba là, hệ thống thể chế QLNN về GDĐH còn thiếu đồng bộ, hệ thống.

– Những hạn chế về hoạch định và thực thi chiến lược phát triển GDĐH;

Một là, chính sách phát triển GDĐH đã hướng tới mục tiêu nhưng chưa thể hiện được hiệu quả và tính hiện thực;

Hai là, chưa phát huy được các công cụ của chính sách tài chính và chính sách đầu tư đối với GDĐH;

Ba là, thể chế, chính sách về học phí, lệ phí và học bổng chưa thực sự đảm bảo sự công bằng trong GDĐH về quyền và nghĩa vụ của sinh viên.

– Những hạn chế về bộ máy QLNN đối với GDĐH

Kết quả phân tích cho thấy, bộ máy QLNN đối với GDĐH còn phân tán, đồng thời, còn có sự chồng chéo giữa chức năng QLNN và chức năng cung ứng dịch vụ công.

Bên cạnh đó, tư duy quản lý GDĐH còn chậm được đổi mới theo hướng quản lý chất lượng, hội nhập quốc tế. Cơ chế, phương thức QLNN về GDĐH chưa tiếp cận đầy đủ theo yêu cầu quản lý chất lượng, có tình trạng vừa ôm đồm sự vụ, vừa buông lỏng chức năng QLNN; chưa thực hiện tốt sự quản lý thống nhất, giữ vững kỷ cương trong công tác giáo dục, đồng thời chưa phát huy quyền chủ động và trách nhiệm nhà trường.

– Những hạn chế về hoạt động thanh tra, giám sát đối với cơ sở GDĐH

Một là, hoạt động QLNN về chất lượng GDĐH chưa có cơ chế thu hút sự tham gia của cộng đồng xã hội;

Hai là, chưa tạo được thể chế và cơ chế giám sát chất lượng GDĐH hiệu quả;

Ba là, cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động GDĐH chưa được thực hiện hiệu quả.

Có thể nói, công tác quản lý nhà nước về GDĐH ở Việt Nam những năm qua đã đạt được kết quả quan trọng, đặc biệt là bước chuyển trong tư duy quản lý đối với GDĐH theo hướng quản lý chất lượng với những bước đi cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Tư duy QLNN về GDĐH đã được thể hiện trên góc độ tạo lập khung thể chế, chính sách đến tổ chức bộ máy quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về GDĐH.

Quản lý GDĐH ở Việt nam còn nhiều hạn chế cả về góc độ quản lý đầu tư, tài chính và nguồn nhân lực; hạn chế trong việc cải cách hành chính, đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có các giải pháp đổi mới, tăng cường quản lý GDĐH ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Giải pháp tăng cường quản lý GDĐH ở Việt Nam

– Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý GDĐH theo hướng coi các cơ sở GDĐH là những thực thể pháp nhân có quyền tự chủ cao.

– Hoàn thiện hệ thống pháp luật về học phí, lệ phí, chế độ học bổng, chính sách trợ cấp và hỗ trợ sinh viên.

– Pháp lý hóa mối quan hệ giữa Nhà nước và trường đại học.

Với vai trò là công cụ thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả, chiến lược và các chính sách phát triển GDĐH được hiểu như nội dung cơ bản và trọng tâm của QLNN về kinh tế đối với GDĐH.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát là một nội dung quan trọng trong quản lý QLNN nói chung và QLNN về kinh tế đối với GDDH nói riêng. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát có tác dụng đảm bảo để các đơn vị thực hiện đúng pháp luật và các quy định của Nhà nước nói chung và quy định về GDĐH nói riêng; đảm bảo phát hiện, xử lý và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện, hành vi trái với quy định quản lý nhân sự, quản lý tài chính, quản lý đầu tư, quản lý tuyển sinh và đào tạo,… ở các cơ sở GDĐH; cảnh báo và ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí tài sản Nhà nước.

Trong quá trình quản lý cần phải thống nhất và phân định rõ trách nhiệm trong việc quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ sở GDĐH, cần có giải pháp thay đổi sâu sắc và toàn diện, cụ thể:

+ Thực hiện công việc kiểm tra chéo giữa các trường, đây là hình thức vừa kiểm tra giám sát vừa học hỏi lẫn nhau của các cơ sở GDĐH, giúp các cơ sở GDĐH ngày càng hoàn thiện hơn trong các khâu từ tổ chức, đào tạo, tài chính,…

+ Thực hiện quá trình kiểm tra giám sát của xã hội, của người dân. Điều này biểu hiện các cơ sở GDĐH khi đào tạo ra những sản phẩm có được xã hội chấp nhận hay không.

Bộ máy quản lý GDĐH về kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong QLNN về kinh tế đối với GDĐH. Bộ máy quản lý GDĐH về kinh tế là đơn vị thực hiện cụ thể hóa thể chế, chiến lược và chính sách phát triển GDĐH của Nhà nước, đồng thời là đơn vị thực hiện thanh tra, kiểm tra giám sát đối với các cơ sở GDĐH. Hoàn thiện bộ máy quản lý giáo dục, bao gồm việc hoàn thiện về tổ chức bộ máy quản lý, hoàn thiện về năng lực và trình độ của đội ngũ quản lý, hoàn thiện về nội dung và phương thức quản lý.

Hoàn thiện cơ chế quản lý gồm xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở GDĐH công lập. Bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát chất lượng GDĐH.

Hoàn thiện phân cấp quản lý, tức là quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển; chỉ đạo triển khai hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng GDĐH; hoàn thiện môi trường pháp lý; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra; điều tiết vĩ mô cơ cấu và quy mô GDĐH, đáp ứng nhu cầu nhân lực của đất nước trong từng thời kỳ.

Hoàn thiện nội dung quản lý là tăng cường công tác QLNN về giá đối với một số hình thức đào tạo, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của cơ chế thị trường và các cam kết quốc tế. Và xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng đào tạo, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra chất lượng đào tạo.

Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Thủ tướng chính phủ (2006), Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước.

Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 71/2006/TT- BTC ngày 06/09/2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Bộ Tài chính – Bộ Giáo dục và Đạo tạo – Bộ Nội vụ (2003), Thông tư liên tịch số 21/2003/TTLT/BTC- GDĐT- NV ngày 24/3/2003 của Bộ tài chính đối với các cơ sở giáo dục đào tạo công lập hoạt động có thu. Kinh phí chi thường xuyên cho các cơ sở GDĐH để thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 71/2006/TT- BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính.

Công văn số 1075/ KTKĐCLG – KĐĐH ngày 28 tháng 6 năm 2016 hướng dẫn tự đánh giá chương trình đào tạo.

Hồ Viết Thịnh (2013), Bàn về đổi mới quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam,Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 14 (7- 2013), tr. 41- 42.

Solutions for improving the state management of higher education sector in VietnamMaster. Nguyen Thi Hong Sam

University of Economics – Technology for Industries

ABSTRACT:

Education and training field in Vietnam has achieved many achievements in recent year. However, many shortcomings and limitations have been revealed. One of main reasons behind these shortcomings is that there are unclear definitions about the state management and governance at educational and training institutions.” Therefore, it is important for the education and training field in general and the higher education sector in particular to “fundamentally transform the education and training management in order to maintain the democracy and the union.” This paper analyzes the limitations and proposes some solutions for improving the state management of higher education sector in Vietnam.

Keywords: Higher education management, Ministry of Education and Training, higher education institution.

[Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 12, tháng 5 năm 2020]

Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Việt Nam

Thứ tư, 01 Tháng 3 2017 14:52

(LLCT) – Giáo dục – đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đây là “quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”(1). Trong đó, giáo dục – đào tạo đại học (GD – ĐTĐH) có nhiệm vụ quan trọng,”đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài”.

1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lýcủa Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.

Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trìnhvàbước đi phù hợp.

Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu mà cần đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương; có sựkế thừa, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới. “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”(2). Đó là những tiêu chí mới đối với nền giáo dục nói chung và đối với mỗi cấp học, bậc học nói riêng”. Chuẩn hóa”, “hiện đại hóa”, “xã hội hóa”, “dân chủ hóa” và “hội nhập quốc tế” có quan hệ chặt chẽ, bổ sung chonhau, được thể hiện trong toàn bộ các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới giáo dục.

Chuẩn hóa mục tiêu, chương trình đào tạo, các trình độ, kỹnăng nghề nghiệp, kiểm tra đánh giá, chuẩn đầu ra, chuẩn kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục và đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục, cơ chế quản lý, cơ sở vật chất và các điều kiện khác bảo đảm chất lượng giáo dục.

Hiện đại hóa mục tiêu, nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, phương pháp đánh giá giáo dục, cơ sở vật chất và hệ thống quản lýgiáo dục.

Xã hội hóa là đa dạng chủ thể đầu tư, chủ thể tham gia và giám sát các hoạt động giáo dục; xây dựng xã hội học tập, bảo đảm điều kiện học tập suốt đời cho mọi người dân; thực hiện tốt phương châm phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.

Dân chủ hóa làtạo bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người, nhất là các đối tượng vùng khó khăn và các đối tượng chính sách xã hội; thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục; cấp dưới tham gia đánh giá cấp trên. Công khai kết quả đo lường mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan quản lýnhà nước về giáo dục và các cơ sở giáo dục; công khai chính sách giáo dục, công khai tài chính, các điều kiện bảo đảm và kết quả giáo dục; tăng cường vai trò của Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục, đào tạo…

Trước những chỉ đạo quyết liệt và sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, GD – ĐTĐH của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong đó có những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐHvà hội nhập quốc tế.

2. Một số giải pháp đổi mới giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới

Trước hết, đổi mới tư duy phát triển GDĐH. Đây là vấn đề khó khắc phục hơn cả, cần có sự quyết tâm cao. Đổi mới phải bắt đầu từ tư duy, cách nghĩ, cách làm, cách quản lý của nhà lãnh đạo.Trong đó, cần khắc phục tư duy bảo thủ, trì trệ, bệnh thành tích, hư danh, chạy theo bằng cấp.

Hai là, GD-ĐTĐH Việt Nam cần gắn với nhu cầu xã hội. Để thực hiện được vấn đề này, GDĐH cần phải gắn kết tốt hơn với doanh nghiệp. Cần từng bước mở rộng mô hình đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo giữa Nhà nước và doanh nghiệp, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo, hướng nghiệp dạy nghề với các tổ chức khoa học công nghệ. Phối hợp các hoạt động tư vấn nghề nghiệp tại cơ sở đào tạo, dạy nghề tại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sinh viên, học viên, người lao động lựa chọn ngành nghề phù hợp ngay từ khi vào trường và có nhiều thông tin cần thiết khi sắp tốt nghiệp. Nhà nước cần khuyến khích các cơ sở doanh nghiệp có thể liên kết, đầu tư hỗ trợ cho các trường đại học theo hình thức “đặt hàng”. Vấn đề này cũng cần phải bảo đảm cân đối chỉ tiêu giữa các ngành, nghề đào tạo ở mỗi ngành và phải bảo đảm vừa có tính nhu cầu trước mắt và vừa tính đến nhu cầu lâu dài.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác GDĐH. Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục. Khắc phục tình trạng phân tán các cơ sở đào tạo nhà giáo; tập trung xây dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹthuật trọng điểm; điều phối hệ thống trường sư phạm theo mục tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục trên phạm vi cả nước.Mặt khác, cần có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người thực sự có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạmvà đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức nhà giáo và năng lực nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, cần có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục phải trên cơ sở đánh giá thực tế năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lýtuổi nghỉ hưu đối với nhà giáo có trình độ cao, đồng thời có cơ chế sàng lọc, miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học; khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lýnâng cao trình độ chuyên môn,nghiệp vụ. Bảo đảm bình đẳng về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng giữa nhà giáo trường công lập và trường ngoài công lập. Tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia quốc tế tham gia giảng dạy và nghiên cứu trong nước.

Bốn là, xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng và thành lập các đơn vị chuyên trách để triển khai các hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng. Kiểm định chất lượng giáo dục là hoạt động tự đánh giá của cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá của các cơ quan có chức năng đánh giá độc lập (thường được gọi là cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục) để đánh giá các cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc đánh giá các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Để làm được điều đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy mạnh các hoạt động quản lý chất lượng, xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng và thành lập các đơn vị chuyên trách để triển khai các hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng và Phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011 -2020” theo Quyết định số 4138/QĐ-BGDĐT ngày 20-9-2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề không thể tách rời. Tăng cường quá quyền tự chủ mà không đặt yêu cầu về tự chịu trách nhiệm sẽ có nguy cơ tùy tiện, giảm sút chất lượng, chạy theo lợi ích trước mắt. Ngược lại, tăng cường trách nhiệm mà hạn chế quyền tự chủ sẽ trói buộc các cơ sở đại học, không tạo ra động lực và cơ chế cho sự vận hành tự nhiên, hạn chế sự mềm dẻo, linh hoạt, khả năng đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Duy trì sự can thiệp đúng mức của nhà nước thông qua các công cụ pháp lý, quy chế, tài chính để rồi từ bỏ dần sự can thiệp trực tiếp vào quản lý vi mô, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đại học là cần thiết. Mặt khác, để có thể sử dụng các lực lượng thị trường, tạo động lực cho giáo dục đại học một cách đúng mức, cần có sự tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường vào việc điều chỉnh và nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đại học.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2016

(1) Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, ngày 4-11-2013 Vềđổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

(2)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.167-168.

ThS Nguyễn Thị Lan

Đại học Sài Gòn

4 Định Hướng, Giải Pháp Quan Trọng Cho Giáo Dục Đại Học Việt Nam

Đánh giá của Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, giáo dục đại học Việt Nam đã phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng.

Hiện nay, cả nước có 236 trường đại học, học viện và 41 viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Số sinh viên học trong các trường đại học là 1.439.495 em, chiến 84%; số sinh viên ngoài công lập là 267.530, chiếm 16%. Số lượng giảng viên ĐH tăng nhanh trong thời gian vừa qua, trong đó có số giảng viên đạt trình độ tiến sĩ. Số lượng ngành trình độ đào tạo đại học cũng tăng, từ 2.118 năm 2007 lên 3394 năm 2017. Số lượng chương trình đào tạo đại học cũng tăng mạnh.

Sơ đồ người học trong giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay

Văn hóa chất lượng bước đầu hình thành ở các cơ sở giáo dục đại học. Công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng được đẩy mạnh nhăm nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế đã được chú trọng, xếp hạng quốc tế được cải thiện. Đổi mới, đẩy mạnh tự chủ đại học bước đầu thu được kết quả tích cực.

Công bố quốc tế tăng nên xếp hạng đại học của Việt Nam cũng có cải thiện. Việt Nam đã có 2 ĐH nằm trong top 1000 của thế giới; 5 cơ sở giáo dục đại học nằm trong top 350 Châu Á (theo xếp hạng QS).

Về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học, đến tháng 8/2018, chúng ta đã có 217 trường đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá, 123 trường đã được đánh giá ngoài, 117 trường được công nhận đạt kiểm định. Có 5 trường đại học của Việt Nam đạt kiểm định của tổ chức quốc tế HCERES; 2 trường đạt kiểm định bởi AUN-QA.

Về kiểm định chương trình đào tạo: Có 10 chương trình đã được công nhận đạt kiểm định theo chuẩn Việt Nam; 116 chương trình được kiểm định theo chuẩn quốc tế…

Giáo dục đại học còn nhiều tiềm năng, nhưng quản lý nhà nước phải đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển này. Từ đó, Thứ trưởng tin tưởng, khi thay đổi cơ chế chính sách kịp thời, tạo động lực đúng đắn sẽ tạo bước đột phá trong phát triển giáo dục đại học.

Nguồn: giaoducthoidai.vn

Giáo Dục Đại Học Việt Nam Ngày Càng Xa Chuẩn Quốc Tế !

Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bành Tiến Long:

Xây dựng một số trường ĐH trọng điểm đạt chuẩn quốc tế

Hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam có nhiều khác biệt so với nền giáo dục trên thế giới, vì thế ở thời điểm hiện tại, chúng ta chỉ có thể hòa vào hệ thống văn bằng quốc tế thông qua các chương trình liên kết đào tạo với các trường ĐH hay thương hiệu ĐH đã được mặc nhiên thừa nhận trên thế giới. Chính vì vậy, chúng tôi khuyến khích các trường ĐH trong nước tranh thủ khai thác các mối quan hệ và hợp tác song phương với các trường ĐH trong khu vực và trên thế giới, các doanh nghiệp và tập đoàn từ việc liên kết đào tạo, trao đổi sinh viên, thầy giáo đến tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của bạn trong giảng dạy và học tập…

Những năm sắp tới, giáo dục ĐH Việt Nam cần tăng cường đẩy mạnh quan hệ hợp tác thông qua việc khuyến khích các cơ sở liên kết đào tạo với nước ngoài hoặc thành lập cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Quốc tế hóa một số chương trình đào tạo nhằm thu hút sự quan tâm của sinh viên quốc tế, dần hướng tới việc xuất khẩu giáo dục tại chỗ; lựa chọn và tập trung xây dựng một số trường ĐH trọng điểm đạt chuẩn quốc tế và được xếp hạng trước mắt là trong khu vực để hợp tác một cách sòng phẳng với một số trường ĐH lớn trong khu vực như ĐH NUS (Singapore), ĐH Postech (Hàn Quốc), ĐH Thanh Hoa (Trung Quốc)…

GS-TSKH Đỗ Trần Cát, Tổng Thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước:

Càng đổi mới, càng thụt lùi

Chương trình ĐH có nhiều bất cập, nhưng việc sửa đổi đã và đang được tiến hành không có hiệu quả. Chẳng hạn vấn đề giảng dạy các môn khoa học xã hội trong các trường công nghệ. Việc giảng dạy môn triết học, chính trị… trong các trường công nghệ là cần thiết, nhưng không thể với số lượng giờ quá nhiều trong tương quan với các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Khi họp Hội đồng Tư vấn về sửa đổi chương trình cho Bộ GD-ĐT, hầu hết ủy viên hội đồng đều có ý kiến là giảm bớt số giờ các môn khoa học xã hội, nhưng kết quả là không thay đổi…

Các hiện tượng nêu trên cho thấy chúng ta chưa có cách nhìn nhận đúng mức đối với chương trình học. Các thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, người Việt Nam đi học NCS ở nước ngoài chỉ cần có bằng ĐH Việt Nam, sang đến thập kỷ 90 của thế kỷ trước, khi chúng ta coi cao học là bằng thạc sĩ, các nước yêu cầu người Việt Nam để được học NCS phải có bằng thạc sĩ. Sang thế kỷ 21, một số nước phát triển đã bắt đầu không công nhận bằng thạc sĩ của ta và bắt các NCS của ta phải thi lấy bằng thạc sĩ của họ sau đó mới nhận vào làm NCS, mặc dù những người này đã có bằng thạc sĩ Việt Nam. Những dấu hiệu ấy cho thấy chương trình học của chúng ta cần phải được xem xét lại.

Thạc sĩ Đào Đức Tuyên, Phó trưởng Khoa Ngoại ngữ Trường ĐH Nông Lâm TPHCM:

Nên để các trường tự chủ về chương trình đào tạo

Hiện nay, chương trình giáo dục ĐH của ta vẫn còn kém hiệu quả. Nguyên nhân: Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung, yêu cầu các trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc. Ví dụ: Chương trình khung qui định phải có môn học giáo dục thể chất, trong khi với ĐH nước ngoài đây là môn tự chọn. Cách bố trí môn giáo dục quốc phòng như hiện nay cũng cần xem lại. Một tháng học ròng rã vừa lý thuyết vừa thực hành là quá nặng nề với sinh viên. Theo tôi, các trường cần được chủ động trong biên soạn chương trình. Trong cùng một ngành, mỗi trường sẽ có chương trình đặc thù mang thế mạnh riêng của trường mình. Đây cũng là một cách cạnh tranh lành mạnh giữa các trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.

Một điều quan trọng nữa là nên sửa đổi phương pháp đánh giá, kiểm tra ở bậc ĐH. Hiện nay, kỳ thi cuối kỳ chiếm đến 60% – 70% điểm số của sinh viên. Theo tôi, chỉ nên chiếm 30%, 30% còn lại căn cứ vào đề tài nghiên cứu khoa học, việc tự học, tham gia vào giờ học của lớp… Không nên dựa hoàn toàn vào bài thi cuối học kỳ mà cần đánh giá suốt quá trình đào tạo.

Bạn đang xem bài viết Giải Pháp Quản Lý Giáo Dục Đại Học Tại Việt Nam trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!