Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực : Vào Phủ Chúa Trịnh mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Giáo án theo định hướng phát triển năng lực: Vào phủ chúa Trịnh- Lê Hữu Trác
Giáo án theo định hướng phát triển năng lực: Vào phủ chúa Trịnh- Lê Hữu Trác
Soạn bài Vào Phủ chúa Trịnh Ngữ văn 11
Mục Lục
Bài dạy:
– Bức tranh chân chân thực, sống động về cuộc sống xa hoa, đầy quyền uy nơi phủ chúa Trịnh và thái độ tâm trạng của nhân vật “tôi” khi bước vào phủ chúa chữa bện cho Trịnh Cán.
– Vẻ đẹp tâm hồn của Hải Thượng Lãn Ông; lương y; nhà nho thanh cao, coi thường danh lợi.
– Những nét đặc sắc của bút pháp kí sự: tài quan sát miêu tả sinh động những sự việc có thật; lối kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn; lựa chọn chi tiết đặc sắc; đan xen văn xuôi và thơ.
– Đọc hiểu thể kí sự trung đại theo đặc trưng thể loại.
– Rèn luyện kĩ năng tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm
– Thái độ phê phán nghiêm túc lối sống xa hoa nơi phủ chúa.
– Trân trọng lương y, có tâm có đức.
Phương pháp và phương tiện dạy học
– Sgk. Giáo án, đọc tài liệu tham khảo.
Nội dung và tiến trình lên lớp:
Trọn bộ giáo án Ngữ văn khối 10
Giáo án Ngữ văn khối 11
Giáo án Ngữ văn khối 12
Theo chúng tôi
3.1. Hoạt động khởi động: Lê Hữu Trác không chỉ nổi danh là một “lương y như từ mẫu” mà còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Với tập kí sự đặc sắc ” Thượng kinh kí sự” – đây là tác phẩm có giá trị hiện sâu sắc đồng thời thể hiện nhân cách thanh cao của tác giả. Để hiểu điều này ta tiềm hiểu đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh”.
3.2. Hoạt động hình thành kiến thức mới
– Vài nét về tác giả: Cuộc đời và sự nghiệp
– Em hiểu biết về về tác phẩm “TKKS” và đoạn trích?
+ Xuất xứ tác phẩm
+ Nội dung đoạn trích.
– Tác giả đã thấy gì về quang cảnh bên ngoàicung? Chi tiết nào miêu tả điều đó?
– Tác giả có những suy nghĩ ntn khi lần đầu tiên thấy được những quang cảnh ấy?
– Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Chi tiết nào gợi lên điều đó?
– Thái độ của tác giả ntn khi bước vào cung?
– Thái độ của tác giả khi tiếp xúc với các lương y khác?
– Qua đó ta thấy chúaTrịnh đã thể hiện cuộc sống vương giả ntn?
– Qua lời kể và tả, ta thấy tác giả đã rơi vào thế bị động ntn?
– Cách chuẩn bệnh của Lê Hữu Trác cùng những biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?
– Qua đoạn trích,Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật viết kí sự của tác giả?Hãy phân tích những nét đặc sắc đó
– Qua bài học, em hãy rút ra ý nghĩa của đoạn trích?
– GV yêu cầu hs đọc phần tiểu dẫn sgk
– Cho HS xem chân dung tác giả
– GV hướng dẫn HS trình bày về tiểu sử, sự nghiệp
– GV hướng dẫn HS tìm hiểu xuất xứ, hoàn cảnh ra đời tác phẩm
– GV khái quát, ệ thống kiến thức về nội dung đoạn trích
– GV hướng dẫn HS đọc đoạn trích
– GV hướng dẫn HS khái quát hành trình vào phủ của tg
– GV hướng dẫn HS nhận xét quang cảnh phủ chúa.
– GV gợi ý cho Hs tìm các chi tiết miêu tả cung cách sinh hoạt phủ chúa
– GV hướng dẫn HS nêu nhận xét
– GV gợi ý HS tìm hiểu chi tiết bắt bệnh cho thế tử
– Yêu cầu HS nêu ý kiến cá nhân
– Hướng dẫn HS tìm hiểu các biện pháp nghệ thuật tiêu biểu
– GV hướng dẫn HS củng cố bài và đọc phần ghi nhớ.
3.3. Hoạt động thực hành ứng dụng
Bài tập: Giá trị hiện thực đoạn trích ” Vào phủ chứa Trịnh”
3.4. Hoạt động bổ sung
– So sánh đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh” với đoạn trích ” Truyện cũ trong phủ chúa Trịnh” và nêu nét đắc sắc của đoạn trích.
– Sưu tầm hình ảnh hoặc đoạn phim khắc họa hình ảnh cuộc sống chúa Trịnh
Hướng dẫn soạn bài tiếp theo
Soạn bài mới: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
Giáo Án Bài Tây Tiến Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực
Học sinh cảm nhận về hình ảnh, vẻ đẹp của người lính Tây Tiến
– Trung đoàn Tây Tiến
2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại thơ trữ tình
– Hai câu mở đầu bài thơ đã nhắc tới cảm xúc bao quát toàn bài. Đó là cảm xúc nào? – Khi nhớ về Tây Tiến, nhà thơ nhớ đến những hình ảnh nào, thể hiện ra sao. Các em thực hiện yêu cầu sau.
GV: yêu cầu hs làm việc cặp đôi, 1 bạn phát hiện, ghi lại những từ ngữ, hình ảnh thể hiện nỗi nhớ; 1 bạn nêu những cảm xúc về từ ngữ, hình ảnh đó. (gọi 1 cặp đôi lên bảng, hoặc tráo cặp đôi)
– Em hiểu nhớ chơi vơi là gì
– GV yêu cầu hs làm việc cá nhân: phát hiện các biện pháp nghệ thuật
GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi: thiên nhiên miền Tây được khắc họa với những đặc điểm nào – GV yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm theo kĩ thuật mảnh ghép để thực hiện nhiệm vụ học tập + Nhóm 1, nhóm 3 – mảnh ghép 1: Phân tích vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc (tìm được những câu thơ diễn tả vẻ đẹp hoang sơ, chú ý hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ trong các câu thơ đó) + Nhóm 2, nhóm 4 – mảnh ghép 2: Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của núi rừng miền Tây (tìm được những câu thơ diễn tả vẻ đẹp thơ mộng, chú ý hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ trong các câu thơ đó) – GV quan sát HS làm việc, giúp đỡ các nhóm còn gặp khó khăn, hướng dẫn cách làm (Bước 1: phát hiện câu thơ, từ ngữ; Bước 2: phân tích, cảm nhận)
– HS phát hiện, chỉ ra sự độc đáo trong thanh điệu, hình ảnh của các câu thơ
* Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình -Thấp thoáng trong những câu thơ gợi thiên nhiên hùng vĩ dữ dội là những hình ảnh huyền ảo, thi vị, lãng mạn khiến thiên nhiên miền Tây mang vẻ đẹp của 1 bức tranh lụa cổ điển phương Đông. + Cảm nhận về 1 mảnh đất đầy sương khói, mờ ảoSài Khao sương lấp…Mường Lát hoa về… + “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” một thoáng mộng mơ của Tây Bắc hình ảnh 1 bản làng chập chùng trôi trong màn hơi nước, hơi mưa
GV yêu cầu HS đọc lướt phần còn lại và hoạt động cá nhân để trả lời các câu hỏi
– Người lính Tây Tiến hiện ra với những vẻ đẹp nào (suy nghĩ và phát hiện)…..(GV gợi mở)
c. Hình ảnh người lính Tây TiếnAnh bạn dãi dầu…Gục lên súng mũ… – Họ chịu đựng khó khăn, gian khổ và có cả sự hi sinh nhưng vượt lên trên tất cả là tinh thần bi tráng, đón nhận cái chết một cách kiêu bạc, ngang tàn… – Đoạn thơ kết lại bằng 1 kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp tình quân dân Nhớ ôi Tây Tiến
III. Hoạt động thực hành/luyện tập GV: yêu cầu hs – Cảm nhận vẻ đẹp của các từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút – Cảm nhận câu thơ Nhà ai Pha Luông… – Cho HS vẽ tranh về đoàn quân Tây Tiến
HS thực hành
IV. Hoạt động vận dụng và mở rộng(Học sinh có thể lưa chọn các hình thức sau) – Vẽ tranh về đoàn quân Tây Tiến – Tìm các bài hát về Tây Tiến – Tìm các bài thơ viết về người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp
Vận dụng và mở rộng
Phân Tích Giá Trị Hiện Thực Của Đoạn Trích Vào Phủ Chúa Trịnh
Phân tích giá trị hiện thực của Vào phủ chúa Trịnh – Tham khảo nội dung dàn ý chi tiết và bài văn mẫu hay phân tích những giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)
Anh chị hãy phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” – Lê Hữu Trác.
Lập dàn ý chi tiết phân tích giá trị hiện thực của Vào phủ chúa Trịnh
I. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
II. Thân bài: Cảm nghĩ giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh“
1. Bức tranh hiện thực của phủ chúa Trịnh
a. Quang cảnh phủ chúa Trịnh
– Một nơi vô cùng xa hoa, tráng lệ và thâm nghiêm
– Màu sắc chủ đạo của phủ là đỏ và vàng
– Không khí ngột ngạt
b. Cuộc sống và sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh:
– Nơi nhiều nguyên tắc, luật lệ
– Cuộc sống xa hoa nhưng thiếu đi sinh khí
– Thể hiện sự lộng quyền của chúa Trịnh
2. Thái độ của tác giả đối với cung cảnh và cách sinh hoạt nơi phủ chúa
– Tác giả không đồng tình với cuộc sống xa xỉ và xa hoa của chúa Trịnh
– Lê Hữu Trác dửng dưng trước những quyến rũ lợi danh tại phủ chúa
– Cuộc đấu tranh nội tâm của tác giả
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về giá trị hiện thực của đoạn trích
– Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể hiện rất sâu sắc và chân thật về quang cảnh và cuộc sống trong phủ chúa Trịnh, một cuộc sống xa hoa nhưng thiếu sinh khí và ngột ngạt.
Top 2 bài văn mẫu hay nhất nêu rõ giá trị hiện thực sâu sắc của trích đoạn Vào phủ chúa Trịnh
“Vào phủ chúa Trịnh” được trích từ ” Thượng kinh kí sự ” của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực cuộc sống trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán sâu sắc của tác phẩm.
Trước hết đó là bức tranh về cuộc sống đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác – “vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết” vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác người thường”.
Cảnh vật trong phủ chúa hết sức lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực “cả trời Nam sang nhất là đây”. Cách bài trí, trang trí trong phủ hết sức tráng lệ, cầu kì: “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, nhưng đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khung cảnh cực kì sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu có thể sánh nổi. Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi cuộc sống trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại đó đã có nhiều biến động, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín đáo phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.
Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: ” Tôi nghe chuyện than rằng: – Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng. Lại mừng thầm rằng mình đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt…. “. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này chính là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: “giàu sang như mây nổi” chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh bại vong.
Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về sự suy vong tất yếu của nơi đây.
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình qúy tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.
Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.
Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh ” đã thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như ta biết: Kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: Bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí,… Trong số đó kí tự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.
Đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh ” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: “Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” . Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta: Hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc thật.
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.
Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa… tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy… tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lôgíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ… Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh. Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.
Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ, sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của Lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau.
Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật, đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
” Vào phủ chúa Trịnh ” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả, giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. ” Vào phủ chúa Trịnh ” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình, phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm:
“Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu Biết vui, nghèo cũng hơn giàu Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.
-/-
Những bài văn hay lớp 11 tuyển chọn / Đọc Tài Liệu
Phát Triển Văn Hóa Đọc Thông Qua Đổi Mới Tổ Chức Hoạt Động Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Người Học
1. Thông qua đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học
1) Xây dựng kế hoạch hướng dẫn học sinh phương pháp đọc sách nhằm phát riển chuyên môn cũng như đọc sách, báo nói chung (kĩ thuật đọc hiệu quả, cách duy trì hứng thú đọc, cách sử dụng kết quả đọc, cách lập thư mục tài liệu tham khảo,…). Dạy cách đọc sách là một cách thức dạy học sinh tự học, tự phát huy tiềm năng, tự phát triển toàn diện theo sở thích, nhu cầu của mỗi cá nhân; vì vậy cần phải mở các lớp giáo dục kĩ năng, phương pháp đọc, phương pháp thu thập và xử lí thông tin cho học sinh. Ví dụ: ở lứa tuổi mầm non, học sinh có thể được nghe, rồi phụ huynh hướng dẫn cách xem truyện tranh để hiểu, để nhớ, để kể lại được chuyện; nhưng khi vào Tiểu học, học sinh cần được giáo viên hướng dẫn cách đọc sách, báo, để hỗ trợ việc học… Ở mức cao hơn, học sinh cần được hướng dẫn cách đọc từng loại sách, báo: cách đọc sách lịch sử khác với cách đọc sách văn học, cũng khác với cách đọc sách toán học,… Và ở mức cao hơn nữa: đọc thơ khác với đọc truyện, đọc văn miêu tả khác với văn kể chuyện, khác với văn thuyết minh,…
2) Theo tinh thần “chuyển giao nhiệm vụ học tập cho mỗi học sinh”, thực hiện đổi mới yêu cầu chuẩn bị bài học của học sinh thông qua phiếu giao nhiệm vụ học tập để học sinh chủ động khai thác thông tin từ việc đọc sách giáo khoa và các loại sách báo tham khảo, bổ sung hoặc thay thế việc đơn thuần chỉ yêu cầu trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà theo hướng tăng cường khai thác kiến thức, dữ liệu/ngữ liệu từ các nguồn sách báo, tài liệu phù hợp với chương trình môn học, lớp học và cấp học. Ví dụ: ứng với từng chương, từng phần kiến thức trong chương trình cần đọc loại sách báo gì, ở mức độ nào để củng cố; mức độ nào để mở rộng; mức độ nào để nâng cao,…
6) Để đáp ứng “nhu cầu phát triển và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân”, đẩy mạnh việc hình thành và tổ chức hiệu quả các loại hình sinh hoạt câu lạc bộ “Em yêu khoa học” và xây dựng cũng như sử dụng hiệu quả các tủ sách chuyên đề như tủ sách “STEM”, “Lịch sử và văn hóa”, “Vật lí vui”, “Thường thức pháp luật”, “Toán học và tuổi trẻ”, “Văn học và tuổi trẻ”,… thu hút học sinh tham gia thuyết trình, báo cáo, chia sẻ kết quả nghiên cứu.
2) Thúc đẩy hoạt động đọc của học sinh thông qua đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá: khuyến khích học sinh đọc sách báo mở rộng để cập nhật thông tin trong hồ sơ học tập, vở học tập; qua việc học sinh báo cáo kết quả thực hiện một dự án học tập, nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, báo cáo kết quả thực hành, thí nghiệm; đánh giá qua bài thuyết trình (bài viết, bài trình chiếu, video clip…) về kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập; qua tham gia Cuộc thi nghiên cứu khoa học kĩ thuật theo Công văn số 3162/BGDĐT-GDTrH ngày 24/6/2015 của Bộ GDĐT và Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn dành cho học sinh trung học theo Công văn số 3790/BGDĐT-GDTrH ngày 29/7/2015.
3) Tích cực tổ chức hoạt động đề xuất và lựa chọn, hoàn thiện các câu hỏi, bài tập kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực để bổ sung cho thư viện câu hỏi của trường. Tăng cường xây dựng nguồn học liệu mở (thư viện học liệu) về câu hỏi, bài tập, đề thi, kế hoạch bài học, tài liệu tham khảo có chất lượng trên website của Bộ (tại địa chỉ http://truonghocketnoi.edu.vn), của sở/phòng GDĐT và các trường học.
Tăng cường đánh giá sự vận dụng kiến thức trong chương trình giáo dục phổ thông vào thực tiễn đời sống; tiếp tục mở rộng qui mô và mức độ thường xuyên gắn kết yêu cầu và phạm vi vấn đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông với những vấn đề thời sự của quê hương đất nước và quốc tế thể hiện qua sự cập nhật thông tin khai thác, tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu, sách báo ngoài chương trình khi xây dựng đề thi, kiểm tra theo ma trận. Ví dụ: yêu cầu học sinh trình bày thái độ trước sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan HD981 trái phép, vi phạm chủ quyền của nước ta (Đề thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2014); yêu cầu học sinh thể hiện tình cảm của mình đối với người lính đảo qua một đoạn thơ của Trần Đăng Khoa (Đề thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2015),…
Mortimer J.Adler – tác giả của tác phẩm kinh điển về đọc sách thông minh đã từng khẳng định: “Đọc tốt, hay đọc tích cực, không chỉ tốt cho bản thân việc đọc, cũng không chỉ là một phương tiện giúp ta tiến bộ trong công việc hay nghề nghiệp. Nó còn giúp ta giữ cho trí óc sống và phát triển”.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu quan điểm: “Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Theo đó, việc đổi mới hình thức hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực người học có ý nghĩa thiết thực góp phần phát triển văn hóa đọc trong nhà trường đồng thời giúp học sinh rèn luyện năng lực tự học và học tập suốt đời.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, 1990.
2. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) (1997), Quá trình dạy – tự học, Nxb Giáo dục.
3. Richard Paul, Linda Elder (2015), Cẩm nang tư duy đọc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mortimer J.Adler, Charles Van Doren (2015), Phương pháp đọc sách hiệu quả, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015): Kỉ yếu Hội thảo “Phát triển văn hoá đọc trong nhà trường và cộng đồng“.
Bạn đang xem bài viết Giáo Án Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực : Vào Phủ Chúa Trịnh trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!