Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Nghiệm Giáo Dục Học Sinh Chưa Ngoan mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kinh nghiệm cho thấy: ở lứa tuổi các em cấp 1, vấn đề tiền bạc không phải là quan trọng bậc nhất, với các em thì một gia đình hạnh phúc, yên ấm, vui vẻ chính là điều mà các em cần nhất. Do vậy, GVCN cần phải xác định em nào có một gia đình chưa hoàn toàn hạnh phúc, có xung đột giữa các thành viên trong gia đình… vì đấy có thể là nguyên nhân khiến cho các em trở nên “chưa ngoan” hoặc cũng có thể trở thành “tự kỷ”… Đã có những gia đình trong đó, cha mẹ đều là những người thành đạt nhưng con của họ lại là những học sinh bị gọi là “học sinh cá biệt” do người cha và mẹ đi công tác liên tục, không có thời gian chăm sóc, gần gũi con để con có thể tâm sự, trao đổi, để hỏi han tình hình học tập, vui chơi của con. Những học sinh này thường sống với một người chăm sóc riêng hoặc chung sống với ông, bà và các em sẽ cảm thấy thiếu đi bàn tay người mẹ, ánh mắt người cha… Người lớn chỉ biết đáp ứng đầy đủ, thậm chí là dư giả nhu cầu tiền bạc, vật chất cho con và xem đây là điều kiện tiên quyết cho con học hành, thực sự thì hành động này đã có thể vô tình đầy con của mình vào con đường lêu lỏng, ăn chơi và trở thành học sinh cá biệt, đến lúc phát hiện được thì có thể đã muộn rồi! Cũng có những gia đình, do xung đột giữa các thành viên trong gia đình diễn ra trước mắt của các em, khiến cho các em trở nên cộc cằn, hoặc xấu hổ với bạn bè… có những hành vi bắt chước người lớn trong khi giải quyết các xung đột với các bạn cùng lớp và như vậy, vô tình người lớn đã đẩy các em trở thành học sinh cá biệt. Đã có trường hợp xung đột giữa Ông bà với Cha mẹ khiến cho các em mất lòng tin vào đấng sinh thành và trở nên hỗn láo, khó bảo, thường xuyên dùng vũ lực nhằm giải quyết các xung đột với bạn học. Cũng có trường hợp gia đình của các em quá khó khăn, các em phải lo phụ giúp gia đình để kiếm sống và thời gian học bài của các em ở nhà bị hạn chế, khiến sức học các em bị đuối dần, thế là các em trở thành học sinh cá biệt… Nếu như GVCN nắm bắt được kịp thời hoàn cảnh sống của học sinh, chắc chắn sẽ có biện pháp kết hợp với gia đình để cùng nhau đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp hơn nhằm đưa học sinh trở lại chính mình Biện pháp thứ hai: Điều tra thông tin Qua nhiều năm công tác, tôi nhận thấy không khi nào giáo viên chúng ta được tiếp nhận một lớp với tập thể học sinh toàn diện không cần nguồn giáo dục nào nữa. Học sinh chúng ta có trở thành người chủ tương lai được hay không? Là do do kết quả tổng thể của mọi nguồn lực giáo dục. Cho nên, với tấm lòng yêu nghề mến trẻ và nhiệt tình công tác, tôi mong muốn sẽ cảm hoá dần dần những học sinh chưa ngoan, giúp các em có cơ sở đạo đức vững chắc, một nếp nghĩ đúng đắn và kiến thức đầy đủ, làm hành trang tốt khi các em bươc vào ngưỡng cửa Trung học cơ sở. Với suy nghĩ ấy, vào đầu mỗi năm học, tôi thường điều tra thông tin qua sổ chủ nhiệm của năm trước để lại, sổ điểm và gặp gỡ những giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em ở các lớp dưới để nắm được đặc điểm của từng em, cũng như tìm hiểu về sức học và hoàn cảnh của từng em để có biện pháp phù hợp, nhằm giúp các em phát huy các năng lực sở trường đã có sẵn và ngăn chặn những hành vi không tốt xảy ra trong học đường ở năm học mới. Cũng qua điều tra nắm thông tin như vậy, nên chỉ trong 3 tháng tôi đã nắm được đặc điểm của từng em, cũng như mức độ chưa ngoan mà một số em mắc phải ở lớp dưới. Thông qua điều tra, nắm thông tin tìm ra những biện pháp phù hợp để giúp đỡ từng em cụ thể. Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra ban cán sự mới, ban cán sự phải là người có học lực khá giỏi, đối xử hoà đồng với bạn bè, nhiệt tình trong công việc được giao. Ngoài ra giáo viên còn có kế hoạch phân loại học sinh ngay từ đầu năm học. Các em yếu về mặt nào, môn nào để còn kịp bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp. Đối với học sinh yếu kém thì phân ra từng nhóm: * Nhóm 1: Những học sinh yếu kém nhưng có thái độ học tập tích cực. * Nhóm 2: Những học sinh có tư duy bình thường nhưng có thái độ học tập chưa tốt. Những em yếu kém chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi trên bàn đầu đồng thời xếp một em khá giỏi ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em khá giỏi kèm bạn yếu qua từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các em qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy nâng cao kiến thức bồi dưỡng học sinh khá giỏi, học sinh có năng lực đặt biệt. Biện pháp thứ ba: Phối hợp với phụ huynh học sinh Một trong các biện pháp nhằm giáo dục và giúp đỡ học sinh tiến bộ, đó là giáo viên phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh. Thường xuyên liên hệ thông qua gặp trực tiếp hoặc qua phiếu liên lạc, hoặc có thể qua điện thoại, qua các cuộc họp mặt cha mẹ học sinh, để trao đổi với phụ huynh học sinh sẽ giúp giáo viên hiểu rõ hoàn cảnh gia đình các em, hiểu rõ tính nết của các em những lúc ở nhà cũng như khi bộc lộ trên lớp. Đến thăm gia đình các em, tôi mới thấy được nhiều gia đình không cùng nhà trường giáo dục con em mình trở thành người tốt, học tốt. Mà một số gia đình lo làm nông hoặc lên núi làm than, bỏ bê con cái nên một số gia đình dễ dàng biến các em thành những đứa trẻ chưa ngoan. Xung quanh em là những đứa trẻ nghỉ học sớm đi làm có tiền, lêu lỏng ăn chơi. Có nhiều gia đình khi tôi đến thăm nhà, thấy nhà cửa trống hoang, ăn ở không hợp vệ sinh, cha mẹ đi làm suốt cả ngày, để tiền lại cho các em tự mua đồ ăn sáng và trưa, tối thì cha mẹ mới về. Nên các góc học tập của các em không có. Có gia đình, khi được giáo viên đến liên hệ tha thiết muốn cùng gia đình giáo dục con em, lại được nghe lời phát biểu: “Trăm sự cũng nhờ thầy cô, coi cháu như con em, nó sai gì, thầy cô cứ việc đánh, đánh nó tôi cám ơn, tôi không làm khó dễ gì đâu”. Đối với những gia đình ấy, việc giáo dục và giáo dưỡng con em mình đều giao phó cho nhà trường. Dù giáo viên có giải thích hoạ hoằn lắm chỉ được sự nhất trí về quan điểm giáo dục trong nhất thời mà thôi. Họ cũng nhắc nhở con em trong việc học hành, hoà nhã với bạn bè khi đến lớp. Nhưng do phải mưu sinh nên có ít điều kiện để chăm lo cho con cái. Đối với những học sinh thuộc các gia đình nói trên, thì sự yêu thương, động viên khích lệ của thầy cô và bạn bè sẽ là nguồn cổ vũ động viên lớn lao giúp cho các em tiến bộ. Trong năm học 2015 – 2016 lớp của tôi đảm nhận có một số em ngỗ ngược từ các lớp dưới do giáo viên năm trước cung cấp lại, như trường hợp của em Danh Văn Chi, luôn nói tục, nhổ cây của lớp khác trồng, là một giáo viên chủ nhiệm ai cũng muốn những đứa học trò của mình ngoan ngoãn nhưng không như chúng ta mong muốn. Nhiều lần tôi cũng đã trao đổi cùng em và em đã nghe ra dần dần có sự chuyển biến tích cực. Biện pháp thứ tư: Tạo cho học sinh tự tin ở bản thân mình Biện pháp thứ năm: Giáo dục nâng cao lòng tự trọng cho học sinh Song song với các biện pháp giáo dục đã nêu ở trên, tôi còn tạo nhiều tình huống mâu thuẫn đạo đức rồi hướng cho các em phân tích. Cuối cùng do yêu cầu của bản thân, các em tự chọn và vươn lên. Đối với tập thể lớp, tôi thường nêu những việc làm được của các lớp khác. Vì sao lớp kia đạt được điều này, đạt được điều kia tốt? Có phải là do lớp đó có nhiều học sinh khá giỏi hơn không? Các em có thể vươn lên như các bạn không? Muốn tiến bộ, các bạn ấy phải thế nào?… Qua cách lật ngược vấn đề và hướng dẫn các em giải thích, tôi thấy tác dụng rất cao. Các em thấy rằng thực hiện những việc tốt không khó, chỉ cần chú ý đến việc đó và tự nỗ lực sẽ đạt kết quả ngay. Biện pháp thứ sáu: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp Ngoài mối quan tâm chăm sóc từng em ra, tôi còn xây dựng đội ngũ cán bộ lớp. Vì tôi nghĩ, muốn xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần phải xây dựng nhân tố điển hình của lớp và từ những nhân tố điển hình này tôi nhân diện rộng khắp. Tôi chú ý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lớp. Lúc đầu, tôi phải hướng dẫn các em từng li, từng tí một. Nhưng qua học kỳ II là các em có thể tự hoạt động theo kế hoạch của lớp, lúc ấy giáo viên chủ nhiệm sẽ là cố vấn cho các em trong các hoạt động của lớp. Việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp năng động, sáng tạo sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm rất nhiều trong việc điều hành, quản lý lớp. Các em sẽ là những nhân tố tích cực trong các hoạt động của lớp, của trường. Bên cạnh đó, các hình thức thi đua trong lớp do giáo viên chủ nhiệm và ban cán sự lớp phát động đã kích thích tích cực, tự giác của các em trong lớp. Thông qua đó, xây dựng bạn bè trong lớp, tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và các hoạt động khác, để cùng nhau thực hiện nguyện vọng của cá nhân và tập thể. Hướng dẫn cho ban cán sự lớp tổ chức cho các bạn trong lớp đăng kí danh hiệu thi đua như: con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, thực hiện hoàn thành chương trình rèn luyện đội viên do liên đội phát động Chính nhờ những hình thức hoạt động phong phú đã tạo cho các em gắn bó với tập thể lớp, tin vào tập thể, tin vào khả năng của mình sẽ thành công trong các công việc được tập thể giao cho. Muốn lớp mình có nề nếp tốt thì giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được nề nếp tự quản, bầu chọn được đội ngũ cán sự cốt cán của lớp gồm: Lớp trưởng, 3 lớp phó phụ trách từng mặt, lớp được chia làm 4 tổ, mỗi tổ bầu một em làm tổ trưởng, một em làm tổ phó. Sau khi bầu xong, giáo viên họp đội ngũ cán bộ lớp để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em, đồng thời cho các em tự đăng kí các danh hiệu thi đua và biện pháp thực hiện từ đó có phương hướng chỉ đạo để học sinh thực hiện tốt. Mỗi tổ có một quyển sổ theo dõi học tập và các mặt hoạt động của từng tổ viên trong tổ. Cuối tuần các tổ trưởng tổng hợp báo cáo cho lớp trưởng, lớp trưởng tổng hợp báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần. Lớp trưởng nhận xét tình hình học tập trong tuần rồi đến giáo viên nhận xét chung tình hình học tập của lớp: về ưu điểm và tồn tại. Sau đó nhận xét đánh giá tình hình học tập cùng với nề nếp, tác phong, vệ sinh của từng em để các em tự rút kinh nghiệm và khắc phục trong tuần tiếp theo. Ngoài ra còn giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục phải nhẹ nhàng, nghiêm khắc nhưng cởi mở gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối không che bai, la mắng học sinh. Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như truy bài đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ … Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên. nội quy của nhà trường đề ra: III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: 1. Kết quả thực hiện: Các lớp do tôi chủ nhiệm trong những năm tôi chủ nhiệm hằng năm đều có chất lượng lên lớp thẳng cao. Là một trong những lớp luôn dẫn đầu trong các phong trào hoạt động tập thể. Có nhiều cá nhân là nhóm nòng cốt trong các phong trào hoạt động của liên đội. 2. Bài học kinh nghiệm: Qua nhiều năm công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi đã rút được một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, trước hết giáo viên phải hết lòng tin và yêu học sinh. Phải tạo được thành công ban đầu cho học sinh, giúp các em tự tin vào bản thân mình để từ đó các em phấn đấu đạt kết quả cao hơn. 2. Người giáo viên chủ nhiệm tránh dài tay và sẽ chỉ đạo được công tác chủ nhiệm khi học sinh đã hình thành tổ chức chặt chẽ và đã nêu cao được tinh thần tự quản. Lúc ấy bằng nhiều phương pháp linh hoạt, giáo viên chủ nhiệm phát huy tính chủ động của học sinh là chính. 3. Luôn luôn học tập, vận dụng sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp và tự đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, nhất là trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp. 4. Bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, phải có sự khích lệ đúng mức của Ban giám hiệu nhà trường, và giáo viên chủ nhiệm phải tìm mọi cách tranh thủ kịp thời những hỗ trợ cần thiết của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường trong công tác chủ nhiệm của mình. 5. Không ngừng nâng cao sự hiểu biết, không tự mãn với những thành quả đạt được ban đầu. Luôn trao dồi đạo đức cách mạng, rèn luyện tác phong để trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Phải gây được uy tín với các em, với phụ huynh và với tập thể giáo viên. 6. Để làm tốt công tác giáo dục học sinh chưa ngoan, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận, giữa các Thầy Cô. Vai trò của Thầy Cô chủ nhiệm là rất quan trọng. Trong lớp, Thầy Cô chủ nhiệm như là cha mẹ của các em, có tiếng nói điều chỉnh kịp thời các hành vi chưa đúng của các em, là tấm gương cho các em noi theo. 3. Kết luận chung: Vấn đề giáo dục học sinh chưa ngoan trong nhà trường luôn luôn là đề tài nóng hổi, được sự quan tâm của hầu hết Thầy Cô, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Để có thể giáo dục tốt các em học sinh chưa ngoan, cần phải có sự phối hợp cả gia đình, xã hội và nhà trường. Vai trò giáo dục của gia đình và xã hội giữ vị trí quan trọng, vai trò giáo dục của nhà trường mang yếu tố quyết định giúp các em có thể có những định hướng đúng đắn, để sau này trở thành những người con có ích cho xã hội, hiếu thảo trong gia đình và chính các em sẽ là tấm gương tốt cho các em học sinh khác mà người Thầy sẽ luôn lấy các em ra làm ví dụ khi giáo dục các h
Giải Pháp Giáo Dục Học Sinh Chưa Ngoan
GD&TĐ – Ở bất kỳ cấp học nào, loại hình trường học nào cũng có đối tượng HS chưa ngoan. Giáo dục học sinh (HS) chưa ngoan trong nhà trường là một vấn đề cấp thiết nên luôn nhận được sự quan tâm của thầy cô, nhà trường và đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm (GVCN).
Hình ảnh thân thiện của cô trò Trường THCS Lý Thường Kiệt, Quảng Nam
Nhận diện và làm bạn với HS chưa ngoan
HS chưa ngoan thường là các HS có những hành động khiến cho lớp học luôn trong trạng thái bất ổn. Đó là những em thường xuyên ăn nói thô tục, có xu hướng giải quyết xung đột với bạn bè bằng vũ lực, thích nổi loạn, thường xuyên đứng ngoài cuộc các hoạt động học tập của lớp. Không chỉ xem thường bạn bè, thầy cô, những đối tượng này thường có những hành vi chống đối GV.
Có rất nhiều nguyên nhân làm cho HS chưa ngoan nhưng tựu trung lại là do yếu tố gia đình và môi trường sống. Nguyên nhân thường thấy nhất là: gia đình của HS thường xảy xung đột, mâu thuẫn, thiếu hạnh phúc; đời sống kinh tế của gia đình HS khó khăn; HS mất căn bản kiến thức ở một vài bộ môn; bị bạn bè lôi kéo vào những hoạt động vô bổ, sai trái và cũng không loại trừ lý do một vài thầy cô nào đó có những hành động khiến cho các em mất lòng tin, không tìm được nơi chia sẻ.
Trong thực tế, các nguyên nhân thường đi chung với nhau. Vì thế GVCN phải tìm ra đâu là nguyên nhân chủ yếu. Xác định được nguyên nhân, GV sẽ tìm phương pháp giáo dục thích hợp… nhằm giúp HS chưa ngoan khắc phục khó khăn, thay đổi những suy nghĩ lệch lạc. Bên cạnh đó, GVCN còn phải thông báo kịp thời cho Ban giám hiệu nhà trường về các trường hợp mà thầy cô cho rằng đấy là những HS chưa ngoan, để cùng có biện pháp phối hợp. GVCN không nên cho rằng bản thân đủ bản lĩnh cảm hóa, giáo dục các em bởi vì nếu như thầy cô rơi vào trạng thái bất lực, thiếu phương pháp sư phạm thì hậu quả sẽ rất lớn.
Để có thể đưa ra những giải pháp giáo dục HS chưa ngoan một cách đúng đắn, GVCN cần phải tìm hiểu như thông qua GVCN các năm học trước, thông qua hồ sơ lưu của HS, đặc biệt là tìm hiểu hoàn cảnh hiện tại của HS đó. Mỗi HS có một hoàn cảnh riêng biệt. Nếu như GVCN nắm bắt kịp thời hoàn cảnh sống của HS chưa ngoan rồi kết hợp với gia đình sẽ tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp uốn nắn HS. GV phải tìm hiểu về tâm sinh lý của HS vì HS cấp phổ thông có nhiều biến đổi về tâm sinh lý. Không còn là trẻ con nhưng cũng chưa là người lớn để tự mình giải quyết mọi tình huống. Để khẳng định mình, một vài em dễ có những hành xử bộc phát, bất ngờ mà chính các em cũng chưa ý thức được hậu quả. Các em thường bắt chước một cách thụ động những hành vi của những người gần gũi với mình.
Do ảnh hưởng của truyền hình, phim ảnh…, các em có thể chọn cho mình một thần tượng và sống theo thần tượng ấy một cách hăm hở, vô thức… Nếu như GVCN cập nhật kịp thời những thông tin này của xã hội thì HS sẽ cảm nhận thầy cô của mình không lạc hậu và như vậy tiếng nói của thầy cô sẽ có ảnh hưởng hơn đối với các em. Bạn bè, những mối quan hệ trong lớp, ngoài lớp cũng là điều mà thầy cô chúng ta cần quan tâm. Các em có thể tâm sự hàng giờ với bạn mà không bao giờ hé nửa lời với thầy cô, một số các HS còn xem bạn bè mình là chuyên gia tư vấn.
Bạn bè xấu, tốt ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của các em. Thầy cô phải can thiệp một cách tế nhị, đúng lúc, kịp thời… và nếu như thầy cô trở thành những người bạn của các em thì không gì tốt bằng. Có những HS học giỏi toán, lý, hóa nhưng lại kém văn, sử và các môn KHXH khác hoặc ngược lại… Vấn đề của người thầy là thấy được điểm mạnh điểm yếu của HS, khuyến khích ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm cho các em. Khi các em khẳng định thế mạnh của mình, nhận sự khuyến khích của mọi người xung quanh, các em sẽ cố gắng nhiều hơn ở các mặt còn yếu kém.
Các quy tắc
Quy tắc 2H (Hiểu rõ – Hợp tác): Tìm hiểu tình hình của lớp thông qua GVCN cũ, tìm hiểu một cách hết sức tế nhị HS “chưa ngoan” từ cán bộ lớp, từ những em thuộc “nhóm” của HS “chưa ngoan” để từ đó có kế hoạch hợp lý. Khi tiếp xúc với phụ huynh của HS “chưa ngoan”, không nên gay gắt, dồn dập việc báo cáo, phê bình con em họ (vì hơn ai hết, họ đã từng nghe nhiều lời ca thán và đã biết rõ con em mình) mà phải có thái độ cởi mở, tế nhị và chân tình, tạo cho phụ huynh HS một sự tin tưởng, thân mật và sẵn sàng hợp tác với GV để giáo dục con em họ trở thành người tốt.
Quy tắc 2Q (Quan tâm – Quan sát): GVCN quan tâm bằng cách trực tiếp hỏi thăm HS chưa ngoan về hoàn cảnh gia đình, về bạn thân. Đồng thời thông qua gia đình, qua GVBM để hiểu thêm về năng lực học tập cũng như thái độ của HS chưa ngoan và gián tiếp giúp đỡ, quan tâm, ân cần hơn đối với các em. Biết cách phối hợp với các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường để gắn các em vào những hoạt động mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em những khó khăn. Kêu gọi và yêu cầu các em khác trong lớp quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn, không nên xem thường và cô lập bạn, hoặc phê phán một cách thái quá dẫn đến mâu thuẫn. Quan sát, theo dõi HS chưa ngoan hằng ngày về việc thực hiện nội quy trường lớp, về thái độ học tập bằng nhiều hình thức khác nhau và GVCN không nên vội vàng kết luận một vi phạm nào đó khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện nhằm tránh làm tổn thương các em.
Quy tắc 2N (Nghiêm khắc – Ngọt dịu): Người thầy cần xử lí những vi phạm của tất cả HS trong lớp với một thái độ nghiêm khắc, công bằng và tôn trọng, cho dù đó là cán bộ lớp hay HS chưa ngoan. Tuy nhiên cần lưu ý, nếu nghiêm khắc quá mức sẽ dẫn đến phản sư phạm vàcó tác dụng ngược. GVCN phải là người tận tụy với công việc, có tình yêu thương, tấm lòng độ lượng và bao dung đối với HS. Quy tắc này khiến HS chưa ngoan cảm thấy mình không bị ghét bỏ hay bị bỏ rơi. Tình cảm thầy trò dần được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, những chia sẻ… Khi đó những lời động viên, những định hướng của GVCN sẽ đạt hiệu quả cao.
Quy tắc 2Đ (Động viên – Định hướng): Trong việc giáo dục HS chưa ngoan thì sự động viên và khuyến khích có vai trò rất quan trọng. Vì vậy GVCN phải là người trực tiếp quan tâm, động viên các em trên tinh thần “mưa dầm thấm đất”. Cần huy động và vận hành cả guồng máy: Gia đình – Giáo viên – Đoàn thể – Các tổ chức xã hội – Bạn bè HS – và cả cá nhân HS chưa ngoan để động viên, hỗ trợ, giúp đỡ các em có được tinh thần, động cơ và ý thức trong rèn luyện đạo đức và học tập. HS chưa ngoan thường là những em không định hướng được mình cần phải rèn luyện những gì để hoàn thiện năng lực học tập và đạo đức. Vì vậy GVCN sẽ là người giúp các em biết quan tâm đến bản thân, gia đình… cũng như suy nghĩ đến việc chọn nghề để các em có hoài bão, ước mơ và trở thành người hữu ích.
Quy tắc 2T (Tâm huyết – Trách nhiệm): Chính tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho GVCN có được năng lực “cảm hóa” HS nói chung, HS chưa ngoan nói riêng. Đó là năng lực gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với HS về mặt tình cảm và ý chí. Tâm huyết và trách nhiệm nằm trong nhân cách của người thầy giáo. GVCN phải dùng nhân cách của mình để tác động vào HS, giáo dục các em nên người.
Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Chưa Ngoan Ở Lớp 2 Trường Tiểu Học Thạch Lâm 2
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN Ở LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC THẠCH LAM 2 Người thực hiện: Hứa Thị Hợi Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thạch Lâm II SKKN thuộc lĩnh vực: Chủ nhiệm THANH HOÁ, NĂM 2018 MỤC LỤC STT Số trang 1 Mở đầu. 1.1 Lý do chọn đề tài. 1.2 Mục đích nghiên cứu. 1.2.1 Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa ngoan 1.2.2 Một số biện pháp thích hợp để thay đổi hành vi, nhận thức cho học sinh chưa ngoan. 1.3 Đối tượng nghiên cứu. 1.4 Phương pháp nghiên cứu. 2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1 Cơ sở lí luận. 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 2.2.1 Đặc điểm tình hình của xã Thạch Lâm. 2.2.2 Thực trạng việc giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan ở trường tiểu học Thạch Lâm 2. 2.2.3 Thực trạng học sinh chưa ngoan ở lớp 2 trường Tiểu học Thạch Lâm 2. 2.3 Các giải pháp tổ chức thực hiện. 2.3.1 Nghiên cứu kỹ đặc điểm tâm lý của học sinh chưa ngoan. 2.3.2 Linh hoạt, khéo léo trong cách xử lý tình huống. 2.3.3 Thường xuyên gần gũi, chuyện trò với học sinh để nắm bắt được những tâm tư, nguyện vọng của các em. 2.3.4 Tăng cường phối hợp với gia đình. 2.3.5 Chú ý bồi dưỡng tình cảm cho các em, giúp đỡ các em trong học tập. 2.3.6 Kịp thời động viên, khích lệ học sinh khi có sự tiến bộ. 2.3.7 Lồng ghép việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học. 2.4 Giải pháp. 2.4.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh chưa ngoan. 2.4.2 Linh hoạt trong ứng xử sư phạm với học sinh chưa ngoan 2.4.3 Tạo môi trường thân thiện để gần gũi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học sinh chưa ngoan. 2.4.4 Tăng cường phối hợp với gia đình học sinh 2.4.5 Quan tâm, giúp đỡ các em trong học tập và chú ý bồi dưỡng tình cảm cho các em thông qua các môn học. 2.4.6 Kịp thời động viên, khích lệ học sinh. 2.4.7 Xây dựng riêng góc “Kỷ luật không nước mắt.” 2.4.8 Nâng cao kĩ năng lồng ghép việc tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh trong các môn học. 3 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiện. 4 Kết luận, Kiến nghị 4.1 Kết luận 4.2 Kiến nghị 1.Mở đầu. 1.1. Lý do chọn đề tài: Mục tiêu giáo dục Tiểu học giúp học sinh pháp triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học đi lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xât dựng bảo vệ Tổ quốc[1]. Giáo dục đạo đức là bộ phận rất quan trọng đặc biệt là ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học sinh, giúp các em ứng xử đúng dắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày. Có thể nói nhân cách của học sinh tiểu học thể hiện trước hết qua hành vi đạo đức. Điều này thể hiện qua thái độ ứng xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với thầy cô, bạn bè qua thái độ học tập, rèn luyện hàng ngày. Đất nước ta đang ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển đó chúng ta đã có rất nhiều học sinh ngoan, chăm chỉ, đạt thành tích cao trong học tập. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những em học sinh chưa ngoan, chưa chịu khó trong học tập đó chính là những học sinh chưa ngoan. Vậy tại sao chúng ta lại có những học sinh chưa ngoan? Có rất nhiều nguyên nhân dân đến học sinh chưa ngoan, trong đó phải kể đến nguyên nhân về phía bản thân các em, gia đình, môi trường giáo dục và “xã hội” nơi các em ở. Bởi vì tuy cái tốt có sức lay động cảm hóa sâu sắc đến tình cảm của con người nhưng rất lâu, còn cái xấu lại có sự lan truyền và rất nhanh. Vì vậy tình trạng học sinh chưa ngoan vẫn còn tồn tại trong các nhà trường. Đặc biệt đối với học sinh tiểu học là lứa tuổi đầu tiên đến trường, các em đang chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập nên các em có sự mất cân bằng về mặt tâm lý. Cùng với sự khác biệt về hoàn cảnh sống, cách giáo dục của mỗi gia đình, sự giáo dục chưa đúng cách của một giáo viên trong nhà trường, tác động của xã hội đã nảy sinh ra những học sinh có tính cách bất thường, không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Chúng ta cũng đã biết không phải tự nhiên mà trẻ trở thành chưa ngoan. Bởi vì con người vốn hiền lành, không ai sinh ra đã hung dữ nhưng do quá trình sống con người lớn lên chịu sự tác động của các yếu tố xung quanh như bạn bè, gia đình, xã hội… đã hình thành nên những tính cách khác nhau. Điều này cho thấy môi trường giáo dục, môi trường sống cũng góp phần hình thành nên nhân cách, đạo đức lối sống của mỗi cá nhân. Vì thế mà nhiệm vụ của người giáo viên là phải phối hợp với gia đình giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em tham gia tích cực vào các hoạt động chung của nhà trường và trở thành những học sinh ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập để sau này trở thành những công dân tốt, góp phần xây dựng đất mước. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói: “ Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền.” Muốn làm được điều này thì người giáo viên cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm, có khả năng dùng lời nói để tác động đến tâm hồn học sinh, có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người. Do đó mà năng lực sư phạm của người giáo viên rất quan trọng, nó quyết định tới yếu tố thành công của việc giáo dục đạo đức cho học sinh và nhất là học sinh chưa ngoan. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để có thể giáo dục được các em thành một học sinh ngoan, chăm chỉ học tập. Với lương tâm, trách nhiệm của người làm công tác giáo dục tôi đã tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và đã tìm ta được. “Một số biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan ở lớp 2 trường Tiểu học Thạch Lâm 2”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.2.1. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trang học sinh chưa ngoan. Học sinh chưa ngoan do rất nhiều nguyên nhân có thể là do gia đinh, xã hôi, bạn bè, nhà trường, môi trường sống của học sinh. + Gia đình: Các thành viên trong gia đình chưa thật sự gương mẫu trong đời sống như cách ứng xử, lời nói giữa các tành viên trong gia đình. Việc dạy con cái chưa phù hợp có ảnh hưởng trực tiếp đến các em. + Nhà trường: Trong nhà trường chưa tổ chức được nhiều các buổi hoạt động ngoại khóa về các hành vi ứng xử đạo đức. Một số giáo viên chưa thật sự chú trọng đến việc dạy đạo đức cho học sinh. + Môi trường xã hội: Các em tiếp xúc với những người xung quanh không có ý thức trong lời nói, hay chơi với những bạn chưa ngoan sẽ bị “lây” cách sỗng của họ. 1.2.2. Một số biện pháp thích hợp để thay đổi hành vi, nhận thức cho học sinh chưa ngoan. + Các thành viên trong gia đình phải là những người gương mẫu trong chuẩn mực đạo đức. Nhắc nhở dạy bảo con cái kịp thời khi phát hiện con cái cớ các cử chỉ, hành động chưa đúng vời hành vi đạo đức. Phân tích cho con cái hiểu rõ đâu là đúng, đâu là sai. Dành nhiều thời gian nói chuyện với con cái để từ đó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của con cái. + Nhà trường cần tạo ra nhiều hơn các hoạt động giao lưu về ứng xử đạo đức cho học sinh. Giáo viên cần nắm bắt được tâm lý của học sinh bằng cách nói chuyện, gần gũi hơn với học sinh. Dành nhiều thời gian hơn cho việc dạy học đạo đức. + Khuyến khích các em chơi với những bạn có hành vi ứng xử đạo đực ngoan ngoãn, lễ phép. Xây dựng một môi trường xã hội không có tệ nạn xã hội. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là: Các biện pháp nhằm giáo dục đạo đức của cho học sinh chưa ngoan ở lớp 2 trường Tiểu học Thạch Lâm 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. – Nghiên cứu lý luận về tâm lý học – Quan sát, phỏng vấn – Khảo sát, điều tra thực tiễn – Dạy thực nghiệm – Phân tích, hệ thống hóa, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận. Đạo đức là một từ Hán Việt được dùng từ thời xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách và giá trị của một con người. Đạo đức là hệ thống quy tắc chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Đạo đức là một nhân tố quan trọng của nhân cách và được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề đánh giá tốt/xấu, đúng/sai, lành/ác, hiền/dữ,.v.v… trong phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt mà đôi lúc còn được gọi là giá trị đạo đức. Đạo đức gắn liền với văn hóa, chủ nghĩa nhân văn, triết học và luật pháp của một xã hội. Hay nói một cách dễ hiểu, đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm hồn con người, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói, hành vi bên ngoài phù hợp với những quy tắc xử sự của cộng đồng, xã hội khiến cho mọi người xung quanh được an ủi, lợi ích và chuyển hóa. Có thể nói đạo đức là cái tốt, cái đúng ở bên trong con người được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, hành vi. Đạo đức là gốc bên trong được chuyển hóa thành lời nói và hành vi tốt đẹp bên ngoài. Tức là con người phải có nhận thức đúng, tốt về sự vật hiện tượng và từ đó có lời nói, hành vi tốt đẹp, đúng đắn với sự vật hiện tượng. Để có được nhận thức đúng cần phải có giáo dục đạo đức con người không phải có sẵn mà phải được giáo dục. Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng phải được thực hiện ngay từ lúc nhỏ, lứa tuổi Tiểu học. Giáo dục đạo đức là một mặt của hoạt động giáo dục trong nhà trường nhằm mục tiêu hình thành ở trẻ các giá trị đạo đức ứng với các nguyên tắc đạo đức, xây dựng cho trẻ những tính cách nhất định, giúp cho các em có nhận thức khoa học và hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với mọi người xung quanh, với cộng đồng và với chính mình. Sở dĩ có những học sinh chưa ngoan là vì còn có những nhận thức chưa đúng đắn về giá trị cũng như những hành vi đạo đức. Chính vì vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh là vô cùng quan trọng và lại quan trọng và cần thiết hơn với những học sinh có những nhận thức hoặc hành vi chưa đúng đắn – được gọi là chưa ngoan. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 2.2.1. Đặc điểm tình hình của xã Thạch Lâm. Thạch Lâm là một xã miền núi thuộc vùng 135, điều kiện kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn, đất nông nghiệp ít chủ yếu trồng các loại hoa màu như: Sắn, ngô, mía và cây lâu năm. Dân cư sống rải rác ở các thôn bản dọc theo hai bên bờ con sông Bưởi và sông Ngang. Tổng số hộ dân trong toàn xã chỉ có 606 hộ bằng 2626 khẩu; trong đó số hộ nghèo là 305 hộ bằng 1504 khẩu, chiếm 60,2%; dân trong xã chủ yếu là người dân tộc Mường, đường xá đi lại giữa các thôn bản còn nhiều trở ngại, dân trí thấp. Học sinh đi lại khó khăn nhất là vào những ngày mưa lũ, gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của nhà trường. 2.2.2. Thực trạng việc giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan ở trường Tiểu học Thạch Lâm 2. a. Nhà trường: Trường tôi công tác đóng trên địa bàn xã Thạch Lâm, huyện Thạch Thành. Đây là vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, số học sinh hộ nghèo còn nhiều, mặt bằng chung dân trí thấp, dân cư sống thưa thớt và xa trường. Nhà trường chưa có nhiều tranh ảnh, đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo phục vụ các môn học, thời gian dành cho các buổi hoạt động ngoại khóa, rèn kĩ năng sống còn ít. Tuy công tác xã hội hoá giáo dục cũng đã được đẩy mạnh và quan tâm hơn, song hiệu quả chưa cao. b. Giáo viên: Đội ngũ cán bộ giáo viên trong nhà trường 100% đạt trên chuẩn về trình độ đào tạo, luôn đoàn kết, nhiệt tình tâm huyết với nghề song năng lực sư phạm của mỗi giáo viên cũng chưa được đồng đều, còn một bộ phận giáo viên trình độ năng lực chuyên môn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu giáo dục hiện nay c. Phụ huynh: Phụ huynh chưa thực sự chú ý đến việc học tập của con em mình, chỉ lo lằm ăn, chưa xây dựng góc học tập, chưa thường xuyên nhắc nhở việc học bài ở nhà của học sinh. điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn ít có thời gian quan tâm, chăm sóc con cái còn phó mặc cho giáo viên. d. Học sinh: 100% học sinh lớp tôi đều là người dân tộc Mường, ngoài giao tiếp với thầy cô giáo bằng tiếng phổ thông các em có thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng Mường). Ở trường Tiểu học Thạch lâm 2 nhiều em cũng đã được sự quan tâm chăm sóc của gia đình, được trang bị đầy đủ đồ dùng sách vở để đến trường, được kèm cặp chu đáo nên đa số các em ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập, thành tích học tập của các em đã có nhiều tiến bộ. Song vẫn còn có những em thiếu sự quan tâm, giáo dục đúng cách của gia đình do trình độ dân trí thấp, còn mang nặng phong tục tập quán lạc hậu, do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên bố mẹ chỉ lo đi lên rừng, lên nương phát rẫy trồng trọt. Có gia đình đến mùa vụ cả bố và mẹ đi làm rồi ở luôn trên đồi cả tháng để mặc con cái ở nhà với ông bà lại được ông bà chiều chuộng nên rất ít nghe lời, chỉ mải chơi, thích quậy phá không chịu học hành dẫn đến thành tích học tập thấp, đấy chính là những học sinh chưa ngoan. Trước tình trạng đó đa số các giáo viên đã khuyên bảo, răn đe, xử phạt nhưng hầu hết chỉ có hiệu quả tức thời, các em vẫn trở lại như cũ thậm chí lỳ lợm hơn. Điều này không những khó khăn cho giáo viên mà còn ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Trước thực trạng như vậy, giáo viên chủ nhiệm đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh để phối hợp giáo dục song hiệu quả chưa cao. Nhưng chưa có biện pháp nào thực sự đem lại hiệu quả giáo dục như mong muốn. Bản thân tôi là một giáo viên chủ nhiệm lớp có học sinh chưa ngoan, tôi cũng đã từng áp dụng những biện pháp nêu trên nhưng cũng không mấy hiệu quả và tôi đã băn khoăn, trăn trở, tìm hiểu nghiên cứu tìm ra một số biện pháp mới có hiệu quả hơn để giáo dục các em trở thành một học sinh ngoan, chăm chỉ học tập. 2.2.3. Thực trạng học sinh chưa ngoan ở lớp 2 Trường Tiểu học Thạch Lâm 2 . Sau khi nhận lớp được giáo viên chủ nhiệm trước của lớp đó trao đổi về tình hình học tập cũng như hành vi ứng sử của mốt số học sinh chưa ngoan trong lớp. Qua việc trực tiếp đứng lớp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm tôi cũng đã nhận ra trong lớp còn một số học sinh chưa ngoan là do từ môi trường, gia đình, bạn bè, hàng xóm đặc biệt là có 2 em học sinh: Em Quách Nhật Long, em Long là một học sinh có thể lực tốt nhưng em rất lười học. Giờ học trên lớp em không chú ý nghe giảng chỉ làm việc riêng hay chọc ghẹo bạn. Qua tìm hiểu tôi biết được bố mẹ em hay đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về nhà, em ở nhà với ông bà được ông bà chiều chuộng. Ở nhà em hay đi chơi, hay nói dối ông bà về việc học tập của mình. Tối đến em không chịu học, ông bà hay mở ti vi cho xem. Em Diến là học sinh lưu ban của lớp chính vì thế mà em có những lời nói, hành vi khác với các em học sinh khác. Em tỏ ra là mình hơn tuổi các bạn nên thường xuyên quấy rối như lấy đồ của các bạn mang đi giấu và thậm chí là đánh các bạn trong lớp. Trong giờ học em ít chú ý nghe giảng, hay quên sách vở, đồ dùng học tập. Ở nhà em không chịu học bài chỉ mải chơi, bố mẹ nhắc nhở thì em ngồi học cho có lệ rồi vẽ vời lung tung. 2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện. Từ thực trạng trên để góp phần thay đổi hành vi, nhận thức của học sinh chưa ngoan ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số các giải pháp sau: 2.3.1. Nghiên cứu kỹ đặc điểm tâm lý của học sinh chưa ngoan. Học sinh chưa ngoan là những học sinh có cá tính đặc biệt, không bao giờ làm đúng theo quy định chung của nhà trường. Thường có cá tính mạnh mẽ, hành động và lời nói thái quá, hay gây gổ với bạn bè. Vậy để có thể giáo dục được những học sinh này, giáo viên phải nắm chắc được đặc điểm tâm lý của các em bằng nhiều hình thức như: tham khảo các tài liệu nói về tâm lý học sinh chưa ngoan. Ngoài ra các giáo viên có thể tham khảo từ các đồng nghiệp của mình và qua quan sát thực tế. Từ đó biết phân tích, vận dụng một cách linh hoạt các đặc điểm này vào giáo dục các em, giúp các em ngày càng tiến bộ. 2.3.2. Linh hoạt, khéo léo trong cách xử lý các tình huống. Học sinh chưa ngoan thường thì ngày nào cũng mắc lỗi, chỉ là ngày ít, ngày nhiều. Nhưng không phải cứ mắc lỗi là giáo viên nhắc nhở ngay. Bởi vì ngày nào cũng nhắc nhở sẽ gây tâm lí lo sợ khi đến lớp, khiến cho các em luôn ở trong trạng thái phản kháng những điều nhỏ nhất xảy ra với các em, làm cho các em ngày càng khó giáo dục. Vì vậy trong khi xử lý tình huống giáo viên cần phải bình tĩnh, điềm đạm đôi khi giáo viên cũng phải “nhịn”, biết “chờ đợi” một chút. 2.3.3. Thường xuyên gần gũi, chuyện trò với học sinh để nắm bắt được những tâm tư, nguyện vọng của các em. Đối với học sinh chưa ngoan việc gần gũi với các em quả là một vấn đề không đơn giản. Để gần gũi được với các em, giáo v iên chủ nhiệm phải hết sức tế nhị, phải đặt mình vào vai một người chị để hỏi chuyện các em, khi hỏi chuyện phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ thì các em mới dễ thổ lộ những tâm tư, tình cảm của mình với giáo viên mà không chút ngân ngại. Khi đã dành được tình cảm của các em, giáo viên chủ nhiệm sẽ dựa vào đó để khuyên bảo các em. Trước sự khuyên bảo có ý nghĩa các em sẽ dễ dàng nghe và làm theo điều cô dạy bảo. 2.3.4. Tăng cường phối hợp với gia đình. Giáo viên chủ nhiệm vừa là đại diện cho nhà trường đẻ giáo dục học sinh, để liên lạc với gia đình và vừa phải làm cho quan hệ giữa học sinh với xã hội trở nên gắn bó, chặt chẽ hơn. Có như vậy mới tạo cho các em có được một môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần hình thành nên nhân cách của các em. 2.3.5. Chú ý bồi dưỡng tình cảm cho các em, giúp đỡ các em trong học tập Những học sinh chưa ngoan bên cạnh việc nghịch ngợm quậy phá, đa số các em có tâm hồn xơ cứng, ngôn ngữ nghèo nàn. Khi muốn nói với ai điều gì thì lời nói cộc lốc, hành động thô bạo, các em rất hay nói tục, nói bậy. Điều này cho thấy khả năng giao tiếp và ứng xử của các em rất kém. Vì vậy việc quan tâm, giúp đỡ, bồi dưỡng tình cảm cho các em là rất quan trọng. Nó góp phần làm cho các em cảm thấy được yêu thương, biết yêu thương từ đó biết giúp đỡ mọi người xung quanh, biết trân trọng bản than mình và trở nên chăm chỉ học tập. Bên cạnh việc giúp đỡ các em về mặt tâm lí, giáo viên còn phải giúp đỡ các em về mặt học tập. Bởi vì học tập kém cũng là một trong những nguyên nhân làm cho các em ngại học, chỉ thích chơi, nói chuyện riêng trong lớp và bị bạn bè xa lánh, dẫn đến các hành vi gây sự. Chính vì thế mà trong mỗi tiết học giáo viên chủ nhiệm phải luôn quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn kèm cặp các em để các em hiểu bài, làm được bài. Từ đó các em sẽ cảm thấy tự tin hơn, không cảm thấy xấu hổ với bạn bè do học chưa tốt. 2.3.6. Kịp thời động viên, khích lệ học sinh khi có sự tiến bộ Động viên, khích lệ kịp thời đó là một giải pháp rất quan trọng, nó có tác động rất lớn đến kết quả hoạt động của mỗi cá nhân mà nhất là đối với học sinh chưa ngoan. Khi làm bất cứ việc gì nếu như không có sự động viên, khích lệ kịp thời thì rất dễ gây ra sự chán nản. Vì vậy mà đối với học sinh tiểu học thì mỗi giáo viên lại càng phải thường xuyên động viên, khen thưởng kịp thời khi các em có sự tiến bộ. 2.3.7. Lồng ghép việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một việc làm thường xuyên, liên tục. Trong bất kỳ môn học nào giáo viên cũng có thể lồng ghép các nội dung giáo dục hành vi ứng xử đạo đức, những phẩm chất tốt đẹp để các em học tập. Chính vì vậy mà việc giáo dục đạo đức cho các em thông qua các môn học là rất cần thiết. 2.4. Giải pháp 2.4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh chưa ngoan. Ví dụ: Qua nghiên cứu, tìm hiểu và qua quan sát thực tế tôi thấy phần lớn những học sinh chưa ngoan đều là những em nhanh nhẹn, hiếu động hơn các bạn cùng tuổi. Từ nhỏ đã thích tự do, thích
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Thcs
dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh. 2.2 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012 B. NỘI DUNG I. MỤC TIÊU: 1. Những nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh: Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo dục đạo đức nói chung và giảng dạy các môn giáo dục nói riêng trong nhà trường phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Hình thành cho học sinh có ý thức tự giác về các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các chuẩn mực đạo đức được quy định. Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức. Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này. Giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực thể hiện sự tôn trọng và quý trọng lẫn nhau của con người. Giáo dục HS thành một công dân hoàn thiện cả tài và đức. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: Xuất phát từ những thực trạng của công tác giáo dục cho học sinh của trường THCS An Tân và tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn đơn vị đã đề ra các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay như sau: 1. xây dựng trong nhà trường một môi trường thật tốt để giáo dục đạo đức cho học sinh: 1.1 Ý nghĩa: Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh là: Cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là "nhà trường", là môi trường mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội. 1.2 Nội dung: - Tổ chức, sắp xếp, tu sửa, cải tạo bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường làm sao cho toàn trường đều toát lên ý nghĩa giáo dục thân thiện đối với học sinh: Vừa qua được sự đầu tư của các cấp lãnh đạo môi trường cảnh quan của trường ngăn nếp, sạch đẹp đã góp phần thu hút học sinh ham thích đến trường và ham thích hoạt động. - Tạo nên bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một nề nếp sinh hoạt của nhà trường, biểu hiện như sau: Nề nếp tốt: Phát huy tinh thần tự quản của học sinh, trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc có nội quy từng lớp và toàn trường. Có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường: giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối quan hệ phải thực sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh. Học sinh không vô lễ, không khúm núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy, không tham gia vào tệ nạn xã hội. 1.3 Cách làm: Về Ban giám hiệu: - Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh ngay từ đầu năm học trên cơ sở dựa vào tình hình thực trạng đạo đức của học sinh, tình hình thực tế của địa phương để định ra, nội dung, biện pháp, thời gian, chỉ tiêu cho phù hợp. - Thường xuyên nắm tình hình tư tưởng đạo đức của học sinh một cách cụ thể thường xuyên, lâu dài, phổ biến và những tình hình có tính chất thời sự, cá biệt có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với học sinh từ đó có biện pháp khắc phục. - Quản lý sâu sát lực lượng GVCN đây là lực lượng quan trọng và quyết định sự hình thành nhân cách của HS. - Thành lập tổ giám thị cung cấp thông tin về GV và HS để kịp thời uốn nắng và giáo dục những hành vi sai chuẩn mực. - Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, đầu tư ngân sách để cải tạo cảnh quang sư phạm: trồng cây xanh, hoa kiểng, trang trí các khẩu hiệu, nội quy của từng phòng học và trong khu vực trường, xây dựng cổng rào an toàn cho học sinh. - Thường xuyên tổ chức lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh thông qua buổi lao động thường xuyên cần giáo dục đầy đủ mục đích, ý nghĩa công việc cho học sinh, phải có phân công nhiệm vụ cụ thể cho lớp, quy định rõ thời gian và kết quả phải đạt được, phải có kỷ luật, biểu dương kịp thời những học sinh tốt, tập thể lớp tốt. Cũng năm 2011 - 2012 nhà trường cũng có kế hoạch phân công khu vực lao động thường xuyên ở khu vực sân trường và khu WC trong quá trình theo dõi thấy có hiệu quả. Tổ chức họp tham khảo ý kiến hội đồng giáo viên để đưa ra những quy định cụ thể về nội quy nhà trường, nhiệm vụ của học sinh, dựa trên cơ sở điều lệ trường trung học cơ sở của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Kết hợp với chính quyền địa phương giải tỏa các hàng quán trước cổng trường, xử lý những HS vi phạm có tính chất nghiêm trọng và các điểm vui chơi giải trí và truy cập internet xung quanh trường theo đúng quy định của ngành chức năng. Tổ chức các phong trào thi đua thường xuyên, liên tục, bảo đảm tính công bằng, trung thực, phù hợp với năng lực và nhu cầu của các em. Quán triệt chung giáo dục đạo đức HS là trách nhiệm của HĐSP nhà trường mà nòng cốt là GVCN. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xây dựng lớp thành những tập thể vững mạnh, có lực lượng cốt cán làm nòng cốt, làm hạt nhân cơ bản của lớp, là trợ thủ đắc lực cho giáo viên chủ nhiệm. Đối với giáo viên Phải gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh. Phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh, đồng nghiệp, bản thân phải là tấm gương cho học sinh noi theo. Cung cấp thông tin của HS cho GVCN nắm bắt và kịp thời giáo dục. Đối với Đoàn đội: Chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, rèn luyện đội viên theo năm điều Bác Hồ dạy. Tổ chức chào cờ đầu tuần nhận xét hoạt động tuần qua đó phê bình những cá nhân hoặc tập thể chưa tốt, sinh hoạt đội hàng tuần để tuyên truyền giáo dục và rèn luyện HS có ý thức tốt. Tổ chức các hoạt động thi đua và các hoạt động ngoại khóa tạo sân chơi lành mạnh cho các em. Thành lập BTĐ của Liên Đội mục đích theo dõi các hoạt động của HS qua đó thông báo cho GVCN các HS có những biểu hiện xấu để kịp thời phát hiện giáo dục. Giáo dục tinh thần yêu nước cho các em thông qua việc sưu tầm địa chỉ đỏ, thăm viếng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở địa phương, chăm sóc đền thờ liệt sĩ, viếng thư thăm hỏi các chú bộ đội ở đảo Trường xa . 2. nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD 2.1 Ý nghĩa: Môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THCS, vì thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. 2.2 Nội dung: Làm cho Cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên biết tầm quan trọng của môn GDCD đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh , để từ đó họ có sự thay đổi nhận thức và có những hành động tích cực hơn. Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nhất là giáo viên dạy GDCD phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành giảng dạy, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải xác định được vai trò, vị trí của môn GDCD, trách nhiệm của bản thân, Giáo viên dạy môn GDCD cần quán triệt mục tiêu môn học trong quá trình dạy học. Phải nắm rõ cái đích cuối cùng cần đạt được trong dạy học GDCD là hành động phù hợp với các các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Nếu học sinh không có chuyển biến trong hành động thì việc dạy học không đạt hiệu quả. Chương trình môn GDCD là sự nối tiếp việc dạy và học môn đạo đức ở tiểu học, đồng thời chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên trên hoặc đi vào cuộc sống lao động Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn GDCD là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh 2. 3 Cách làm cụ thể đối với môn GDCD: Đối với Ban giám hiệu nhà trường Tham mưu với UBND xã tổ chức chuyên đề về giáo dục đạo đức học sinh cho cán bộ, đảng viên và giáo viên trong toàn xã, thông qua đó quán triệt nhận thức nâng cao vai trò vị trí của bộ môn GDCD trong nhà trường. Triển khai các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình môn GDCD, quy chế 40 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đánh giá xếp loại học sinh THCS. Kiểm tra việc thực hiện chương trình, hồ sơ sổ sách, giáo án, dự giờ các tiết lên lớp của giáo viên dạy môn GDCD. Đầu tư mua sắm sách, báo, tài liệu, trang bị tủ sách pháp luật, tạo điều kiện tốt cho giáo viên tham khảo và cập nhật kiến thức phục vụ giảng dạy bộ môn GDCD. Đối với giáo viên dạy môn GDCD Phải tự rèn luyện bản thân để có những phẩm chất và năng lực của người giáo viên, có trình độ chuyên môn và năng lực giảng dạy tốt. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Nghiên cứu nắm vững các văn bản quy định về chương trình giảng dạy môn GDCD, chế độ cho điểm đánh giá chất lượng bộ môn. Tích cực sưu tầm, sáng tạo đồ dùng dạy học tự làm, cải tiến đồ dùng dạy học hiện có để gây hứng thú cho học sinh khi học trên lớp. Khi dạy trên lớp thường xuyên quan sát hành động và thái độ học tập, hành vi đạo đức của học sinh để đưa ra những kết luận đúng đắn về tình hình lớp giúp ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm nắm để có biện pháp kịp thời uốn nắn các em. Trong kiểm tra ngoài việc cho đề kiểm tra giống như các môn khác cần thiết kế thêm các bài tập tình huống, lập kế hoạch, viết báo cáo 3. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạoo đức cho học sinh: 3.1 Ý nghĩa: GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường. Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các biện pháp giúp GVCN định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương đối với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Nội dung: - GVCN phải Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh: Đầu năm học GVCN phải thu thập thông tin về gia đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, cách giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN Phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô, bạn bè và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết từ đó thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng về đạo đức học sinh. GVCN cần nắm bắt số điện thoại của phụ huynh HS để kịp thời liên lạc với phụ huynh khi có tình huấn xấu xảy ra hoặc HS cá biệt cố tình không cung cấp thông tin của GVCN về cho phụ huynh nắm. Ngoài ra GVCN phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của HS, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm. Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp Các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu tạo cho nó được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen. Phải trân trọng truyền thống sẳn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điền kiện cụ thể. Rèn luyện khung cán sự lớp có khả năng quản lý và tự quản tốt. Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh công bằng khách quan với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh. GVCN nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học: Để vận dụng tốt vào công tác chủ nhiệm của mình, GVCN phải nắm vững mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học. Để cho học sinh thực hiện chủ động, sáng tạo nhiệm vụ của lớp trong phong trào chung, GVCN phải nắm vững kế hoạch, nội dung và cách thực hiện của trường, của các đoàn thể trong tuần, tháng học kỳ và cả năm học. Phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương. Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, theo dõi thời sự trong nước và quốc tế để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm Để theo dõi nắm bắt toàn diện thực trang của HS GVCN cần phải có mối quan hệ với GVBM và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường đây là việc làm rất quan trọng của GVCN có như vây GVCN mới kịp thời nắm bắt thông tin và có biện pháp GD HS theo đúng chuẩn mực. 3.3 Cách làm: *. Đối với Ban giám hiệu nhà trường Cần thực hiện tốt việc lựa chọn và phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm, những người có phẩm chất và năng lực trong công tác chủ nhiệm . Tạo mọi điền kiện, đôn đốc, giúp đỡ GVCN làm tốt những nhiệm vụ, quyền lợi của GVCN quy định tại điều 31- 32 điều lệ trường trung học. Có kế hoạch cụ thể về công tác chủ nhiệm, có chỉ tiêu rèn luyện phấn đấu phù hợp với thực trạng của trường. Thường xuyên thu nhận thông tin về tình hình diễn biến đạo đức của học sinh do GVCN cung cấp, có biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những tình huống xấu xảy ra. Thường xuyên kiểm tra số sách của giáo viên chủ nhiệm, dự các tiết sinh hoạt lớp của GVCN. Đưa công tác chủ nhiệm vào tiêu chí thi đua khen thưởng, xếp loại cuối năm bên cạnh đó có biện pháp xử lý kịp thời đúng người, đúng trường hợp. *. Đối với GVCN: Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh: (học bạ, hoàn cảnh gia đình.) có nghệ thuật phân loại học sinh để có biên pháp giáo dục đún đắn. Trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh. Trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp. Trao đổi với ban giám hiệu, tổng phụ trách đội, Cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng mà GVCN cần tìm hiểu. Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh. Một năm học GVCN đến nhà học sinh ít nhất một lần để nắm thông tin, thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ. Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, nếu thông tin không pản hồi kịp thời thông tin qua điện thoại hoặc đến nhà. Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học sinh để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả. GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Có kế hoạch thăm nhà học sinh cá biệt theo tuần - tháng. *. Đối với GVBM, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường: Tích cực hỗ trợ GVCN trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, phản ánh kịp thời với GVCN về tình hình học sinh của lớp. Tham gia đóng góp ý kiến trong việc đánh giá xếp loại Hạnh kiểm, xét kỷ luật học sinh. 4. Khả năng áp dụng: Kể từ khi áp dụng các giải pháp giáo dục trên vấn đề đạo đức của học sinh trong nhà trường nói chung, từng lớp nói riêng đã dần dần cải thiện. Những HS thường xuyên vi phạm cũng đã phần nào sửa đổi, Một số học sinh có biểu hiện chán nản, không thích học, thường xuyên gây mất trật tự trong lớp đã biết nghe lời thầy cô, các em đã biết kiềm chế trong lời ăn tiếng nói, tác phong của mình, khi mắc lỗi các em đã biết nhìn nhận khuyết điểm của mình để sửa lỗi. Nhìn chung thực trạng đạo đức của HS có sự tiến bộ đây là điều đáng mừng đối với tôi và tôi hy vọng tình hình đạo đức HS sẽ tiến bộ hơn nữa trong những năm tới và có thể sử dụng chung cho tất cả các trường THCS trong huyện nói chung 5. Lợi ích kinh tế xã hội Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng thực hiện tôi thấy đạo đức HS của trường THCS An Tân bước đầu có sự tiến triển khá tốt điển hình: Vào cuối năm học tôi nhận thấy những trường hợp kỷ luật của HS đầu năm có sự tiến bộ đảng kể như: Em Nguyễn Thị Thu Thảo lớp 8A1 từ một HS vi phạm kỷ luật nay em đã tiến bộ vượt bật và hiện đang là thành viên của đội sao đỏ của trường; Lỡ Thị Thảo Trinh cũng từ HS vi phạm nay em đã trở thành HS ngoan hiền của lớp không còn những biểu hiện xấu như năm trước.Nhìn chung tình hình đạo đức của HS có sự tiến bộ đây là điều đáng mừng đối với tôi và tôi hy vọng tình hình đạo đức HS sẽ tiến bộ hơn nữa trong những năm tới và có thể sử dụng chung cho cả các trường THCS nói chung. * Thống kê xếp loại Hạnh kiểm của học sinh cuối năm học: 2011 - 2012 + Loại tốt : 154 đội viên chiếm tỉ lệ: 52,5% + Loại khá : 83 đội viên chiếm tỉ lệ: 28,4% + Loại TB : 56 đội viênchiếm tỉ lệ: 19,1% (Không có HS yếu kém) C. PHẦN KẾT LUẬN Trước sự phát triển của xã hội hiện nay thực trạng đạo đức học sinh của các trường THCS có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là đòi hỏi cấp bách của xã hội để xây dựng hoàn thiện những giá trị cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về giáo dục đạo đức cho học sinh đã giúp cho đội ngũ giáo viên và CBQL xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở nhà trường để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mực trong việc giáo dục học sinh, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu tâm, hết lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức. Những vấn đề cơ bản về giáo dục đạo đức cho học sinh cũng đã được thể hiện qua hai con đường cơ bản: * Con đường dạy học các môn học trong và ngoài nhà trường, cụ thể là môn giáo dục công dân. * Con đường hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ một trường THCS An Tân nên có nhiều vấn đề chưa được phân tích một cách đầy đủ, nhưng ít nhiều nó cũng giúp cho chúng ta thấy được thực trạng của đạo đức học sinh hiện nay, giúp cho chúng ta định hướng lại một số việc cần phải làm trong thời gian sắp tới để góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh./. KIẾN NGHỊ: Các cấp lãnh đạo, các đoàn thể cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất cảnh quan môi trường xanh, đẹp, thân thiện. BGH nhà trường cần tăng cường tham mưu với lãnh đạo xã, công an để tiện nắm bắt thông giữa nhà trường - gia đình - xã hội tin kịp thời nhăn chặn và xử lý một số HS cá biệt vi phạm. An Tân, ngày 01 tháng 02 năm 2013 Đánh giá của Hội đồng Khoa học Người viết Trường THCS An Tân Nguyễn Hữu Giàu
Bạn đang xem bài viết Kinh Nghiệm Giáo Dục Học Sinh Chưa Ngoan trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!