Cập nhật thông tin chi tiết về Mấy Biện Pháp Tăng Cường Hợp Tác Quốc Tế Bảo Vệ Chủ Quyền An Ninh Biên Giới Quốc Gia Trong Tình Hình Mới mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
B iên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Địa bàn biên giới, vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng, là “tuyến đầu”, “cửa ngõ”, là “phên dậu” của mỗi quốc gia. Chủ quyền, an ninh biên giới là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Một quốc gia có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự vững mạnh của chế độ, của dân tộc. Lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, dựng nước phải gắn bó chặt chẽ với giữ nước. Do đó, trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam, biên cương – địa đầu Tổ quốc, là nơi thiêng liêng phải được bảo vệ vững chắc. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các lực lượng vũ trang, trong đó Bộ đội biên phòng (BĐBP) giữ vai trò chuyên trách, nòng cốt.
Lãnh thổ, biên giới quốc gia là vấn đề thiêng liêng, quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc, đồng thời là vấn đề nhạy cảm trong các quan hệ quốc tế. Trong lịch sử nhân loại, không ít trường hợp do những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ không thoả đáng mà dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở những quy mô khác nhau.
Biên giới trên đất liền nước ta có chiều dài gần 5.000 km, tuyến biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc dài 1.400 km, biên giới Việt Nam với Lào dài 2.340 km, biên giới Việt Nam với Campuchia dài 1.137 km. Địa bàn biên giới nước ta có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nhưng địa hình biên giới chủ yếu là rừng núi, giao thông đi lại khó khăn, là nơi cư trú, sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số với dân cư thưa thớt, phân bố không đều; đời sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, cơ sở chính trị các khu vực trọng điểm biên giới còn mỏng, yếu; các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và hoạt động của đoàn thể quần chúng còn hạn chế. Trong những năm qua, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số nơi trên biên giới trở nên phức tạp, bọn tội phạm hoạt động ráo riết nhằm chống phá cách mạng đã làm cho không ít quần chúng nhân dân hoang mang, dao động, thậm chí một số người giảm sút lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Chủ quyền, an ninh biên giới là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chính vì vậy, biên giới, những khu vực địa bàn trọng điểm chiến lược phải được bảo vệ vững chắc. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các lực lượng vũ trang, trong đó BĐBP giữ vai trò chuyên trách, nòng cốt. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần phải quán triệt tư duy mới về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao chất lượng công tác tổ chức nắm tình hình và đấu tranh chống các loại tội phạm, tập trung chỉ đạo chặt chẽ biện pháp trinh sát, thực hiện tốt công tác điều tra cơ bản, xây dựng mạng lưới “thế trận lòng dân”, thế trận bí mật… ; kết hợp nắm tình hình từ xa với quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng, hướng và địa bàn trọng điểm, trọng tâm là nắm âm mưu, thủ đoạn của địch, nhất là hoạt động tình báo, gián điệp, xâm nhập của bọn phản động lưu vong, bọn phản động móc nối với phần tử chống đối trong nước và các loại tội phạm hình sự buôn bán, vận chuyển các chất ma túy, chất nổ, vũ khí, tiền giả, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới; tập trung xác lập và đấu tranh trong các chuyên án, bắt, xử lý nghiêm bọn tội phạm có tổ chức, bọn cầm đầu; ngăn chặn kịp thời hoạt động của bọn phản động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới;
Để góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội ở những khu vực trọng điểm biên giới, trong hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề về chủ quyền an ninh biên giới, lãnh thổ cần thực hiện tốt mấy biện pháp cơ bản sau:
Đảng và Nhà nước ta khẳng định nhất quán: “Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện chính sách xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng; giải quyết các vấn đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau”. Đây là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, là định hướng cho các cấp, các ngành, các lực lượng quán triệt và thực hiện trong quá trình giải quyết các vấn đề về biên giới, vùng biển với các nước láng giềng, khu vực. Vì vậy, để giải quyết vấn đề biên giới với các nước láng giềng, chúng ta phải dựa trên các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế và đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để thoả thuận với từng nước láng giềng về những nguyên tắc cụ thể, nhằm tìm ra giải pháp cơ bản, hài hoà và hợp lý. Trong khi thực hiện pháp luật về biên giới lãnh thổ và luật biển không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ưu tiên tiến hành đàm phán với các bên. Phải căn cứ vào thực trạng tồn tại về biên giới lãnh thổ Việt Nam với các nước láng giềng và khu vực để đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thông qua đàm phán giải quyết biên giới, lãnh thổ với các nước, xây dựng đường biên giới pháp lý ổn định lâu dài.
Quá trình đàm phán về lãnh thổ biên giới với các nước phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng và Chính phủ, phát huy trách nhiệm của đoàn đàm phán, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia về biên giới và các ngành chủ quản, học tập kinh nghiệm quốc tế, không chủ quan áp đặt. Ngăn chặn các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thủ địch gây chia rẽ quan hệ truyền thống giữa nước ta với các nước láng giềng và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng đến quá trình đàm phán.
Để xây dựng và phát triển đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục củng cố, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Đồng thời, loại bỏ những sơ hở, những điều kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ, chủ quyền trên vùng biển để tạo cớ can thiệp, gây mất ổn định tình hình đất nước. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế, đặc biệt với các nước láng giềng và các nước trong khu vực, các cấp, các ngành và mỗi người dân cần quán triệt tốt mục tiêu, yêu cầu này; tránh xung đột, đối đầu, gây căng thẳng làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ chung.
Trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc, phấn đấu hoàn thành công tác phân giới cắm mốc vào năm 2008; ký Nghị định thư về phân giới cắm mốc và Hiệp định về quy chế biên giới thay thế Hiệp định tạm thời năm 1991. Không mất cảnh giác, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào, khẩn trương triển khai thực hiện Dự án tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới và đàm phán thoả thuận phương án giải quyết khu vực Ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Cămpuchia. Trên tuyến biên giới Việt Nam – Cămpuchia, triển khai phân giới cắm mốc theo Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, hoàn thành theo đúng thời gian mà hai nước đã thoả thuận.
Trên cơ sở các hiệp định về quy chế biên giới đã ký kết với Trung Quốc, Lào và Cămpuchia, BĐBP chủ động phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới của nước láng giềng để tiến hành các hoạt động quản lý, kiểm soát, bảo vệ đường biên giới chung. Thông qua cơ chế phối hợp đã thoả thuận và công tác đối ngoại để phát hiện giải quyết những vấn đề nảy sinh, không để xảy ra tranh chấp, xung đột trên biên giới làm phức tạp thêm tình hình và gây căng thẳng ở khu vực biên giới.
Trong khuôn khổ luật pháp Việt Nam quy định, các lực lượng chức năng khác đứng chân ở khu vực biên giới cần có quan hệ tốt với các lực lượng tương ứng của nước láng giềng, thoả thuận hợp tác về những vấn đề thuộc lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Các cấp, các ngành, các lĩnh vực của nước ta phải có sự phối hợp đồng bộ trong quan hệ hợp tác với nước láng giềng và khu vực.
Ngày nay, quan hệ quốc tế liên tục được mở rộng, phát triển đa phương, đa dạng, trên nhiều lĩnh vực. Lợi ích quốc gia thường đan xen trong các quan hệ đó. Vì vậy, phải tranh thủ mọi quan hệ, mọi thời cơ, điều kiện thuận lợi để xúc tiến và thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ. Trong quan hệ với các nước cần phát huy yếu tố tương đồng, nhu cầu về sự ổn định phát triển của mỗi nước để thương lượng, nhân nhượng lẫn nhau. Theo đó, với Trung Quốc cần dựa vào quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc, mối quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản, thực hiện phương châm 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Với Lào, cần phát huy mối quan hệ hữu nghị đặc biệt vốn có, củng cố biên giới hoà bình, hữu nghị, đập tan mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch. Với Cămpuchia, cần khơi dậy mối quan hệ truyền thống giữa ba nước Việt Nam – Lào – Cămpuchia trong hai cuộc kháng chiến; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu gây mất ổn định biên giới Việt Nam – Cămpuchia.
Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề biên giới, vùng biển là một nội dung quan trọng của công tác đối ngoại biên phòng nhằm tạo môi trường ổn định, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới./
Tăng Cường Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Trong Tình Hình Mới
Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ trì hội nghị. Đồng chủ trì hội nghị có Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; đồng chí Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương.
Tham dự hội nghị có đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh; đồng chí Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; đồng chí Vũ Đức Đam, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Văn Nên, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Cùng dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; Tổng Biên tập các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương; các đồng chí Bí thư, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, công tác bảo vệ ANQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Năm 1998, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Nghị quyết về Chiến lược ANQG, lần đầu tiên Đảng ta hệ thống nhận diện những nguy cơ đe dọa ANQG và đề ra các chủ trương, giải pháp cơ bản chỉ đạo về bảo vệ ANQG.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết về Chiến lược ANQG cho thấy: Dưới sự lãnh đạo thường xuyên, sát sao của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, ANQG được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững độc lập, tự chủ, đảm bảo toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ của đất nước.
Ổn định chính trị và môi trường an ninh, an toàn đã trở thành một trong những lợi thế, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, tạo lập vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, trong ANQG, ANKT được xác định là nền tảng, là nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội. Để tăng cường bảo đảm ANKT, Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành Chỉ thị số 12 ngày 05/01/2017 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANKT trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”.
Qua 03 năm triển khai thực hiện chủ trương đặc biệt quan trọng của Đảng về bảo vệ ANKT, có nhiều vấn đề cần đánh giá, sơ kết để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Đảng ủy trực thuộc Trung ương và Tỉnh ủy, Thành ủy tổ chức sơ kết, đánh giá 03 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 12 của Bộ Chính trị…
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Thượng tướng Bùi Văn Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an quán triệt những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW; trình bày Báo cáo tóm tắt sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị…
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ ANQG và Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo đảm ANKT, các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách.
Cần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình hình, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và nêu cao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm ANKT. Cụ thể hóa nội dung Nghị quyết số 51-NQ/TW, Chỉ thị số 12-CT/TW thành các chương trình, kế hoạch, nghị quyết chuyên đề phù hợp với đặc điểm, tình hình cơ quan, đơn vị, địa bàn và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.
Chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội gắn với công tác bảo đảm ANQG, chủ động ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống… Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ ANQG, bảo vệ ANKT; chịu trách nhiệm chính và trước hết xử lý vấn đề an ninh ở lĩnh vực, địa phương mình. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu và các loại tội phạm….
Bảo Vệ Vững Chắc Chủ Quyền, An Ninh Biên Giới Quốc Gia
Trong công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, BÐBP tỉnh đã chủ trì, phối hợp với các lực lượng chức năng đấu tranh thành công hàng trăm chuyên án lớn, triệt phá nhiều đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Ðấu tranh hiệu quả với các hành vi vi phạm chủ quyền, an ninh biên giới; các hoạt động lợi dụng tuyên truyền đạo trái pháp luật, thành lập “nhà nước Mông”.
Trong công tác đối ngoại, BÐBP tỉnh tổ chức thực hiện tốt công tác hội đàm hai bên biên giới cấp tỉnh, cấp đồn, trạm theo đúng quy định. Duy trì phong trào “kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới” và kết nghĩa các đồn, trạm với lực lượng bảo vệ biên giới của các nước láng giềng, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển. Trong thời điểm tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, BÐBP tỉnh đã triển khai hiệu quả các biện pháp phòng, chống; quyết liệt trong công tác tuần tra, kiểm soát, thành lập 60 tổ chốt chặn với 251 cán bộ, chiến sĩ tham gia trên tuyến biên giới.
Dự báo thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực vẫn có diễn biến phức tạp, khó lường; địa bàn biên giới rộng, địa hình hiểm trở, hoạt động của các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, liều lĩnh với tính chất, quy mô ngày càng lớn; hoạt động xuất, nhập cảnh trái phép, di cư tự do, tuyên truyền, đạo trái pháp luật còn tiềm ẩn nguy cơ phức tạp… sẽ tác động không nhỏ đến công tác quản lý, bảo vệ biên giới.
Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Ðảng ủy, Bộ Chỉ huy BÐBP tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị phát huy thành tích đã đạt được, tiếp tục quán triệt, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng, chủ động phối hợp với các lực lượng, địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cùng với sự quan tâm đầu tư cho xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới của Ðảng, Nhà nước, BÐBP tỉnh tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật để nhân dân hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Tiếp tục tham gia hiệu quả công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở và phát triển kinh tế – xã hội ở các xã biên giới. Tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân – dân, phát huy hiệu quả phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”, xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới. Thực hiện tốt công tác đối ngoại biên phòng, kiểm soát xuất, nhập cảnh; tăng cường trao đổi thông tin, tuần tra song phương, phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm.
Quản Lý, Bảo Vệ Chủ Quyền, An Ninh Biên Giới, Biển Đảo Quốc Gia
Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới, vùng biển đảo, vùng trời của Tổ quốc là một nội dung đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm”; “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”.
Xây dựng thế trận biên phòng toàn dân là nghệ thuật tổ chức, bố trí, sử dụng lực lượng và là một bộ phận trong nghệ thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, trong đó, lực lượng BĐBP là nòng cốt, chuyên trách để tiến hành các hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng thế trận biên phòng toàn dân là nhiệm vụ của Đảng, của Nhà nước, trực tiếp là cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cấp tỉnh, huyện có biên giới trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, BĐBP cần phải nắm vững những quan điểm cơ bản của Đảng, những yếu tố tác động và thực trạng nền biên phòng hiện nay để xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững chắc. Đặc biệt, phải nắm vững thành phần, mối quan hệ, yêu cầu, nội dung của thế trận biên phòng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển, đảo của Tổ quốc. Bài viết xin đề cập một số nội dung cơ bản trong xây dựng thế trận biên phòng toàn dân trong tình hình mới.
Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ sở chính trị – nền tảng của thế trận biên phòng toàn dân. Xây dựng nền tảng chính trị ở khu vực biên giới ngày càng vững mạnh có vị trí rất quan trọng trong xây dựng thế trận biên phòng toàn dân, vì đây là “cái gốc”, cái nền tảng của hệ thống cơ sở chính trị ở khu vực biên giới, bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền, công an, dân quân, mặt trận, các tổ chức quần chúng ở địa phương. Đây là những nhân tố cơ bản, là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của nhân dân các dân tộc, là nơi tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương nói chung và là nhiệm vụ bảo vệ khu vực biên giới nói riêng.
Trong xây dựng thế trận biên phòng toàn dân thì điều quan trọng nhất là xây dựng “thế trận lòng dân”, đồng thời phải hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, trước hết là chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị – tư tưởng. Việc hoạch định chính sách đối với lực lượng vũ trang phải tạo được sức mạnh, động lực tinh thần, vật chất, chính sách hậu phương quân đội, hậu phương quốc phòng, an ninh, hoạch định chính sách thời bình phải nghĩ đến thời chiến.
Trong quá trình quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng, an ninh và tạo cơ sở vật chất vững chắc cho thế trận biên phòng toàn dân. Đồng thời, tăng cường đầu tư cho phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng nhằm phát huy thế mạnh của từng vùng, từng dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. BĐBP phải chủ động, tích cực làm tham mưu cho chính quyền địa phương và giúp nhân dân xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí. Đây là vấn đề rất quan trọng trong xây dựng thế trận biên phòng toàn dân để quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Thứ hai, tổ chức bố trí các cụm dân cư đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh ở địa phương và tổ chức huy động nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ biên giới. Trước tình hình hiện nay, cần phải tổ chức lại các cụm dân cư, thực hiện định canh, định cư trên toàn tuyến biên giới, xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh tạo thế và lực mạnh cho thế trận biên phòng toàn dân. Đồng thời tổ chức đưa dân ra biên giới, trong quy hoạch các cụm dân cư phải gắn với xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện, đảm bảo giữ vững ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội, văn hóa lành mạnh, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.
Đưa dân ra biên giới phải nhằm mục đích phát triển sản xuất, khai thác tiềm năng kinh tế, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc, ổn định cuộc sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Trong chỉ đạo thực hiện cần căn cứ vào các điều kiện cụ thể của từng địa phương khi đưa dân ra biên giới. Tổ chức đưa dân ra biên giới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là vấn đề chiến lược hết sức quan trọng và cấp bách, có tác dụng trên nhiều mặt đối với việc xây dựng thế trận biên phòng toàn dân.
Do đó, cần tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau: Tổ chức đưa dân ra biên giới gắn chặt với đầu tư ổn định dân cư tại chỗ, đảm bảo dân sở tại có vững thì dân mới đến có chỗ dựa yên tâm sản xuất. Việc đầu tư ổn định dân cư tại chỗ, trước mắt phải củng cố hệ thống chính trị cơ sở, nhất là các tổ chức Đảng, chính quyền ở các xã bản biên giới; xây dựng củng cố lực lượng dân quân tự vệ, công an vững mạnh làm nòng cốt giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương.
Cơ sở chính trị ở các xã biên giới vững mạnh sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần và vật chất hết sức to lớn đối với thế trận biên phòng toàn dân, là điều kiện cơ bản để nhân dân ổn định sản xuất, xây dựng cuộc sống mới; đi đôi với việc củng cố hệ thống chính trị cơ sở phải đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, trong đó, phải xóa được đói ăn, đói chữ, đói thuốc, đói thông tin… giảm được nghèo, giải quyết được những khó khăn, nhất là khó khăn về cơ sở hạ tầng như: Giao thông, thủy lợi, thủy điện, trường học, trạm xá, bưu điện, chợ, thông tin liên lạc… tạo thuận lợi cho khu vực biên giới phát triển sản xuất là cơ sở hết sức quan trọng của thế trận biên phòng toàn dân.
Thứ ba, tổ chức bố trí lực lượng quân sự, quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới trong mọi tình huống. Tổ chức, bố trí sử dụng lực lượng quân sự, quốc phòng – lực lượng chức năng ở biên giới là yêu cầu rất quan trọng của thế trận biên phòng toàn dân. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở biên giới (quân sự, công an, BĐBP, dân quân tự vệ…) vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, thành thạo về kỹ thuật, chiến thuật đủ sức thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, tấn công tội phạm, bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Lực lượng vũ trang, vũ khí, phương tiện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ biên phòng và tác chiến phòng thủ.
Cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, bố trí sử dụng hợp lý, đạt hiệu quả cần quan tâm xây dựng các lực lượng chức năng quản lý Nhà nước theo chuyên ngành (BĐBP, Hải quan, Kiểm dịch…) đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bố trí sử dụng các lực lượng trong thế trận biên phòng toàn dân phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng phát huy tốt sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ biên giới, tác chiến phòng thủ huyện biên giới tạo thành thế trận biên phòng toàn dân liên hoàn, vững chắc vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ biên phòng trong thời bình và tác chiến phòng thủ khi có chiến tranh.
Thứ tư, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng thế trận biên phòng toàn dân. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó, quân đội và công an là lực lượng nòng cốt.
Thế trận biên phòng toàn dân là một bộ phận cấu thành nền biên phòng toàn dân, có đặc điểm nổi bật là tổ chức bố trí lực lượng toàn diện, tổng hợp các tiềm lực của đất nước ở khu vực biên giới, vùng biển theo ý định chiến lược quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, lấy chiến lược quốc phòng, an ninh làm nòng cốt. Vì vậy, tổ chức lãnh đạo, chỉ huy điều hành tập trung thống nhất trong phạm vi toàn quốc, trên từng tuyến biên giới, vùng biển, hải đảo ở từng địa phương là nguyên tắc đảm bảo cho thế trận biên phòng toàn dân thực hiện đúng nhiệm vụ, đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Đại tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Bạn đang xem bài viết Mấy Biện Pháp Tăng Cường Hợp Tác Quốc Tế Bảo Vệ Chủ Quyền An Ninh Biên Giới Quốc Gia Trong Tình Hình Mới trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!