Xem Nhiều 6/2023 #️ Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 6 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng Hàng hải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Written by

[7] BIMCO (2018), The Baltic and International Maritime Council Review 2018, Book Production Consultants Plc.

Bài viết đã đề xuất được các giải pháp quản lý phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu-nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của ngành HH Việt Nam. Cần thực hiện tốt, đồng bộ những giải pháp đã đề xuất, đồng thời kết hợp với việc thực hiện tốt những nội dung sau: Xây dựng chiến lược quản lý phát triển ĐNGV HH đến năm 2022, tầm nhìn đến năm 2030. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách một cách đồng bộ đối với ĐNGV HH để GV yên tâm với công việc giảng dạy, say mê NCKH và tham gia tích cực vào kế hoạch đào tạo-bồi dưỡng của nhà trường, đồng thời thường xuyên tự đào tạo-bồi dưỡng. Bảo đảm bình đẳng về cơ hội đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng và tôn vinh ĐNGV trong cơ sở giáo dục HH công lập và ngoài công lập.

– NCKH là một loại hình công việc rất khó, do đó nhà trường và Bộ chủ quản cần quan tâm đầu tư thực sự đúng mức cho công việc này.

c. Phương pháp thực hành và thực hành nâng cao: Phương pháp này áp dụng cho những người công tác ở xưởng nhà trường và đi tàu, những giảng viên học chuyên ngành kỹ thuật không phải là ngành Hàng hải, cần được đào tạo-bồi dưỡng về chuyên ngành Hàng hải để có thể đào tạo có chất lượng, hiệu quả.

More in this category:

« Một số vấn đề cơ bản về đào tạo trực tuyến giáo dục nghề nghiệp

Mô hình tổ chức phát triển kỹ năng nghề nghiệp của Nhật Bản »

Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giáo Viên Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới

Đội ngũ nhà giáo là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới giáo dục. Bởi vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên luôn được Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn xác định là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm phát triển đội ngũ nhà giáo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu dạy học, đổi mới giáo dục trong thời kỳ mới.

Thi giáo viên dạy giỏi bậc Tiểu học, cấp thành phố Bắc Kạn năm học 2019-2020.

Năm học 2019-2020, toàn ngành có 6.942 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. Thực hiện tinh gọn bộ máy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, mạng lưới trường lớp giảm; số lượng giáo viên, cán bộ quản lý giảm, so với năm học 2015-2016 giảm 463 người. Cụ thể, bậc mầm non giảm 100 người, tiểu học giảm 260 người, TH&THCS tăng 119 người, THCS giảm 95 người, các trường THPT và các trung tâm trực thuộc Sở giảm 127 người (TH&THCS tăng là do việc dồn, ghép trường, đa số thực hiện ghép trường tiểu học với trường THCS).

Hiện nay, tổng số giáo viên trực tiếp đứng lớp là 5.535 người; trong đó mầm non 1.516 người, tiểu học 2.154 người, THCS 1.359 người, THPT 506 giáo viên. So với năm học 2015-2016 giảm 238 người, cụ thể: Mầm non giảm 58 người, tiểu học giảm 128 người, THCS tăng 31 người, THPT giảm 83 người, qua đó góp phần tinh gọn bộ máy. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên hiện nay cơ bản đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chất lượng ngày một nâng cao đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, đối với đội ngũ nhân viên, nhiều đơn vị chưa đáp ứng về số lượng, cơ cấu theo quy định.

Thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng giảng dạy, đội ngũ giáo viên đã và đang nỗ lực phấn đấu để có những bước phát triển toàn diện và vững chắc trong công tác GD&ĐT. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo được đẩy mạnh, toàn tỉnh hiện có 99,8% giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo trở lên.

Để chất lượng đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao, theo Sở Giáo dục và Đào tạo, thời gian tới, ngành tiếp tục thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nhà giáo; thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nhà giáo gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị số 05-CT/TW. Tiếp tục tham mưu thực hiện nghiêm túc công tác rà soát, sắp xếp, tuyển dụng, bố trí cán bộ quản lý và giáo viên; thực hiện việc điều chuyển giáo viên các trường học để cân đối lại đội ngũ giáo viên, khắc phục tình trạng vừa “thừa” vừa “thiếu”. Tham mưu thực hiện công tác tuyển dụng giáo viên nhằm kịp thời bố trí, sắp xếp đội ngũ đáp ứng nhiệm vụ theo từng năm học.

Đồng thời, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên như bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên phổ thông trên địa bàn tỉnh; tổ chức khảo sát lại giáo viên phổ thông, trên cơ sở đó, xây dựng phương án đào tạo lại hoặc có giải pháp cụ thể đối với những giáo viên sau khi sát hạch lại không đạt yêu cầu. Lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phổ thông cốt cán để thực hiện bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, ưu tiên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy lớp 1. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ… theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm của giáo viên trong toàn ngành nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình GDPT mới.

Thực hiện nghiêm túc công tác đánh giá, phân loại, chế độ chính sách đối với giáo viên; đánh giá, phân loại gắn với việc thực hiện chủ trương tinh giản biên chế; rà soát, điều chỉnh kịp thời vị trí việc làm, tổ chức thi, xét thăng hạng và bổ nhiệm, xếp lương theo quy định; thực hiện tốt chế độ, chính sách, làm tốt công tác thi đua, khen thưởng nhằm tạo động lực cho đội ngũ nhà giáo chuyên tâm với nghề.

Cùng với đó, ngành Giáo dục tiếp tục chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm túc Chương trình  giáo dục phổ thông hiện hành, đổi mới  phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá; đổi mới hình thức tổ chức dạy học, tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, dạy học gắn với thực tiễn; tăng cường phụ đạo, giúp đỡ học sinh có học lực yếu, kém và bồi dưỡng học sinh giỏi đảm bảo hiệu quả, chất lượng, tránh chung chung, hình thức. Ngành chỉ đạo tăng cường sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn theo cụm trường; đổi mới nội dung sinh hoạt tập trung theo hướng nghiên cứu bài học và việc sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học…

Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; tổ chức tập huấn chuyên đề về bồi dưỡng học sinh giỏi cho giáo viên cấp THCS và THPT; thực hiện hiệu quả công tác phân luồng học sinh; tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường với phụ huynh học sinh, cộng đồng dân cư trong việc quản lý, giáo dục học sinh trong thời gian ở ngoài nhà trường; tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, hỗ trợ cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của ngành Giáo dục trong việc cùng toàn xã hội tạo ra điều kiện, môi trường tốt nhất cho giáo viên được phát triển và cống hiến./.

Hồng Hạnh

Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Đáp Ứng Yêu Cầu Thời Kỳ Mới

Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Trưởng ban Chỉ đạo Đề án chủ trì hội nghị.

Tham dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư, Phó Bí thư của 21 Tỉnh, Thành ủy các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam.

Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án chủ trì Hội nghị.

Phát biểu tại hội nghị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cách đây 20 năm (năm 1997) với những điều kiện thực tiễn khác với giai đoạn hiện nay. Thực tiễn cho thấy, bộ máy các cấp đang có sự chồng chéo, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu quả. Trước nhiệm vụ, tình hình mới, đòi hỏi Đảng phải sớm có nghị quyết mới về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Qua đó, cần có các giải pháp, quan điểm mới để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.

Phân tích các yếu tố, đặc điểm tác động trong nước và khu vực đến công tác cán bộ, bộ máy hiện nay so với 20 năm trước, đồng chí Phạm Minh Chính cho rằng: Công tác cán bộ như một dây chuyền sản xuất, sau 20 năm mặc dù vẫn còn đầy đủ song có thể thấy dây chuyền ấy đã lạc hậu từ tuyển dụng, bồi dưỡng, giáo dục, quy hoạch, bổ nhiệm, chế độ chính sách… Do đó, đòi hỏi dây chuyền ấy phải được thay đổi để có những sản phẩm phù hợp với điều kiện thực tiễn. Từ thực tiễn 20 năm qua, cần đánh giá đầy đủ những gì làm được, chưa làm được, nguyên nhân để có giải pháp phù hợp; trên cơ sở đó hoàn chỉnh đề cương đề án trình Hội nghị Trung ương 7 sắp tới.

Đối với các nội dung của đề cương thuộc Đề án, đồng chí Phạm Minh Chính cho biết: Trọng tâm định hướng lớn của Đề án này là công tác cán bộ và cán bộ cấp chiến lược. Qua các hội nghị trước còn có nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy các đại biểu cần tập trung cho ý kiến về các vấn đề này. Nếu xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược tốt thì sẽ giúp cho việc xây dựng cán bộ cấp dưới tốt.

Thống nhất cao các nội dung của Đề án, đồng chí Tất Thành Cang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Cần có cơ chế khen thưởng cũng như giám sát đối với người giới thiệu nhân sự kế cận. Nếu nhân sự giới thiệu công tác tốt, thể hiện được năng lực công tác nên xem xét có hình thức biểu dương, khen thưởng cho người giới thiệu. Ngược lại, nếu cán bộ đó có năng lực kém, cần xem xét lại trách nhiệm người giới thiệu. Qua đó, mới khuyến khích tìm kiếm, lựa chọn được người tài, khắc phục vấn đề “lợi ích nhóm” trong đề bạt cán bộ.

Nhấn mạnh đến vai trò của công tác quy hoạch, đào đạo bồi dưỡng cán bộ, đồng chí Nguyễn Xuân Tiến – Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng cho rằng, muốn có đội ngũ cán bộ lãnh đạo tốt, cán bộ chiến lược tốt, đòi hỏi phải làm tốt công tác cán bộ. Bên cạnh đó, để có đội ngũ cán bộ chiến lược có chất lượng cao, cần chú trọng công tác đào tạo từ môi trường đào tạo, chương trình, hình thức đào tạo, tuổi đời đào tạo và phải có chất lượng thực chất. Mặt khác, cần sớm nghiên cứu ban hành quy chế, quy định về phát hiện người tài, có tố chất lãnh đạo; tạo môi trường cho cán bộ được thể hiện tài năng, năng lực của mình.

Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo Giáo Viên Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục Và Cách Mạng Công Nghiệp 4.0

Ðội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công đổi mới giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện nay, vai trò của người giáo viên trong nhà trường mầm non, phổ thông lại càng có ý nghĩa quan trọng. Trong thực tiễn, đội ngũ giáo viên luôn là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, là nhân tố chủ đạo quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo viên luôn được xem là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Theo Rockoff, mặc dù chất lượng của giáo viên hiện rất khó đo lường nhưng một số đặc điểm của giáo viên có thể quan sát được như trình độ đào tạo, kinh nghiệm công tác, năng lực chuyên môn, chính sách được đãi ngộ có thể được sử dụng làm thước đo cho chất lượng [1].

Vì vậy, Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 cũng đã xác định giải pháp “Phát triểnđội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” là giải pháp then chốt, trong đó”củng cố, hoàn thiện hệ thống đào tạo giáo viên, đổi mới căn bản và toàn diện nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáovà cán bộ quản lý giáo dục đủ sức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổthông sau năm 2015″ là một nội dung hết sức quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lương đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 trên cơ sở đánh giá một cách đầy đủ bối cảnh và thực trạng công tác đào tạo giáo viên trong và ngoài nước là việc làm hết sức cần thiết.

2. Khuynh hướng đổi mới đào tạo giáo viên trên thế giới

Theo Cheng & Townsend (2000) và Maclean (1999), tác động của toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế và yêu cầu chính trị xã hội ở các địa phương đã gây ra những thay đổi nhanh chóng trong hầu hết mọi xã hội ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong bối cảnh đó, cải cách giáo dục đã trở thành yêu cầu cấp thiết ở mỗi quốc gia trong khu vực. Là những người chủ chốt trong quá trình đổi mới giáo dục, giáo viên phải đối mặt với nhiều thay đổi, họ được kỳ vọng có năng lực đảm trách tốt nhiều nhiệm vụ, ngoài việc giảng dạy, họ còn phải có trách nhiệm phát triển chương trình giáo dục, chương trình môn học, quản lý trường học, tự bồi dưỡng chuyên môn, tự phát triển bản thân, giúp đỡ các giáo viên mới và làm việc với cha mẹ học sinh, phát triển các quan hệ xã hội hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục của nhà trường . Để đáp ứng với những thay đổi đó, mỗi nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đều có những cải cách trong hoạt động đào tạo giáo viên với những quy mô, hình thức khác nhau.

Người Hàn Quốc tin rằng giáo dục là yếu tố quan trọng thúc đẩy, dẫn dắt và sẽ tiếp tục dẫn dắt họ tới sự thành công trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chính vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã xác định ưu tiên cho giáo dục và thực hiện các cải cách giáo dục như là các nhiệm vụ trọng tâm nhằm đối phó với những thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 . Hàn Quốc đã có rất nhiều đổi mới về đào tạo giáo viên, cải cách giáo dục ở Hàn Quốc gần đây được đưa ra với mục tiêu đào tạo ra những giáo viên giỏi có thể đáp ứng yêu cầu của thời kỳ toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 . Trong quá trình đổi mới, các lĩnh vực như phát triển chương trình đào tạo giáo viên; phương pháp dạy học, giáo dục; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học; năng lực quản lý thông tin, quản lý lớp học và đạo đức của giáo viên đã được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, các vấn đề đánh giá giáo viên, tuyển dụng giáo viên và phân công, sử dụng giáo viên cũng được quan tâm đổi mới [5].

Ở Mỹ, đầu những năm 2000, nghiên cứu của David chúng tôi cho thấy, chương trình đào tạo giáo viên theo kiểu truyền thống đang đứng trước những thử thách gay go ở mọi quốc gia. Những ý kiến phê phán không chỉ nhằm vào chất lượng thấp của đầu vào mà còn chỉ rõ sự thiếu chuẩn bị về nội dung đào tạo. Chương trình đào tạo lúc đó bị coi là vừa thiếu tính học thuật vừa xa rời kinh nghiệm thực tế. Mặt khắc, bởi các yếu tố ảnh hưởng tới việc đào tạo cũng như phương thức đào tạo giáo viên vẫn chưa được xác định rõ, cho nên các chương trình đào tạo giáo viên được đánh giá là có tính chắp vá, rời rạc. Trước bối cảnh đó, đào tạo giáo viên ở Mỹ đứng trước thử thách phải điều chỉnh chương trình đào tạo của mình theo hướng phù hợp với nhu cầu của các trường địa phương. Trải qua hơn 10 năm qua, các chương trình đào tạo giáo viên ở Mỹ đã có những thay đổi, nổi bật là: i) chuyển đổi chương trình đào tạo chuyên môn sang chú trọng nhiều hơn đến kinh nghiệm thực tiễn; ii) phát triển chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia cũng như theo tiêu chuẩn của từng bang, từng địa phương; iii) kết hợp đào tạo kỹ thuật giảng dạy như một phần trong chương trình đào tạo giáo viên, tăng cường trang bị cả phần cứng và phần mềm giảng dạy và thử nghiệm nhiều kỹ thuật giảng dạy mới [6].

– Ở Đức, năm 2000, thực hiện tiến trình Bologna đã có nhiều cải cách trong đào tạo giáo viên. Định hướng nghề nghiệp được nhấn mạnh hơn trong giai đoạn đầu của quá trình đào tạo giáo viên. Về chương trình đào tạo, chương trình khung do các bang xây dựng, các bang cũng đều có chuẩn đào tạo giáo viên, chuẩn gồm 4 lĩnh vực năng lực là dạy học, giáo dục, đánh giá, đổi mới và phát triển, trên cơ sở chương trình khung và chuẩn đào tạo giáo viên đó, các trường tự xây dựng chương trình đào tạo. Đức đã đào tạo giáo viên theo hai bậc nối tiếp cử nhân và thạc sĩ với khung về thời gian đào tạo và số tín chỉ áp dụng theo hệ thống chuyển đổi tín chỉ châu Âu ECTS. Trong đó, chương trình đào tạo giáo viên trung học có cấu trúc ở bậc đại học (để lấy bằng cử nhân) bao gồm 6 học kỳ (180 ECTS) và bậc sau đại học (lấy bằng thạc sĩ) là 4 học kỳ (120 ECTS). Tuy nhiên, đối với chương trình đào tạo giáo viên tiểu học thì ở bậc đại học cũng bao gồm 6 học kỳ (180 ECTS) nhưng bậc sau đại học thì từ 2- 4 học kỳ (60-120 ECTS) tuỳ quy định của từng bang. Ở Đức, sinh viên sau khi có trình độ thạc sĩ mới được đăng ký vào giai đoạn đào tạo giáo viên tập sự. Trải qua quá trình đào tạo tập sự kéo dài 12-18 tháng, giáo viên tập sự phải vượt qua kỳ thi quốc gia trước khi được tuyển dụng làm giáo viên. Mặc dù đào tạo giáo viên theo mô hình đào tạo phân 2 bậc nối tiếp cử nhân và thạc sĩ, nhưng ngay trong bậc đào tạo đại học, chương trình đào tạo đã có song song hai nội dung là khoa học ngành và khoa học giáo dục bao gồm cả thực tiễn giáo dục phổ thông [7, 8].

2.2. Thực trạng đào tạo giáo viên 2.2.1. Về quy mô

Theo Bộ Giáo dục và Ðào tạo, tính đến năm 2017, cả nước có 155 cơ sở đào tạo giáo viên, gồm: 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng, 40 trường trung cấp có ngành đào tạo giáo viên, trong số đó có 14 trường đại học sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm. Mặc dù vẫn còn 49 trường sư phạm nhưng trong thực tiễn gần như tất cả 155 cơ sở đào tạo giáo viên ở nước ta ngoài đào tạo giáo viên còn đào tạo cả các ngành khác ngoài đào tạo giáo viên.

Kể từ khi ngành sư phạm được thành lập, các cơ sở đào tạo giáo viên đã đào tạo cho đất nước hơn 2 triệu giáo viên, trong số đó hiện có hơn 1 triệu giáo viên đang công tác. Quy mô đào tạo giáo viên có thay đổi trong từng thời kỳ, nhưng theo xu hướng ngày càng mở rộng. Tại thời điểm năm học 2013-2014, tổng quy mô sinh viên các ngành sư phạm (bao gồm sinh viên cao đẳng và đại học) xấp xỉ 430.100, trong đó đào tạo hệ chính quy là 232.900 sinh viên (54,2%); đào tạo hệ vừa làm vừa học là 149.050 sinh viên (34,6%) và hệ đào tạo từ xa là 48.150 sinh viên (11,2%). Xét quy mô đào tạo giáo viên ở các cấp, bậc học, cho thấy quy mô đào tạo giáo viên trung học phổ thông chiếm 40,2%; giáo viên trung học cơ sở chiếm 24,2%; giáo viên tiểu học chiếm 13,4% và giáo viên mầm non chiếm 22,2%. Đào tạo sau đại học khoảng 9.341 học viên (bằng khoảng 2,2% quy mô sinh viên đại học và cao đẳng) với 8.811 học viên cao học và 530 nghiên cứu sinh [10] . Tuy phát triển mạnh về quy mô đào tạo, có nhiều cơ sở đào tạo, phân bố cơ sở đào tạo trên phạm vi rộng, nhưng quy mô đào tạo của nhiều cơ sở đào tạo nhỏ dẫn đến tình trạng đầu tư manh mún và dàn trải. Việc phát triển quy mô và mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên trong thời gian qua cũng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên trong cả nước, nhiều trường sư phạm phát triển trong tình trạng thiếu ổn định, năng lực và quy mô đào tạo vượt quá nhu cầu về số lượng giáo viên ở một số ngành học, bậc học, do đó, quy mô đào tạo giáo viên đang lớn hơn nhu cầu thực tế, dẫn đến dư thừa giáo viên được đào tạo. Theo Bùi Văn Quân, dự báo, đến năm 2018 số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường mỗi năm sẽ khoảng 90.000; trong đó: giáo viên mầm non là 29.600; giáo viên tiểu học là 19.200; giáo viên trung học cơ sở là 18.700 và giáo viên trung học phổ thông là 23.030. Trong khi đó, theo khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhu cầu giáo viên phổ thông để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, bắt đầu từ năm học 2019-2020 cho thấy nhu cầu về giáo viên tiểu học, giáo viên THCS và THPT cơ bản không có sự biến động tăng/giảm nhiều so với số giáo viên hiện có, cụ thể :

Đối với tiểu học, bình quân 1 năm có 2% giáo viên nghỉ hưu, tương đương với 7940 giáo viên, như vậy, số cần được tuyển mới bổ sung thay thế giáo viên nghỉ hưu hàng năm sẽ khoảng 3970 giáo viên, cộng với mỗi năm tuyển mới khoảng 3900 giáo viên do tăng quy mô, trung bình mỗi năm sẽ tuyển mới khoảng hơn 7000 nghìn giáo viên .

Đối với THCS, bình quân 1 năm có 2% giáo viên THCS nghỉ hưu, tương đương với 6219 giáo viên, số giáo viên cần tuyển bổ sung thay thế nghỉ hưu là 3110 GV, cộng với số giáo viên cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 1.250 giáo viên.

Đối với THPT, bình quân 1 năm có 2% số giáo viên nghỉ hưu, tương đương với khoảng 3014 giáo viên, số cần được tuyển mới bổ sung thay thế giáo viên nghỉ hưu hàng năm sẽ khoảng 1507 giáo viên, cộng với số giáo viên cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 2.250 giáo viên.

2.2.2. Về mô hình đào tạo 2.2.3. Về chương trình đào tạo 2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên

Trước yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội, của đổi mới giáo dục và đào tạo, đòi hỏi nguồn nhân lực nhà giáo mầm non và phổ thông phải có chất lượng cao. Tuy nhiên hiện nay đang có mâu thuẫn lớn giữa quy mô đào tạo và nhu cầu đào tạo. Với 155 cơ sở đào tạo giáo viên trên phạm vi cả nước, đào tạo khoảng 50.000 sinh viên/năm. Trong khi đó nhu cầu đào tạo giáo viên theo ước tính của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ cần khoảng hơn 50.000 giáo viên/3 năm tới.Bên cạnh đó,năng lực đào tạo giáo viên của nhiều cơ sở đào tạo giáo viên hiện nay còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các cơ sở đào tạo giáo viên không trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Vì vậy, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên trong bối cảnh hiện nay là việc làm hết sức cấp thiết.

Thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên cần phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, gắn với từng vùng, từng địa phương; Chuyển phát triển hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu nhân lực nhà giáo trong bối cảnh mới (đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non và phổ thông mới, trong đó đề nghị chuẩn trình độ đào tạo giáo viên mầm non là cao đẳng sư phạm, chuẩn trình độ đào tạo giáo viên phổ thông là đại học sư phạm).Trong quy hoạch cần nâng cao năng lực của hệ thống, điều chỉnh quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên phù hợp với nhu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục của cả nước và của từng vùng miền và bảo đảm các tiêu chí quy định về chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên, quy mô diện tích đất đai, cơ sở vật chất – kỹ thuật – trang thiết bị. Đặc biệt cần tập trung đầu tư phát triển các trường đại học sư phạm và các cơ sở giáo dục đại học đào tạo giáo viên có uy tín là các trường trọng điểm của các vùng và quốc gia.

Để thực sự cải thiện chất lượng đào tạo giáo viên, ngoài chính sách cho đội ngũ giảng viên sư phạm, những người trực tiếp lao động trong cơ sở đào tạo giáo viên, vấn đề chính sách cho đội ngũ giáo viên có một vai trò đặc biệt quan trọng, chính sách tốt cho đội ngũ giáo viên một mặt khuyến khích, thu hút những sinh viên xuất sắc theo học các ngành sư phạm, một mặt góp phần cải thiện môi trường giáo dục trong nhà trường sư phạm, qua đó thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên. Cải thiện chính sách giáo viên, thực chất là cải thiện cách quản lý và sử dụng lực lượng giáo viên một cách hợp lý, bao gồm các chính sách tuyển chọn, sử dụng và bổ nhiệm giáo viên; đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; đổi mới chính sách tiền lương, ưu đãi đối với giáo viên , … Cần lưu ý rằng, việc đãi ngộ về tiền lương, về các quyền lợi vật chất là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ để đội ngũ nhà giáo phát triển hết khả năng đóng góp của họ. Tạo điều kiện để ghi nhận thành tựu của họ; sử dụng những ý kiến đóng góp của họ, xây dựng một môi trường làm việc đầy cảm hứng, khích lệ sự đóng góp của họ vào công việc phục vụ nhà trường, phục vụ cộng đồng chính là động lực giúp đội ngũ giáo viên phát triển tình cảm nghề nghiệp, củng cố mối hệ gắn bó bền vững đầy tốt đẹp giữa giáo viên với học sinh, đồng nghiệp và nhà trường. Như một hệ quả, khi môi trường sư phạm mẫu mực trong các nhà trường được xây dựng, người giáo viên được tôn vinh thì việc theo học các ngành sư phạm để trở thành các nhà giáo trong tương lai được nhiều học sinh xuất sắc lựa chọn. Với đầu vào tốt, môi trường đào tạo tốt, chắc chắn chất lượng đào tạo giáo viên trong các trường/khoa sư phạm sẽ được cải thiện.

3. Kết luận

Trước thực trạng công tác đào tạo giáo viên hiện nay ở nước ta, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 là hết sức cấp thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[2]. Võ Văn Thắng, Hồ Nhã Phong, Lê Hải Yến, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học An Giang, Số 4 (16), 2017, trang 112 – 120.

[3]. Bùi Kiên Trung, Nguyễn Đức Hòa, Lê Thu Thủy, Giáo dục 4.0 – Tầm nhìn mới cho giáo dục tương lai , Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia – Đào tạo trực tuyến trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, 2017, trang 51- 64.

[4]. The Hong Kong Institute of Education, 2004, Reform of Teacher Education in the Asia-Pacific in the New Millennium Trends and Challenges, Published by Kluwer Academic Publishers.

[5]. Emely D. Dicolen, South Korea’s Teacher Education Innovations: Impact and Implications , International Journal of Education and Learning Vol.6, No.1 (2017), pp.67-78.

[6] David G. Imig, The State of Teacher Education in the 21st Century in the USA, Asia -Pacific Journal of Techer Education & Development, December 2002, Vol.5, No.2, pp.241-254.

[8] Lê Quang Sơn, Đào tạo giáo viên – kinh nghiệm CHLB Đức, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (40), 2010.

[9]. Francis Ries, Cristina Yanes Cabrerab & Ricardo González Carriedo, A Study of Teacher Training in the United States and Europe, The European Journal of Social and Behavioural Sciences, EJSBS Volume XVI (eISSN: 2301-2218).

[10]. Bùi Văn Quân, 2016, Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, thực trạng và quan điểm đổi mới , Đại học Thủ Đô – Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia – Đào tạo giáo viên tại các trường đại học đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

[11]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu Hội nghị Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai việc xây dựng và chuẩn bị các điều kiện để áp dụng Chương trình, Sách giáo khoa mới, Hà Nội, tháng 12/2017.

[12]. Đinh Xuân Khoa, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền, Phát triển chương trình đào tạo và mô hình đào tạo giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 1, tháng 1, 2018.

chất lượng, đào tạo, giáo viên, đổi mới, công nghiệp 4.0.

Enhancing the quality of teacher training to meet the requirements of education innovations in the integrated period of time and industry 4.0

It is necessary to enhance the quality of teacher training to meet the requirements of education innovations in the integrated period of time and industry 4.0. This paper endeavors to analyze current issues of teacher training in Vietnam and other countries. The critique is expected to provide some useful implications and solutions to improve the quality of teacher training to meet the needs of society.

Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!