Xem Nhiều 3/2023 #️ Một Số Giải Pháp Thực Hiện Chiến Lược Quốc Phòng, Chiến Lược Quân Sự Việt Nam # Top 10 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Một Số Giải Pháp Thực Hiện Chiến Lược Quốc Phòng, Chiến Lược Quân Sự Việt Nam # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Thực Hiện Chiến Lược Quốc Phòng, Chiến Lược Quân Sự Việt Nam mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Sáng 11-3, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức phiên họp Hội đồng khoa học đánh giá, nghiệm thu đề tài cấp quốc gia “Một số giải pháp thực hiện Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam” do Viện Chiến lược Quốc phòng chủ trì thực hiện. Đại tướng Ngô Xuân Lịch – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm chủ nhiệm đề tài.

Nghiên cứu giải pháp thực hiện Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam để tổ chức thực hiện có hiệu quả, đáp ứng toàn diện yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của nhiệm vụ nghiên cứu, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quan tâm chỉ đạo Viện Chiến lược Quốc phòng trong quá trình tổ chức nghiên cứu. Ban Chủ nhiệm đề tài là các vị lãnh đạo chủ chốt của Bộ Quốc phòng, chỉ huy, lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị, các vị tướng lĩnh, nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm và năng lực thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đã tổ chức thực hiện đề tài đúng tiến độ, mục tiêu và nội dung đề ra.

Tại phiên họp, Hội đồng đánh giá cao giá trị lý luận và thực tiễn của đề tài; kết quả nghiên cứu đã cung cấp luận cứ khoa học, đề xuất kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng nội dung, biện pháp tổ chức rõ ràng, cụ thể trong triển khai thực hiện Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam. Hội đồng đã thống nhất đánh giá đề tài đạt loại xuất sắc.

T.K  

Chiến Lược Quốc Phòng, Chiến Lược Quân Sự Việt Nam

Từ đó đến nay, trong Cương lĩnh, các nghị quyết, chỉ thị, Đảng ta luôn thống nhất cao quan điểm xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam cùng với các chiến lược khác để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, chúng ta mới chỉ thực hiện một số chiến lược về quân sự, chưa từng thực hiện một chiến lược nào về quốc phòng, nên khi đất nước hòa bình, chúng ta cần tiến hành sự nghiệp quốc phòng đích thực để bảo vệ đất nước thì chưa có đủ cơ sở khoa học để xây dựng Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Trước tinh thần trách nhiệm cao với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đã làm việc tận tụy, trách nhiệm và thống nhất đưa ra khái niệm về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (năm 1996), nhưng chưa trở thành nhận thức của mọi người, nhất là những người đã trải qua hai cuộc chiến tranh, nên ít nhiều cũng ảnh hưởng, tác động đến quá trình nghiên cứu, dẫn đến Chiến lược Quốc phòng chậm hoàn thành. Chính vì thế, trong ba kỳ Đại hội X, XI, XII của Đảng đều chỉ rõ: “Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh và các chiến lược chuyên ngành khác”(2), “Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới…”(3). Từ xưa đến nay, dân tộc ta đều mong ước được sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Thực hiện nghị quyết của Đảng và đáp ứng niềm mong mỏi của nhân dân, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam.

Khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng luôn bám sát đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các nghị quyết của Đảng về công tác quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, thống nhất một số quan điểm cơ bản, như: “Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc… Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội… Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế… Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng…”(4). Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, quốc phòng, như: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”; sức mạnh nhân dân là vô địch, đoàn kết toàn dân, vũ trang toàn dân; xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; chính trị trọng hơn quân sự, “người trước, súng sau”… Quá trình xây dựng, chúng ta đã kế thừa truyền thống, tư tưởng quân sự, quốc phòng của dân tộc: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “chúng chí thành thành”, “ngụ binh ư nông”; “đánh địch bằng quân sự, chính trị, ngoại giao và “mưu phạt nhi tâm công” làm cho kẻ thù lung lay ý chí, hạ vũ khí, đầu hàng, tắt lửa chiến tranh… Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự, quốc phòng của thế giới và chủ động, tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0); tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, với sự tham gia của nhiều tướng lĩnh, nhà khoa học và xin ý kiến các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ; chuẩn bị nghiêm túc, công phu kết quả thể hiện trong 21 đề tài, công trình tổng kết… làm cơ sở để hoàn thiện hai chiến lược quan trọng này.

Để Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam đi vào cuộc sống, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo sự thống nhất về nhận thức và sự đồng thuận trong xã hội về sự cần thiết phải xây dựng hai chiến lược này; từ đó đề cao tinh thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện. Trước hết, cần hiểu rằng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, mang tính chất hòa bình, tự vệ, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng – nhân tố quyết định. Trong đó, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của LLVT nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân. Một trong những nội dung quan trọng của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là nhằm xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược xác định rõ một số tình huống quốc phòng, đồng thời dự kiến các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.

Theo quan điểm của Đảng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam dự báo các đối tượng quốc phòng cả bên trong và bên ngoài, chỉ rõ tính chất, đặc thù của đối tượng, làm cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận biết và đấu tranh. Mục tiêu của chiến lược là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền hòa bình vững chắc của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; tham gia bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; ngăn chặn nguy cơ chiến tranh và xung đột vũ trang; đẩy mạnh hợp tác và đấu tranh quốc phòng; xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược. Đồng thời, xác định phương hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Theo đó, đến năm 2030, trên cơ sở nền kinh tế đất nước, cần tập trung xây dựng quân đội hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài ra, chiến lược còn xác định rõ các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong tổ chức thực hiện chiến lược. Trong đó, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định thắng lợi; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lợi ích cao nhất của quốc gia-dân tộc. Kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; kiên trì, kiên quyết đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, dựa vào luật pháp quốc tế và cơ chế, quy tắc khu vực. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho các lực lượng chủ động đưa ra quyết định không thể nhân nhượng, sẵn sàng tự vệ khi chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc bị xâm phạm; đánh bại mọi hành động xâm lược, bảo vệ vững chắc của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đề ra nguyên tắc về đối nội và đối ngoại; trong đó, tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, quốc tế; chính sách quốc phòng, xây dựng lòng tin chiến lược; chỉ đạo công tác chuẩn bị, hoạt động phòng thủ, tiến công, giành và giữ quyền chủ động trong mọi tình huống. Đồng thời, đề ra phương châm chỉ đạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” cả trong đối nội và đối ngoại, thời bình và thời chiến; độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc là “bất biến” và phải giữ “trong ấm, ngoài êm”; lấy con người làm trung tâm, “người trước, súng sau”. Quan điểm quốc phòng của ta là, thời bình thực hiện sự nghiệp quốc phòng là của dân, do dân và vì dân; thời chiến bám trụ, bám dân để chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; chủ động tích cực đấu tranh trên các lĩnh vực; kết hợp đấu tranh phi vũ trang và vũ trang. Trong mọi tình huống, kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; chủ động tự bảo vệ, theo phương châm: Làng giữ làng, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh, không trông chờ, ỷ lại. Trên cơ sở đó, đề ra phương thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hợp tác và đấu tranh quốc phòng theo từng tình huống. Để thực hiện mục tiêu đó, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, nhằm đảm bảo “Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn bớt thù”.

Xây dựng Chiến lược Quân sự Việt Nam nhằm cụ thể hóa nội dung cốt lõi của Chiến lược Quốc phòng, đó là: Nghệ thuật sử dụng sức mạnh quân sự Nhà nước, toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định trên nền tảng quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân. Nội dung cốt lõi của Chiến lược Quân sự là: Nghệ thuật tổ chức, chỉ đạo, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh; xác định đối tượng; nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; mục tiêu chiến lược, phương châm, phương thức tiến hành chiến tranh; xây dựng các kế hoạch tác chiến chiến lược; chuẩn bị các điều kiện chính trị, tinh thần, cơ sở vật chất; xây dựng thế trận; chuẩn bị lực lượng; vận dụng các hình thức tác chiến chiến lược. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng… nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh, bảo vệ sự thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.

Trên cơ sở dự báo đối tượng tác chiến, hình thái chiến tranh, chiến lược đề ra tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, phương thức tiến hành của từng hình thái chiến tranh; khẳng định chiến tranh nhân dân phát triển vẫn là phương thức chủ yếu của Việt Nam, nhằm đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng vũ khí, phương tiện công nghệ cao, các hình thái chiến tranh, trên các môi trường tác chiến mới (không gian mạng-không gian vũ trụ). Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân kết hợp giữa chiến tranh nhân dân địa phương với các cuộc chiến tranh của các binh đoàn chủ lực; coi trọng và phát huy mọi loại vũ khí, trang bị hiện có, khai thác, sử dụng vũ khí hiện đại theo cách đánh của Việt Nam. Xác định phương thức của các hình thức tác chiến chiến lược; chú trọng hình thức tác chiến mới, như: Không gian mạng và tiến công tổng hợp.

Chiến lược Quân sự Việt Nam xác định phương hướng tạo bước đột phá về tổ chức, biên chế, trang bị phù hợp với khả năng của nền kinh tế; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, điều hành chiến tranh theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Theo đó, điều hành tác chiến chiến lược đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương; sự quản lý của Nhà nước, Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành trực tiếp các hoạt động quân sự, đấu tranh vũ trang, tác chiến chiến lược và tổ chức phối hợp với các ban, bộ, ngành thực hiện các mặt bảo đảm cho chiến tranh. Coi trọng công tác Đảng, công tác chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Quân đội nhân dân; tiến hành đồng bộ các mặt công tác bảo đảm phù hợp với điều kiện mới. Ngoài ra, Chiến lược Quân sự Việt Nam còn xác định nội dung bảo đảm ngân sách xây dựng các khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng; xây dựng lực lượng, mua sắm, sản xuất vũ khí, phương tiện, trang bị; huấn luyện, đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quân sự thời bình và thời chiến.

Phải khẳng định rằng, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam thực sự là kết tinh truyền thống dân tộc với ý Đảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được ban hành trong giai đoạn hiện nay, hai chiến lược này đã đánh dấu bước phát triển mới trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đất nước phát triển, hòa bình, ổn định. Trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là LLVT trước Tổ quốc phải tổ chức, triển khai thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, cần tổ chức quán triệt sâu sắc, nghiêm túc tinh thần cơ bản của hai chiến lược trong các tổ chức đảng, ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và toàn quân theo phạm vi, lĩnh vực, nhằm trang bị cho mọi tầng lớp nhân dân, cả hệ thống chính trị nhận thức đúng đắn về nội dung chiến lược, đổi mới tư duy, phương pháp, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý chí, trách nhiệm, biến quyết tâm thành hành động cách mạng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị căn cứ nghị quyết của Chính phủ thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam để xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện. Đặc biệt, trong quân đội cần nhanh chóng bổ sung, điều chỉnh các chiến lược chuyên ngành: Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, giáo dục, huấn luyện, đào tạo, nghiên cứu khoa học, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật… Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, bổ sung vào chương trình giáo dục quốc phòng, an ninh trong các nhà trường và toàn xã hội với nội dung, mức độ phù hợp từng đối tượng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ huy tổ chức triển khai thực hiện kiên quyết, nghiêm túc các chương trình, kế hoạch hành động của mình; thường xuyên kiểm tra, giám sát, báo cáo kịp thời, quyết tâm chính trị cao, tổ chức chặt chẽ và có phương pháp khoa học là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện tốt Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

(1) – ĐCSVN – Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H. 1997, tr. 67.

(2) – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 111.

(3) – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 235.

(4)- BCHTW – Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương,

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Xây Dựng Chiến Lược Quốc Phòng Việt Nam

Trước đây, chúng ta chưa có khái niệm về CLQP, nhưng các nội dung của nó đã được thể hiện trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) và phòng thủ bảo vệ miền Bắc XHCN (trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Đặc biệt, từ sau ngày đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nghiệp quốc phòng đã đạt được những thành tựu quan trọng, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, duy trì môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vì chưa có một hệ thống văn bản thống nhất, khoa học về CLQP nên việc chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các cấp, các ngành, các lực lượng còn hạn chế, thiếu thống nhất.

Hiện nay và thời gian tới, trước bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào môi trường khu vực và quốc tế, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì trên bình diện quốc gia và ở từng ngành, lĩnh vực cũng phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức gay gắt. Trên lĩnh vực quốc phòng vẫn tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và hoạt động chống phá trên các lĩnh vực, nhằm khuất phục, lật đổ chế độ XHCN, lấn chiếm lãnh thổ, đe dọa độc lập, chủ quyền quốc gia. Vì vậy, xây dựng CLQP để xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp lớn phù hợp, nhằm tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là đòi hỏi khách quan, cấp thiết. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, phải tiếp tục “Hoàn thiện các CLQP, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”2. Đây là định hướng quan trọng, thể hiện tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với sự phát triển của cách mạng và xu thế chung của thời đại, nên cần được quán triệt sâu sắc, triển khai đồng bộ nhằm củng cố quốc phòng-an ninh (QP-AN) nói chung, xây dựng, hoàn thiện CLQP nói riêng, góp phần thể chế hoá, đưa các chủ trương, quan điểm của Đảng về quốc phòng vào cuộc sống; đồng thời, làm căn cứ pháp lý để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các hoạt động quốc phòng, tránh làm ngược, hoặc không đồng bộ như thời gian qua. Để xây dựng, hoạch định CLQP theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, phù hợp với điều kiện đất nước, cần thống nhất nhận thức về một số vấn đề chủ yếu sau.

Một là, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của CLQP. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Đảng định ra đường lối, các quan điểm, mục tiêu và các chủ trương lớn… và để tổ chức thực hiện các mục tiêu, chủ trương đó cần có các chiến lược, kế hoạch chiến lược. CLQP là “văn kiện cơ bản” để Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công cuộc phòng thủ đất nước; chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), đấu tranh quốc phòng, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại, lấn chiếm, khuất phục, lật đổ chế độ XHCN của các thế lực thù địch. Vì thế, yêu cầu đặt ra là mọi cấp, mọi ngành phải hiểu rõ, nắm vững chức năng, nhiệm vụ của CLQP, những nội dung chủ yếu về quốc phòng; qua đó, tham mưu giúp Đảng, Nhà nước quản lý chặt chẽ mọi hoạt động phòng thủ quốc gia, chấp hành đúng Luật Quốc phòng; chỉ đạo xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân, xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân; hợp đồng chặt chẽ và hướng dẫn các ngành kinh tế thực hiện phát triển đến đâu thì xây dựng và tổ chức hoạt động phòng thủ vững chắc đến đó. Trong lĩnh vực quốc phòng, CLQP có giá trị “pháp lệnh” đối với các chiến lược thuộc quyền; làm cơ sở để các ngành, các cấp chiến lược (quân khu, quân đoàn…) và các cơ quan chuyên trách xây dựng phương án, kế hoạch chiến lược phù hợp với nhiệm vụ, lĩnh vực được giao. Đồng thời, các cấp, các ngành cũng lấy đó làm căn cứ để phối hợp với nhau hình thành phương án, kế hoạch quốc gia, đảm bảo chuẩn bị đất nước về mọi mặt, giữ quyền chủ động trong phòng thủ, không để bị động, bất ngờ về chiến lược. Bên cạnh đó, CLQP còn bám sát mọi đối tượng tiềm tàng, chủ động hiệp đồng với các ngành tiến hành đấu tranh quốc phòng nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ QP-AN. Như vậy, CLQP là chiến lược cấp quốc gia, sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, là cơ sở để hoạch định các kế hoạch chiến lược; đồng thời, là cầu nối để đưa đường lối của Đảng về mặt quốc phòng vào cuộc sống.

Hai là, nhận thức về mối quan hệ của CLQP. Để bảo vệ Tổ quốc XHCN chúng ta có hệ thống các chiến lược, bao gồm: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, CLQP, Chiến lược quân sự (CLQS), Chiến lược an ninh… Các chiến lược này đều là chiến lược quốc gia, cùng thực hiện mục tiêu chiến lược thống nhất nên có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Vì vậy, xác định đúng mối quan hệ giữa CLQP với các chiến lược khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ và phạm vi, cấp độ chỉ đạo, hoạt động, tránh chồng chéo, nhầm lẫn trong tổ chức thực hiện. Trong quan hệ với CLQP, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là chiến lược quốc gia ở cấp độ cao nhất, bao trùm nhất, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, QP-AN và đối ngoại… Còn CLQP là chiến lược quốc gia ở cấp độ thứ hai, chuyên sâu vào lĩnh vực quốc phòng; quán triệt, cụ thể hoá Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong xây dựng nền QPTD và đấu tranh quốc phòng. Do đó, quan hệ giữa CLQP với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là quan hệ giữa bộ phận và tổng thể, giữa phục tùng và chỉ đạo; trong đó, CLQP là bộ phận hợp thành, giữ vai trò chủ đạo của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đối với Chiến lược quân sự, hiện nay vẫn có nhận thức đồng nhất giữa quốc phòng với quân sự, giữa CLQP và CLQS. Theo quan điểm của Đảng, CLQP tối ưu là giữ được đất nước mà không phải tiến hành chiến tranh, nên cần phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước cả chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá và đối ngoại… Trong thời bình, CLQP tiến hành đấu tranh quốc phòng, bảo vệ độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ quốc gia bằng phương thức phi vũ trang là chính; còn CLQS giữ vị trí làm chỗ dựa, hậu thuẫn cho các hình thức đấu tranh khác. Đồng thời, CLQP chỉ đạo xây dựng CLQS, xây dựng LLVT, phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự để sẵn sàng sử dụng trong chiến tranh như là giải pháp cuối cùng nếu không còn giải pháp nào khác. Khi chiến tranh xảy ra, CLQS sẽ giữ vai trò chủ đạo để thực hiện phương thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Như vậy, CLQS là nòng cốt, là chiến lược tình thế của CLQP, nhưng không đồng nhất với CLQP. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của CLQS, mà phải thấy rằng CLQS có ý nghĩa quan trọng trong răn đe, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ gây chiến tranh của các thế lực thù địch.

Ba là, định hướng nội dung xây dựng CLQP Việt Nam. Xây dựng chiến lược nói chung, CLQP nói riêng, trước hết phải xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; truyền thống, kinh nghiệm quốc phòng, quân sự trong lịch sử dân tộc và kế thừa tinh hoa quốc phòng trên thế giới; đồng thời, phải gắn với điều kiện, tình hình cụ thể của đất nước, bối cảnh quốc tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tuỳ theo cấp độ, phạm vi mà thời gian của CLQP có thể dài hay ngắn, thông thường là 10 năm; khi tình hình có đột biến, có thể bổ sung, điều chỉnh hoặc đề ra CLQP mới. Với khoảng thời gian đó và là chiến lược mới xây dựng lần đầu, cách tiếp cận của CLQP phải đi vào các vấn đề cơ bản theo trình tự: bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước; xác định đối tượng, dự báo tình huống quốc phòng; mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, phương thức xây dựng và đấu tranh quốc phòng; nhiệm vụ và giải pháp chiến lược. Các nội dung của CLQP phải bám sát Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Luật Quốc phòng… và phải được cụ thể hoá về định hình, định tính, định lượng phù hợp với từng nội dung, mang tính lý luận, tính thực tiễn cao.

Về xác định đối tượng, phải trên nguyên tắc về xác định đối tượng đã được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá IX) làm căn cứ để xác định. Trong đó, cần nghiên cứu phân thành hai loại đối tượng: lật đổ chế độ XHCN và xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ quốc gia để thống nhất nhận thức và chuẩn bị lực lượng, phương án đối phó.

Về mục tiêu, cần xác định cả mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể, nhưng dù là mục tiêu nào cũng đều nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là: giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng đất nước. Đối với mục tiêu tổng quát, phải nhằm: ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động phá hoại, lấn chiếm, khuất phục, lật đổ chế độ XHCN…; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược.

Về quan điểm, cần tập trung vào các nội dung sau: Thứ nhất, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn dân, lấy LLVT nhân dân làm nòng cốt. Thứ hai, xây dựng nền QPTD toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường ngày càng hiện đại; xây dựng sức mạnh quốc phòng tổng hợp với sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định. Thứ ba, xây dựng LLVT vững mạnh; trong đó, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao. Thứ tư, kết hợp chặt chẽ QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và trên từng địa bàn. Thứ năm, chủ động tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh xung đột, đối đầu, bị cô lập, lệ thuộc. Thứ sáu, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng.

Về phương châm, phương thức, phải thể hiện được hai nội dung cơ bản: xây dựng nền QPTD và đấu tranh quốc phòng. Phương châm xây dựng phải tích cực, chủ động, vững chắc, thực hiện “trong ấm, ngoài êm”, “bảo vệ Tổ quốc từ xa” và kiên trì, kiên quyết đấu tranh. Phương thức xây dựng phải phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng nền QPTD vững mạnh; đấu tranh toàn diện, kết hợp biện pháp phi vũ trang và vũ trang, lấy đấu tranh phi vũ trang là chính.

Về nhiệm vụ và giải pháp, cần tập trung đề xuất các nội dung về: giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước; tăng cường tiềm lực quốc phòng; nâng cao chất lượng tổng hợp của LLVT; củng cố thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân; nâng cao hiệu quả đấu tranh quốc phòng và tăng cường đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc phòng với các nước.

Bốn là, lộ trình xây dựng CLQP Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, việc xây dựng CLQP cần được tiến hành khẩn trương, nhưng phải thận trọng, đúng quy trình. Xây dựng CLQP không phải là nghiên cứu một đề tài khoa học, với trách nhiệm của một vài cơ quan nghiên cứu, mà là trách nhiệm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng. Vì vậy, lộ trình xây dựng phải theo trình tự: Bộ Quốc phòng định hướng những vấn đề cơ bản; cơ quan nghiên cứu xây dựng dự thảo. Tiếp đó, Bộ Quốc phòng chủ trì hội thảo ở các cơ quan, đơn vị theo quy định bảo mật; kết luận những vấn đề chính thông qua hội thảo để cơ quan dự thảo hoàn chỉnh. Văn bản CLQP phải được Quân uỷ Trung ương thông qua và báo cáo Bộ Chính trị. Xây dựng CLQP là công việc quan trọng, ở tầm vĩ mô nên cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới.

1 – Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb. QĐND, H. 2004, tr. 214.

Giải Pháp Triển Khai Thực Hiện Chiến Lược Biển Việt Nam Đến Năm 2022

Trả lời: Nghị quyết 09-NQ/TW đã xác định 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trong thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020:

– Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

– Xây dựng lực lượng mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên biển.

– Đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học – công nghệ biển.

– Triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

– Xây dựng đầy đủ đồng bộ hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển.

– Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội vùng biển và ven biển.

– Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển.

– Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh làm nòng cốt trong phát triển kinh tế biển với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 về Chương trình hành động của Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 137/2007/QĐ-TTg ngày 21/8/2007 phê duyệt đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên biển; Quyết định số 1041/QĐ/TTg ngày 22/7/2009 phê duyệt đề án bảo đảm mạng lưới thông tin biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 phê duyệt đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam…

Từ khi ban hành đến nay, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã có những đóng góp tích cực vào việc định hướng bảo vệ và phát triển sự nghiệp biển Việt Nam. Tuy nhiên, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 vẫn còn một số hạn chế, như: một số giải pháp chưa cụ thể, chưa có lộ trình cụ thể, việc triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 chưa đạt hiệu quả cao; việc tuyên truyền giáo dục về biển, đảo chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống; bộ máy quản lý và thực thi chính sách, pháp luật biển chưa đủ mạnh, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, còn phân tán…

Là một quốc gia ven biển, Việt Nam có các vừng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Ở giữa Biển Đông, còn có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, hiện đang là tiêu điểm của những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hết sức phức tạp và nhạy cảm… Việt Nam không thể không có một Chiến lược Biển xứng tầm, được nghiên cứu, xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học, hiện đại, các cơ sở dữ liệu, được đánh giá một cách toàn diện về thực trạng phát triển biển, những thuận lợi, thế mạnh và cả những khó khăn, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt…

Có được một Chiến lược Biển tổng thể, xứng tầm, đúng đắn và phù hợp, cùng với quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo, quản lý, của các ngành và toàn dân, Việt Nam sẽ khai thác hợp lý, hiệu quả tiềm năng, lợi thế của các vùng biển giàu đẹp của đất nước; khắc phục và vượt qua được những khó khăn, thách thức hiện hữu để vươn lên trở thành quốc gia mạnh về biền, thực hiện được mục tiêu chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Theo Hỏi – đáp về Luật biển Việt Nam

Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Thực Hiện Chiến Lược Quốc Phòng, Chiến Lược Quân Sự Việt Nam trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!