Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Vấn Đề Về Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức (Phần Cuối) mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ, công chức (Phần cuối)
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Về ưu điểm
Hội nghị Trung ương 7, khóa XII đánh giá khái quát: Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khoá VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín…
Trên cơ sở đánh giá của Đảng, có thể khái quát những ưu điểm chính về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được nâng lên, cơ cấu hợp lý hơn.
Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đánh giá đánh giá tổng quát: Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
Hội nghị Trung ương 7, khóa XII đánh giá về cán bộ: Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khoá VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế… Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Trên thực tế, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân từng bước được nâng lên về trình độ chuyên môn, chất lượng và hiệu quả công tác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện tốt theo kế hoạch hằng năm. Việc tổ chức các kỳ thi nâng ngạch cho đội ngũ công chức, viên chức được thực hiện thường xuyên hơn; qua đó số lượng chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính làm việc tại các bộ, ngành và cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã được tăng lên. Công tác tổ chức cán bộ, tuyển dụng, bổ nhiệm, quy hoạch, đề bạt, luân chuyển đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đào tạo và năng lực sở trường công tác được quan tâm, chú trọng gắn với đổi mới cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bộ máy hành chính nhà nước ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn
Đại hội XII khẳng định: Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Chỉ đạo việc thực hiện thí điểm một số mô hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hội nghị Trung ương 6, khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đánh giá: Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để tổ chức thực hiện. Các quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Báo cáo tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2018 của Bộ Nội vụ cho biết hàng loạt các bộ ngành địa phương đã thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy, trong đó giảm hàng loạt cấp trưởng, cấp phó[1].
Năm 2018, cơ quan Trung ương giảm 7 đơn vị tổng cục, 202 đơn vị cấp vụ, cục, hơn 14.800 đơn vị cấp phòng, 11 lãnh đạo tổng cục, 178 lãnh đạo cấp vụ cục, 881 lãnh đạo cấp phòng, giảm 933 biên chế do sắp xếp lại tổ chức[2].
Thứ ba, công tác quản lý cán bộ, công chức có nhiều đổi mới, tiến bộ
Trong giai đoạn 2011 – 2016, việc quản lý biên chế công chức, viên chức được thực hiện thống nhất trên cả nước theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa quản lý biên chế công chức với tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; kết hợp giữa quản lý biên chế công chức với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm của công chức là cơ bản phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tổng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện trong giai đoạn 2011 – 2016 có xu hướng giảm, đặc biệt là trong giai đoạn 2014 – 2016 với số lượng giảm trung bình mỗi năm khoảng hơn 4.000 biên chế và tiếp tục giảm trong năm 2017. Đa số các bộ, ngành, địa phương chấp hành tốt các quy định của pháp luật, thực hiện quản lý và sử dụng đúng, thậm chí ít hơn số biên chế được giao. Cụ thể: có 12/15 bộ, cơ quan ngang bộ sử dụng đúng hoặc không sử dụng hết biên chế được giao tại các tổng cục trực thuộc; 13/15 bộ, cơ quan ngang bộ dư biên chế tại các vụ, cục trực thuộc, trong đó có một số bộ, cơ quan ngang bộ còn dư biên chế với số lượng khá lớn[3].
2.2 Về hạn chế, yếu kém
Một là, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh, cơ cấu cán bộ công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) khẳng định: nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế.
Theo báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tính đến ngày 31/12/2012, số lượng cán bộ, công chức trong cả nước là 535.528 người. Trong đó, số lượng tiến sĩ là 2.209 người (chiếm 0,4%), thạc sĩ là 19.666 người (chiếm 3,7%), cử nhân (đại học) là 278.198 người (chiếm 51,9%); số công chức đã được đào tạo về lý luận chính trị là 251.110 người (46,9%). Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã có sự chuyển biến rõ rệt với 53.974 người có trình độ đại học trở lên (chiếm 24,8%); được đào tạo về quản lý nhà nước là 103.902 người (47,8%). Tuy nhiên, vẫn còn 63.557 cán bộ, công chức chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ (chiếm 11,9%); cán bộ, công chức có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố trực thuộc trung ương và các đô thị lớn. Hiện nay, có 282.561 cán bộ, công chức chưa qua đào tạo về lý luận chính trị, chiếm 52,8%. Đối với cán bộ, công chức cấp xã có trình độ dưới đại học là 163.293 người (chiếm 75,2%); chưa qua đào tạo về quản lý nhà nước là 113.365 người (chiếm 52,2%)[4]. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm[5]. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Mặc dù việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức đã được thực hiện trên cơ sở yêu cầu vị trí việc làm, nhưng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại nhiều bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh chưa hợp lý, vẫn còn tình trạng bị động, hụt hẫng giữa các thế hệ cán bộ. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; số lượng chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương trong một số ngành, lĩnh vực còn chiếm tỷ lệ thấp; đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa có nhiều chuyên gia đủ khả năng tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách pháp luật và giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số lượng chuyên viên cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương hiện nay chiếm tỷ lệ tương ứng là 0,8 % và 9,2 % so với tổng số công chức, viên chức của Bộ và hệ thống thi hành án dân sự, chưa tương xứng với yêu cầu và tính chất, vị trí công việc[6]. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn tư tưởng làm việc theo kiểu bao cấp trước đây, không có tính cạnh tranh, thiếu động lực để làm việc, suy giảm đạo đức, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng, lãng phí.
Hai là, cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Đại hội XII xác định: cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và công chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng….
Hội nghị Trung ương 6 khóa XII khẳng định: Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp; tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối văn phòng; số lãnh đạo cấp phó nhiều; việc bổ nhiệm cấp “hàm” ở một số cơ quan Trung ương chưa hợp lý. Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính chuyển biến chậm, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu. Tuy đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập…
Ba là, công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức.
Trong công tác cán bộ, dánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp uỷ các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hoá bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc….
Việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế chưa đi vào thực chất, không theo đúng quy định và chưa đạt mục tiêu đề ra.
Chủ trương tinh giản biên chế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện thống nhất, đồng bộ trên cả nước, tạo cơ sở quan trọng cho việc xác định và quản lý biên chế. Tất cả các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức triển khai quán triệt nội dung tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, Quyết định số 2218/QĐ-TTg; đã tiến hành việc rà soát, đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hiện có để xác định được số lượng người cần giữ lại làm việc lâu dài, ổn định và những người không đáp ứng được yêu cầu cần tinh giản, tuy nhiên mới chỉ đạt được những kết quả bước đầu, chưa thực chất và chưa đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể, từ khi triển khai thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP đến hết năm 2016, đa số các bộ, ngành, địa phương vẫn chưa phê duyệt kế hoạch tinh giản biên chế của bộ, ngành, địa phương từ năm 2015 – 2021 và của từng năm, dẫn đến tình trạng đề xuất tinh giản biên chế không theo quy định (định kỳ 2 lần/năm)…
Việc thực hiện quy định về quản lý biên chế ở một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm.
Việc xây dựng kế hoạch biên chế hằng năm ở các bộ, ngành, địa phương chưa được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Bên cạnh nhiều bộ, ngành, địa phương sử dụng đúng hoặc ít hơn số biên chế được giao thì vẫn còn có bộ, ngành, địa phương sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao. Theo Báo cáo của Chính phủ, tính đến hết năm 2016, vẫn còn có 3/15 bộ có tổng cục sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao và 2/15 bộ có sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao tại các vụ, cục trực thuộc. Ở các địa phương, việc sử dụng vượt quá số biên chế được giao vẫn còn xảy ra ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, ngành, địa phương tăng nhanh (năm 2016 là 2.093.313 người, tăng so với năm 2011 là 121.736 người (tăng 5,8%), mặc dù thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị nhưng số biên chế sự nghiệp vẫn tăng 5.401 người (tăng 0,24%), trong đó tăng mạnh ở các đơn vị sự nghiệp thuộc các bộ, ngành ở Trung ương. Tình trạng sử dụng lao động hợp đồng làm công việc chuyên môn không đúng quy định tại các bộ, ngành, địa phương vẫn diễn ra khá phổ biến. Theo số liệu tổng kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị, số lượng người làm việc theo hợp đồng lao động ký theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ở các bộ, ngành, địa phương vượt chỉ tiêu được giao đến 45.152 người (tăng 56,75% so với năm 2015).
Việc quản lý cán bộ, công chức ở một số bộ ngành, địa phương thiếu thống nhất, thiếu tập trung.
Việc xây dựng kế hoạch biên chế hằng năm ở các bộ, ngành, địa phương chưa được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Bên cạnh nhiều bộ, ngành, địa phương sử dụng đúng hoặc ít hơn số biên chế được giao thì vẫn còn có bộ, ngành, địa phương sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao. Theo Báo cáo của Chính phủ, tính đến hết năm 2016, vẫn còn có 3/15 bộ có tổng cục sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao và 2/15 bộ có sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao tại các vụ, cục trực thuộc. Ở các địa phương, việc sử dụng vượt quá số biên chế được giao vẫn còn xảy ra ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, ngành, địa phương tăng nhanh (năm 2016 là 2.093.313 người, tăng so với năm 2011 là 121.736 người (tăng 5,8%), mặc dù thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị nhưng số biên chế sự nghiệp vẫn tăng 5.401 người (tăng 0,24%), trong đó tăng mạnh ở các đơn vị sự nghiệp thuộc các bộ, ngành ở Trung ương. Tình trạng sử dụng lao động hợp đồng làm công việc chuyên môn không đúng quy định tại các bộ, ngành, địa phương vẫn diễn ra khá phổ biến. Theo số liệu tổng kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị, số lượng người làm việc theo hợp đồng lao động ký theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ở các bộ, ngành, địa phương vượt chỉ tiêu được giao đến 45.152 người (tăng 56,75% so với năm 2015)[7].
2.3 Về nguyên nhân hạn chế
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan:
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI xác định:
Một là, do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn ngừa những vi phạm;
Hai là, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển;
Ba là, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đại hội XII chỉ ra việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta, khó tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm.
Về nguyên nhân chủ quan:
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI xác định:
Một là, cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân.
Hai là, việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ;
Ba là, các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát.
Bốn là, việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.
Năm là, đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Sáu là, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh;
Bảy là, công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.
Hội nghị Trung ương7 khóa XII chỉ rõ:
Một là, nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức.
Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung nêu trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế hoá, cụ thể hoá; ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.
Ba là, một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ.
Bốn là, phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Năm là, chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.
Sáu là, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ; năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.
3. Những vấn đề đặt ra
Một là, nhận thức về cán bộ, công chức chưa rõ ràng cả về khái niệm, vị trí, vai trò và những yêu cầu xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ.
Mặc dù đã có Luật cán bộ, công chức, luât viên chức để phân biệt rõ cán bộ, là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; công chức, là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật; viên chức, là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật; song đến nay gần 10 thi hành, những quan niệm về cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn chưa được phân biệt rõ ràng thậm chí còn quan niệm cán bộ, công chức, viên chức là một. Chính vì ở cấp vĩ mô công tác cán bộ còn, công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức lúng túng , thiếu chính sách phù hợp, kể cả chính sách tiền lương.
Hai là, công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác cán bộ còn nhiềuhạn chế, bất cấp.
Việc xác định Đảng thống nhất công tác lãnh đạo, quản lý cán bộ, công tác cán bộ, song trên thực tế, các cơ quan Trung ương và địa phương vẫn còn tình trạng mỗi nơi thực hiện Nghị quyết, pháp luật một khác. Việc tổ chức thực hiện công tác cán bộ cũng chưa thống nhất, còn trùng lấn. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ.
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ chưa được thể chế hóa pháp luật hóa đầy đủ còn sơ hở chonhững tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ; công tác đánh giá cán bộ thiếu đa chiều, chưa theo tiêu chí cụ thể, chưa đo bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả; công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ chưa có căn cứ khoa học, cơ sở thực tiễn đầy đủ; công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ chưa đổi mới; thiếu cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ; chính sách, nhất là chính sách tiền lương còn nhiều bất cập…
Ba là, thiếu cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, tình trạng chạy chức, chạy quyền vẫn chưa được đẩy lùi.
Việc xác định tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình trong công tác cán bộ thiếu công khai, minh bạch; việc xác minh, xử lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng thiếu kịp thời, chưa hiệu quả và hợp lý; công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới giám sát cấp trên chưa được đẩy mạnh; chua xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền…
Bốn là, vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ chưa được đề cao đúng mức
Các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ chưa đươc thể chế hóa, qui định rõ rằng, đặc biệt chưa được luất pháp hóa để đề cao tính pháp lý. Cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ chưa được thể chế hóa, cụ thể hóa. Công tác tiếp dân, nhất là ở cơ sở chưa đươc thực hiện đúng qui định, còn hành chính hóa
Năm là, công tác tham mưu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ chưa được coi trọng đúng mức
Các cấp uỷ các cấp chưa thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; đặc biệt chưa coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp. Chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình chưa được quan tâm đúng mức. Chưa xác định rõ mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ chưa được coi trọng và tăng cường đúng mức./.
(Hết)
GS.TS Dương Xuân Ngọc
[1] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/2018-tinh-gon-hang-ngan-dau-moi-giam-mot-loat-lanh-dao
[2] Nguyễn Văn Tùng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức – Điều lệ, Ban Tổ chức TƯ, https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/giam-ca-ngan-lanh-
[3] Nguyên Thanh Giang, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2017/48009/Ve-quan-ly-cong-chuc-vien-chuc-va-tinh-gian-bien-che.aspx
[4] Trung tâm dự báo phát triển quốc gia nguồn lực, Đại học Quốc gia Hà Nội http://hdc.vnu.edu.vn/article-Xay-dung-doi-ngu-can-bo,-cong-chuc-dap-ung-yeu-cau-cai-cach-nen-hanh-chinh-nha-nuoc
[5] Chỉ tính trong hai năm gần đây, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra làm rõ nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng, quyết định kỷ luật và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với 59 cán bộ diện Trung ương quản lý, 13 cán bộ là ủy viên Trung ương và nguyên ủy viên Trung ương; một ủy viên Bộ Chính trị khóa XII. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hàng nghìn cán bộ, đảng viên vi phạm…
[6] Báo cáo số 57/BC-BTP, ngày 28-2-2017, của Bộ Tư pháp- Theo Nguyễn Thanh Giang
[7] Nguyên Thanh Giang, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2017/48009/Ve-quan-ly-cong-chuc-vien-chuc-va-tinh-gian-bien-che.aspx
Sáng Kiến Một Số Giải Pháp Về Sử Dụng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã
HUYỆN ỦY TRẦN VĂN THỜI BAN TỔ CHỨC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Huyện Trần Văn Thời, ngày 27 tháng 12 năm 2013
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số giải pháp về sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã”
I. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH: – Họ và tên: Trần Kiều Lam – Ngày, tháng, năm sinh: 10/9/1984
Giới tính: Nữ
– Quê quán: thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. – Nơi thường trú: khóm 9, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. – Nơi công tác: Ban Tổ chức Huyện ủy Trần Văn Thời, Cà Mau. – Chức vụ: Cán bộ Ban Tổ chức Huyện ủy. II. KINH NGHIỆM, SÁNG KIẾN CỤ THỂ: 1. Sự cần thiết và mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Vấn đề nâng cao chất lượng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ, công chức xã, thị trấn (gọi tắt là cán bộ, công chức cấp xã) nói riêng luôn là một yêu cầu bức thiết. Bởi thực tế lịch sử đã chứng minh, trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, vấn đề cán bộ cũng luôn có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của
cách mạng, vận mệnh quốc gia, dân tộc cũng như sự phát triển của đất nước và địa phương. Những năm qua, huyện Trần Văn Thời đã và đang ra sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XII Đảng bộ huyện đã đề ra, tập trung phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Để hiện tốt mục tiêu đó, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đầy đủ phẩm chất, năng lực, đủ sức đảm đương nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Bởi lẽ, đội ngũ cán bộ nói chung, trong đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vị trí đặc biệt, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân; đồng thời, phản ánh kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để bổ sung, điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho phù hợp. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn là người trực tiếp đề xuất, tổ chức thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Mặc dù đã được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, nhưng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong huyện vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn ở cơ sở; vẫn còn hạn chế nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, năng lực công tác; một bộ phận cán bộ, công chức thiếu nhiệt tình, tận tụy với công việc, hoàn thành nhiệm vụ chưa cao…Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, trong đó, có thể xác định một số
nguyên nhân chủ yếu đó là: Công tác tuyển chọn cán bộ; công tác nhận xét, đánh giá cán bộ; công tác quy hoạch cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và bố trí, sử dụng cán bộ, công chức cấp xã còn nhiều hạn chế, bất cập . Chưa kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ, công chức nên chưa phát huy được năng lực, sở trường công tác của cán bộ, công chức. Chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức kế thừa. Từ đó, để khắc phục những hạn chế nêu trên, tôi đề xuất “một số giải pháp về sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã”, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng nông thôn mới ở địa phương. 2. Phạm vi triển khai thực hiện: Các xã, thị trấn trong huyện Trần Văn Thời. 3. Một số giải pháp về sử dụng cán bộ, công chức cấp xã: Để nâng cao chất lượng và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có hiệu quả, góp phần phát triển nguồn nhân lực cho địa phương, đáp ứng nhu cầu đổi mới, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần nghị quyết của Đảng, các giải pháp được triển khai, áp dụng thực hiện như sau: Về tuyển chọn, tiếp nhận: Khi tuyển chọn cán bộ phải làm đúng quy trình tuyển chọn, việc tuyển chọn phải dân chủ, công khai, lấy tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực cán bộ làm gốc.
Hội đồng nhân dân để xây dựng, điều chỉnh kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng năm đáp ứng yêu cầu thực tế của địa phương. Đổi mới công tác đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức: Đánh giá và sử dụng cán bộ là hai khâu quan trọng của công tác cán bộ. Đánh giá chính xác cán bộ là cơ sở vững chắc để đào tạo và sử dụng hợp lý cán bộ, tạo ra động lực mạnh mẽ, động viên cán bộ cống hiến sức lực, tài trí, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại sẽ dẫn đến sử dụng cán bộ một cách tùy tiện, làm mất đi động lực phấn đấu của từng cá nhân, thậm chí còn làm xáo trộn tâm lý của cả một tập thể, gây nên sự trầm lắng, trì trệ trong công việc. Bởi vậy, đánh giá cán bộ phải trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, mối quan hệ với quần chúng và ý thức tổ chức kỷ luật. Lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ. Đánh giá cán bộ phải thật sự khoa học, khách quan, công tâm và phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, gia trưởng, hẹp hòi, định kiến, áp đặt, cảm tính, cục bộ địa phương, thiếu dân chủ. Trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ phải coi trọng cả đức và tài. Sử dụng cán bộ phải kịp thời, đ úng việc, đúng người, đúng chuyên môn đào tạo; mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ nữ; xây dựng ở từng địa phương có cán bộ có trình độ lý luận, có cán bộ giàu kinh nghiệm thực tiễn, cán bộ tuổi cao, kết hợp với cán bộ trẻ để đảm bảo tính kế thừa và phát triển. Mạnh dạn thực hiện việc luân chuyển cán bộ từ huyện về xã, từ xã lên huyện, từ xã
này sang xã khác, nhất là đối với cán bộ trẻ, có triển vọng, trong quy hoạch. Đồng thời, thực hiện miễn nhiệm, bãi nhiệm cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, hạn chế về năng lực, cần xây dựng tư tưởng “vào, ra, lên, xuống” là chuyện bình thường của công tác cán bộ. Cần làm tốt công tác khen thưởng đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời, thường xuyên kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ khi cán bộ có dấu hiệu sai lầm. Về quản lý: Khi sử dụng cán bộ phải gắn với quản lý cán bộ và trong quản lý cán bộ phải luôn luôn đặt ra yêu cầu cao, làm tốt việc phân cấp quản lý cán bộ, quy định rõ thẩm quyền, đối tượng, nội dung quản lý cán bộ, làm cho đ ội ngũ cán bộ luôn đ ược quản lý và sử dụng có hiệu quả theo cơ chế linh hoạt, lấy hiệu quả công tác làm thước đo để đánh giá năng lực cán bộ. 4. Kết quả, hiệu quả mang lại: Sau khi áp dụng các giải pháp nêu trên, công tác sử dụng cán bộ, công chức cấp xã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Công tác đánh giá cán bộ được cụ thể hoá thành các nguyên tắc, các căn cứ, tiêu chuẩn, có quy trình và phương pháp đánh giá đối với từng đối tượng cụ thể. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ được tiến hành dân chủ, khách quan và toàn diện hơn trước. Về quy hoạch, tạo nguồn cán bộ: Đổi mới về nội dung và cách làm, thông qua quy hoạch, bước đầu xây dựng được một đội ngũ cán bộ hợp lý hơn về cơ cấu và chất lượng được nâng lên trên nhiều mặt, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển; khắc phục dần tình trạng hụt hẫng, bị động, chắp vá. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, các cấp uỷ đã chủ động phối hợp với các
cơ sở đào tạo, chỉ đạo sát hơn công tác này từng bước khắc phục tình trạng đào tạo không theo quy hoạch; tăng cường đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, bồi dưỡng kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý theo cơ cấu, đảm bảo tính trẻ hóa nhưng không hình thức. Từ đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã từng bước được củng cố, kiện toàn, chất lượng nâng lên rõ rệt, nêu cao tinh thần tận tụy, ý thức trách nhiệm cao trong công việc, với nhân dân, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội và chủ trương thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở địa phương. 5. Đánh giá phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Kết quả sử dụng đội ngũ cán bộ cao khi và chỉ khi sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ. Để đánh giá kết quả sử dụng cán bộ, công chức cấp xã là tốt hay chưa tốt là một việc rất khó khăn, tuy nhiên có thể đánh giá một cách gián tiếp thông qua các kết quả phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…tại địa phương, đơn vị nơi cán bộ, công chức đó công tác. Từ năm 2011 đến nay, có khoảng trên 60% số cán bộ qua đào tạo được giữ chức vụ cao hơn. “Cán bộ nào, phong trào ấy”, tạo sự chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở các xã, thị trấn nói riêng, đối với toàn huyện nói chung. Từ đó, có thể khẳng định, các giải pháp về sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nêu trên dễ thực hiện và có tính khả thi cao trong thực tiễn; đồng thời, có thể áp dụng phù hợp với nhiều địa phương khác.
6. Đề xuất, kiến nghị: Để tiếp tục thực hiện tốt công tác nâng cao chất lượng và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian tới, xin kiến nghị mấy vấn đề sau: – Các cấp ủy, chính quyền trong huyện cần đặc biệt quan tâm đổi mới, thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ, trước hết là công tác đánh giá cán bộ phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện, thực sự lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ tạo tiền đề quy hoạch, bố trí, sử dụng đúng cán bộ. – Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện cần quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt công tác sử dụng cán bộ, công chức cấp xã với những giải pháp cơ bản nêu trên; đồng thời, tiếp tục triển khai thực hiện tốt Kế hoạch về thực hiện Nghị quyết số 03 – NQ/TU ngày 27 tháng 6 năm 2011 của Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020. – Bên cạnh tuân thủ chế độ, chính sách chung, cần linh hoạt, sáng tạo, điều chỉnh, bổ sung và thực hiện kịp thời, đầy đủ các chế độ, chính sách cán bộ một cách phù hợp và cụ thể, nhất là chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách về chế độ tiền lương, phụ cấp; chính sách thu hút trí thức trẻ về công tác tại địa phương; chính sách luân chuyển cán bộ; chính sách cho cán bộ tuổi cao, trình độ, năng lực, sức khoẻ hạn chế nghỉ việc trước tuổi; chính sách khuyến khích, động viên người tài…
Người đề ra sáng kiến
K/T TRƯỞNG BAN PHÓ TRƯỞNG BAN
Trần Kiều Lam Hồ Văn Chung XÁC NHẬN CỦA CẤP TRÌNH KHEN
Chuyên Đề 2: Một Số Vấn Đề Về Công Tác Xây Dựng Đảng Và Công Tác Cán Bộ Hiện Nay
(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, Đoàn thể năm 2017)
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1. Một số vấn đề về lý luận
– “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp mình.
– Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI thông qua cũng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
– Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi chưa giành được chính quyền và khi đã giành được chính quyền rất khác nhau:
+ Khi chưa có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện. Lúc này, quan hệ của Đảng với Nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời Nhân dân đều dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của tổ chức đảng và đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh tệ quan liêu, ức hiếp quần chúng.
+ Khi Đảng đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Lúc này, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Lúc này, Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
2. Thuận lợi và nguy cơ đối với một Đảng duy nhất cầm quyền
Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ bên trong rất nguy hiểm. Cụ thể là:
a) Về thuận lợi:
– Đảng không có các đảng phái chính trị đối lập, do đó Đảng không có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo đối với đất nước và xã hội;
– Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo của Đảng được quy định tại Điều 4, Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
– Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân; có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
– Bằng hoạt động thực tiễn hơn 87 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; được nhân dân tin tưởng, bảo vệ Đảng.
b) Về nguy cơ:
Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo hai nguy cơ đối với Đảng là: Nguy cơ sai lầm về đường lối và nguy cơ suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), Đảng đã bổ sung và xác định 4 nguy cơ là:
– Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp;
– Nguy cơ sai lầm đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa;
– Nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí;
– Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phản động.
Trong 4 nguy cơ nêu trên thì có hai nguy cơ bên trong rất nguy hiểm, có thể làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào, đó là:
(1). Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguy cơ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhất là khi có những biến động lớn ở trong nước hoặc trên thế giới và trước những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, việc sai lầm về đường lối chỉ có thể diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định ra chủ trương, đường lối. Vì vậy, việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cấp cao của Đảng đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong mỗi thời kỳ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Quán triệt quan điểm này, Hội nghị Trung ương 6 (khoá XI) đã thông qua Đề án: ” Quy hoạch Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo”.
(2). Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trở thành những cán bộ có chức, có quyền trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đây là điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt lý tưởng, xa rời nhân dân, tham nhũng, lãng phí. Trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng tinh vi, phức tạp; nếu không kịp thời đấu tranh, khắc phục sẽ dẫn đến sự suy vong của Đảng.
Như vậy, 4 nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ ra, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, nó không chỉ còn là nguy cơ, mà đã trở thành thách thức trong thực tế và ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
II. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN
1. Năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền
Khi trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước, Đảng cầm quyền phải đề ra chủ trương, đường lối và lãnh đạo thực hiện để xây dựng, phát triển đất nước. Kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra chính là thước đo để đánh giá năng lực lãnh đạo và vai trò cầm quyền của Đảng đó. Năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền thể hiện tập trung trên 5 nội dung chủ yếu sau:
(1). Năng lực nhận thức quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước để đề ra chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn. Đồng thời, phải có năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh, tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng.
(2). Năng lực thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, các chính sách, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ và giải pháp để phát triển đất nước, phản ánh ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
(3). Năng lực tổ chức, lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra. Đây thực chất là năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng phải xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
(4). Năng lực kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị; kịp thời phát hiện và xử lý đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn;
(5). Năng lực phát hiện, đấu tranh khắc phục sự suy thoái, biến chất và tiêu cực ở trong Đảng, trong xã hội; sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch.
2. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng phải đồng thời nâng cao cả 5 năng lực nêu trên, trong đó, việc nâng cao năng lực hoạch định chiến lược, đề ra đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân là quan trọng nhất.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quán triệt các quan điểm lớn sau đây:
(1). Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam; phản ánh được ý chí và tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
(2). Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp; không hoang mang, dao động trong bất cứ tình huống nào, kể cả những lúc khó khăn, phức tạp nhất của tình hình thế giới.
(3). Kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh chống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và các khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Phải đổi mới toàn diện nhưng cần có lộ trình và bước đi thích hợp; phải trên cơ sở đổi mới về kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp.
(4). Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng phải quán triệt và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời kỳ đổi mới là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra phải xử lý và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn sau:
– Quan hệ giữa đổi mới với ổn định và phát triển;
– Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị;
– Quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
– Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất;
– Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
– Quan hệ giữa xây dựng CNXH với bảo vệ Tổ quốc XHCN;
– Quan hệ giữa độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế;
– Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
(5). Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước. Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, huy động sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng đề ra.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Quá trình cách mạng của Đảng
Từ ngày thành lập (3/2/1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cánh mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã giành được trong hơn 86 năm qua đều gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tư do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; đất nước đã thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng đã xác định như sau:
– Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
– Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
– Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng
– Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
– Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng tổ chức của đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
– Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị; Đảng giới thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực tham gia trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân và dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng..
4. Hệ thống tổ chức của Đảng và đảng viên hiện nay
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các tổ chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước gồm: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Ngoài ra, tổ chức đảng còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Hiện nay, toàn Đảng có 68 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm: 58 đảng bộ tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 05 đảng bộ trực thuộc Trung ương (Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ Công an, 02 Đảng bộ Khối và Đảng bộ Ngoài nước). Có hơn 1.300 đảng bộ cấp trên cơ sở (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và hơn 600 đảng bộ tương đương là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng).
Tính đến 31/12/2015, toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với tổng số hơn 4,5 triệu đảng viên. Có 5 loại hình tổ chức cơ sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang.
5. Bài học kinh nghiệm qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016)
Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn sau đây:
trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đây là bài học về Sự kiên định và sáng tạo.
Hai là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Đây là bài học về phát huy sức mạnh của Nhân dân.
đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học về đổi mới toàn diện, đồng bộ và xuất phát từ thực tiễn.
Bốn là, phải đặt lợi ích của quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là bài học về lợi ích dân tộc và phát huy sức mạnh tổng hợp.
, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Đây là bài học về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Phần thứ hai
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
I. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG NHIỆM KỲ 2010 – 2015
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đánh giá về công tác xây dựng Đảng hiện nay như sau:
1. Ưu điểm
– Công tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng. Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội.
– Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh với âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu quan trọng.
– Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
– Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng các quy định, quy chế, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
– Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới cùng với việc ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao đời sống vật chất của nhân dân.
– Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc.
Với những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Hạn chế, khuyết điểm:
– Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên, chất lượng sinh hoạt đảng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào chiều sâu; một số nơi thực hiện còn hình thức.
– Chậm khắc phục những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
– Tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ một số tổ chức còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
– Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội.
– Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Chất lượng, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Phương hướng chung
Để giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định: Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém khuyết điểm.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
Nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, Đại hội XII của Đảng đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp về công tác xây dựng Đảng, trong đó có 2 nhiệm vụ mới so với Đại hội XI. Cụ thể là:
2.1. Hai nhiệm vụ mới được bổ sung
(1) Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Đại hội XI chưa có mục riêng về công tác dân vận. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới, Đại hội XII có mục riêng về công tác dân vận nhằm cụ thể hoá thực hiện Hiến pháp năm 2013 về tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân và tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới“. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
(2) Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Ở Đại hội XI, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được thể hiện trong nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở Đại hội XII, vấn đề đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đưa vào nội dung công tác xây dựng Đảng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Đại hội XII nêu rõ: Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí và bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí. Báo cáo đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như: quản lý và sử dụng đất đai; khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu chi ngân sách và mua sắm tài sản công; thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng. Quy định rõ việc kê khai, công khai và kiểm tra, xác minh về kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp để bảo đảm tính công khai, minh bạch.
2.2. Ngoài 2 nhiệm vụ mới, Đại hội XII kế thừa, phát triển 8 nhiệm vụ về xây dựng Đảng của Đại hội XI, nhưng được bổ sung, phát triển hơn. Cụ thể là:
(1). Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị.
Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
(2). Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận.
Đại hội XII bổ sung, phát triển và nhấn mạnh là: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác Lê – nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
(3). Tăng cường rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng.
Đây là một nội dung quan trọng để thực hiện mục tiêu “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Việc bổ sung nội dung xây dựng Đảng về là vấn đề rất quan trọng trong tình hình hiện nay nhằm đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời, đề ra một số giải pháp mới là: Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
(4). Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
Đại hội XII tiếp tục phát triển, cụ thể hoá chủ trương của Đại hội XI và nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách. Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn chặn sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
(5). Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
Đại hội XII đã bổ sung và chỉ rõ một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Tổng kết việc thực hiện Quy định của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc thí điểm kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiền phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vững vàng trước mọi khó khăn thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng.
(6). Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Đại hội XII bổ sung, phát triển và nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ” Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”; thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về xây dựng Đảng; tiếp tục ban hành và thực hiện các quy chế, quy định trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp. Đại hội đề ra một số giải pháp mới là: Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng người tài. Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ; gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, “lợi ích nhóm”. Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
(7). Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Đại hội XII bổ sung, phát triển và nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tập trung xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho ủy ban kiểm tra các cấp.
(8). Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội XII bổ sung, phát triển và nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích, phương thức, nội dung và điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền. Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương.
3. Sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng
Cùng với việc đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp lớn về công tác xây dựng Đảng, Đại hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong cả nhiệm kỳ là:
(1). Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược;
(2). Xây dựng tổ chức bộ máy của các tổ chức trong hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu;
(3). Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng và tăng năng suất lao động để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện có hiệu quả 03 khâu đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng thể, đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Trước mắt, tập trung giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công.
(4). Bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện có hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
(5). Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của Nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
(6). Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội.
Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm nêu trên thì nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất và thứ hai là về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và đã được Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hoá thành 3 đề án lớn trong Chương trình làm việc toàn khóa để trình ra các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương là: Đề án: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ (trình Hội nghị TW 4). Đề án: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu (trình Hội nghị TW 6). . Đề án: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (trình Hội nghị TW 7).
Phần thứ ba
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ HIỆN NAY
I. MỘT SỐ KẾT QUẢ VỀ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CÁN BỘ
Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước “. Chiến lược cán bộ đã xác định phương hướng cơ bản, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và những giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020.
Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, Hội nghị Trung ương 9 (khoá X, năm 2009), Trung ương đánh giá về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ như sau:
1. Về xây dựng đội ngũ cán bộ
1.1. Mặt mạnh và ưu điểm
(1). Đa số cán bộ, công chức, viên chức phấn khởi và tin tưởng vào thành công của công cuộc đổi mới; kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; tham gia tích cực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Năng lực, trình độ lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội có tiến bộ rõ; có khả năng tiếp cận và tích luỹ đựơc nhiều kinh nghiệm trong điều kiện mới; năng động, sáng tạo trong thực hiện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, đóng góp xứng đáng vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
(2). Đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng; trình độ lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ được nâng lên Cơ cấu đội ngũ cán bộ ngày càng hợp lý hơn; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ ở một số ngành, một số lĩnh vực tăng khá.
(3). Về cơ bản đã khắc phục được những biểu hiện mơ hồ, dao động về lý tưởng của một bộ phận cán bộ do tác động của sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên xô và các nước Đông Âu trong những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX và sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Số đông cán bộ vẫn giữ được phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó, gần gũi với nhân dân.
1.2. Mặt yếu kém, khuyết điểm
– Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, thoái hoá biến chất, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý kịp thời. Một số ít cán bộ có biểu hiện bất mãn, suy giảm niềm tin, nói và làm trái quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc, vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu trong xã hội.
– Chất lượng đội ngũ cán bộ vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Cơ cấu đội ngũ cán bộ vẫn mất cân đối giữa các ngành nghề, địa bàn, lĩnh vực; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Việc chuyển tiếp giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo chưa được chuẩn bị chu đáo; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao. Nhiều cán bộ thích làm việc ở các cơ quan nhà nước, ngại làm việc trong lĩnh vực công tác đảng, đoàn thể.
Đánh giá tổng quát: Qua thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ ở nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập quốc tế. Số đông cán bộ giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân. Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và thể chế hoá, cụ thể hoá được nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong Chiến lược cán bộ. Nội dung, phương pháp, cách làm có đổi mới, tiến bộ; dân chủ, công khai được mở rộng hơn; nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ được giữ vững.
Tuy nhiên, nhiều khuyết điểm yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục; mới tập trung nhiều vào đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, dẫn đến sự không đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lĩnh vực; giữa cán bộ lãnh đạo, quản lý với cán bộ tham mưu, cán bộ khoa học và chuyên gia; giữa cán bộ Đảng, đoàn thể với cán bộ trong cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang, tạo tâm lý khép kín trong từng ngành, địa phương.
Những yếu kém, khuyết điểm nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do công tác giáo dục, bồi dưỡng về nhận thức, lý tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên còn hạn chế; công tác quản lý, kiểm tra, bố trí, sử dụng và thực hiện một số chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất cập. Chưa có chính sách thu hút và tạo nguồn phát triển cán bộ; thiếu cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đào tạo và sử dụng những người có đức, có tài. Nhiều cơ chế chính sách chậm đổi mới, làm suy giảm niềm tin và sự phấn đấu của cán bộ.
2. Về công tác cán bộ
2.1. Ưu điểm và kết quả đạt được
(1). Đảng và Nhà nước đã thể chế hoá, cụ thể hoá một bước nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ mà Chiến lựơc cán bộ đề ra thành các quy định, quy chế… để thực hiện; Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban kiểm tra Trung ương ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện. Quốc hội đã ban hành Luật cán bộ, công chức, viên chức; Chính phủ đã ban hành các quyết định, quy định về chế độ, chính sách quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ.
(2). Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới; đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, trong đó công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý có những chuyển biến rõ rệt.
(3). Nội dung, phương pháp, cách làm có đổi mới, tiến bộ; dân chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng hơn trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức đó.
2.2. Hạn chế, khuyết điểm
(1). Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục. Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Thiếu cơ chế để phát huy dân chủ, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, trì trệ. Chưa có chính sách để thu hút và trọng dụng nhân tài. Công tác cán bộ chưa góp phần đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.
(2). Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quán triệt đầy đủ quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng, dẫn đến thiếu tầm chiến lược. Việc bố trí, sử dụng cán bộ mới chú ý đến yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, ít quan tâm đào tạo cán bộ cho lâu dài; chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở nhiều ngành, địa phương. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức.
(3). Môi trường làm việc của cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó mật thiết của cán bộ đối với công việc, với cơ quan, với hệ thống chính trị. Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không đầy đủ, không rõ trách nhiệm cá nhân.
Nhìn chung, việc đổi mới công tác cán bộ chưa đồng bộ, toàn diện và còn chậm so với đổi mới kinh tế – xã hội.
3. Việc thực hiện các khâu của công tác cán bộ
3.1. Về đánh giá cán bộ
– Căn cứ vào quy định, hướng dẫn của Trung ương, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ, xây dựng được tiêu chuẩn chức danh cán bộ cho ngành, địa phương, đơn vị để làm cơ sở đánh giá cán bộ. Việc đánh giá cán bộ đã thực hiện theo quy trình, quy chế, công khai, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Diện lấy thông tin về cán bộ mở rộng hơn, một số nơi có cơ chế để nhân dân tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ nên việc đánh giá cán bộ có hiệu quả, thực chất hơn.
Tuy nhiên, đánh giá cán bộ vẫn là khâu khó và yếu nhất hiện nay, khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và bản lĩnh chính trị của cán bộ. Đánh giá cán bộ vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng được thực chất cán bộ; chưa lấy hiệu quả công việc là thước đo chủ yếu để đánh giá cán bộ; còn cảm tính, xuê xoa, chiếu lệ. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ nắm không chắc cán bộ, không hiểu sâu các mối quan hệ của bản thân, gia đình cán bộ, dẫn đến nhận xét, đánh giá cán bộ chưa khách quan, chính xác.
Những yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là việc quản lý và nắm cán bộ chưa chắc, chưa sâu; tinh thần tự phê bình và phê bình kém, tính chiến đấu chưa cao. Một số nơi còn có biểu hiện lệch lạc, thiếu công tâm, khách quan, trong đánh giá cán bộ; nội bộ mất đoàn kết, cục bộ, gia trưởng, xen động cơ cá nhân trong đánh giá cán bộ.
3.2. Về quy hoạch cán bộ
– Trong quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ, Bộ Chính trị (khoá IX) đã có Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 về ” Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước“; Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) có Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 về ” Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020“; Bộ Chính trị (khoá XI) có Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 về ” Đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến 2020 và những năm tiếp theo” và Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 về ” Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng “, v.v.
– Để thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương đã có Hướng dẫn số 17-HD/BTCTW ngày 23/4/2003; Hướng dẫn số 47-HD/BTCTW ngày 24/5/2005; Hướng dẫn số 50-HD/BTCTW, ngày 06/7/2005 về “Công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012 về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) và Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị (khoá XI)”; Hướng dẫn số 26-HD/BTCTWW, ngày 18/8/2014 về “Công tác nhân sự tại đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”,v.v.
– Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, công tác quy hoạch cán bộ đã đi dần vào nền nếp và đạt một số kết quả quan trọng: Nguồn quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý khá dồi dào; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc ít người có bước tiến bộ. Công tác quy hoạch cán bộ đã cơ bản bảo đảm sự đồng bộ từ dưới lên, mỗi chức danh quy hoạch từ 2 – 3 người và một người có thể quy hoạch vào một số chức danh; lấy quy hoạch cấp ủy làm cơ sở để quy hoạch cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể; số lượng cán bộ được quy hoạch bình quân đạt từ 1,5 – 2 lần so với số lượng cần bổ nhiệm, bầu cử. Trong nhiệm kỳ Đại hội khóa XI, Bộ Chính trị đã chỉ đạo và tiến hành việc quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh dạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016- 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.
Tuy nhiên, mặt yếu kém trong công tác quy hoạch cán bộ :
– Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ chưa có tầm nhìn xa; còn phổ biến tình trạng khép kín trong từng ngành, từng địa phương; chưa bảo đảm sự liên thông giữa quy hoạch của cấp dưới với quy hoạch của cấp trên, giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành, các lĩnh vực công tác; chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cán bộ. Chậm quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; mới tập trung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa quan tâm chú ý đến quy hoạch cán bộ các lĩnh vực khác…
– Chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Công tác quy hoạch ở một số bộ, ngành, địa phương còn chung chung, hình thức, thiếu tính khả thi; chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Do đó, một số nơi vẫn còn bị động, lúng túng về cán bộ; có nơi vừa mới quy hoạch nhưng khi làm công tác nhân sự thì vẫn khó khăn, không chọn được cán bộ.
3.3. Về luân chuyển cán bộ
– Trong quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ, Bộ Chính trị khoá IX đã có Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Bộ Chính trị khoá X có Kết luận số 127-KL/TW ngày 02/01/2008 về đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý và cho chủ trương tăng thêm một số chức danh lãnh đạo cấp ủy, chính quyền đối với một số tỉnh, thành phố và một số đơn vị cấp huyện để vừa tăng cường cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa để đào tạo, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động thực tiễn.
– Công tác luân chuyển cán bộ những năm qua đã góp phần đào tạo, rèn luyện, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường thêm cán bộ cho những nơi có khó khăn; khắc phục một bước xu hướng cục bộ, khép kín, trì trệ của đội ngũ cán bộ. Kết quả luân chuyển cán bộ từ Trung ương và địa phương trong hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X đã góp phần đào tạo được nhiều cán bộ; nhiều đồng chí đã được bầu vào BCH Trung ương khoá X, khoá XI, khóa XII, được bầu làm bí thư tỉnh ủy hoặc giữ cương vị chủ chốt ở các ban, bộ, ngành Trung ương và Quốc hội.
– Trong quá trình thực hiện luân chuyển cán bộ, Bộ Chính trị khoá IX đã chỉ đạo thực hiện thí điểm chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Tiếp theo đó, nhiều tỉnh, thành phố khác đã triển khai thực hiện ở cả cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã và đang triển khai thực hiện mạnh mẽ việc bố trí chỉ huy trưởng quân sự và giám đốc công an cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương; v.v.
– Ngoài ra, đã thực hiện chủ trương đưa cán bộ, sỹ quan biên phòng về tăng cường cho các xã biên giới và làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng hoặc phó công an xã; đưa sinh viên tốt nghiệp đại học về làm phó chủ tịch UBND ở các xã của 61 huyện nghèo, đã góp phần củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tuy nhiên, mặt hạn chế, khuyết điểm nổi lên là:
– Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác luân chuyển cán bộ của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc; việc thực hiện còn chậm và chưa đồng đều giữa các cấp, các ngành, còn khép kín trong ngành, địa phương.
– Công tác luân chuyển cán bộ ở một số nơi chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch cán bộ; còn nhầm lẫn giữa luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với điều động bố trí cán bộ theo yêu cầu; một số trường hợp luân chuyển không rõ ý định, hướng bố trí sau luân chuyển. Một số nơi có biểu hiện lệch lạc, lợi dụng luân chuyển để ” dán tem” hoặc đẩy cán bộ ” không ăn cánh với mình ” đi nơi khác.
– Việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển có một số trường hợp còn bất hợp lý, trái ngành, trái nghề, làm hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển. Một số ít cán bộ luân chuyển chậm tiếp cận với công việc, cá biệt có trường hợp còn chọn địa bàn, vị trí sau luân chuyển. Chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không phải người địa phương ít được thực hiện do chưa có quy định cụ thể.
3.4. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
– Từ khi Trung ương ban hành Chiến lược cán bộ đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều quyết định, chỉ thị, kết luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như: Quy định chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Đề án 165); thành lập trường chính trị tỉnh, thành phố và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; kiện toàn tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo đương chức và cán bộ dự nguồn cấp Trung ương; các lớp bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ theo chức danh, v.v.
– Các cấp ủy địa phương đã tập trung chỉ đạo xây dựng trường chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ trong đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp về lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và quốc phòng – an ninh; phối hợp với các trường đại học trong và ngoài nước mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng các chuyên ngành về quản lý kinh tế, xã hội, ngoại ngữ…
– Nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng từng bước được đổi mới, sát với yêu cầu thực tiễn; cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo được tăng cường.Trong nhiệm kỳ khoá XI, Bộ Chính trị đã chỉ đạo mở các lớp bồi dưỡng, cập nhật, bổ sung kiến thức mới cho cán bộ, lãnh đạo, quản lý theo chức danh, kể cả các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; mở các lớp bồi dưỡng cho bí thư huyện ủy và tương đương; tổ chức 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp ở Trung ương, mỗi lớp trong thời gian 4 tháng, với hơn 500 đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quy hoạch tham dự.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và còn thiếu tầm chiến lược. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đồng bộ, cồng kềnh, phân tán; công tác quản lý đào tạo thiếu thống nhất; chưa cân đối giữa đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị với chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý nhà nước; trong đào tạo chuyên môn cũng mất cân đối giữa các ngành nghề và lĩnh vực công tác…
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI
Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, trong những năm tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị các cấp cần quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ. Đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số nội dung cụ thể sau đây:
1. Phương hướng chung
Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ trong tình hình hiện nay, Nghị quyết Đại Hội XII của Đảng chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ” Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước “, với các nội dung chủ yếu sau:
(1). Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về xây dựng Đảng, như: quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, giữa đức và tài, giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và trong hệ thống chính trị.
(2). Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp…
(3). Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị. Gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
(4). Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Ban chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Đấu tranh có hiệu quả với với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
(5). Đổi mới mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chon những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài.
2. Nhiệm vụ, giải pháp
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, trong những năm tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị các cấp cần quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ. Đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số nội dung cụ thể sau đây:
Trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
(1). Tiếp tục thể chế, cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
(2). Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính trị. Tiếp tục cải tiến quy trình công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội.
(3). Mở rộng và phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, công tâm, công khai, minh bạch.
(1). Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
(2). Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp. Quy chế hoá trách nhiệm cá nhân trên các phương diện: trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm công dân. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, công tâm, công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện;
(3). Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong nhận xét, đánh giá cán bộ. Lấy số lượng, chất lượng và hiệu quả hoàn thành các nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ;
(4). Các cấp ủy, tổ chức đảng quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; về các mối quan hệ xã hội ở nơi công tác và nơi cư trú.
(1). Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ; phải gắn với các khâu khác của công tác cán bộ, bảo đảm sự liên thông giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các ngành và trong đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
(2). Phải đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ theo quy trình chặt chẽ trước khi đưa vào quy hoạch; hàng năm phải tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, đưa những người không đủ tiêu chuẩn khỏi danh sách quy hoạch và bổ sung những người tiêu biểu, xuất sắc vào quy hoạch.
(3). Quy hoạch cán bộ phải bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Đối với cán bộ đương chức, chỉ quy hoạch vào các chức vụ cao hơn. Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch phải bảo đảm từ 1,5 đến 2 lần cán bộ đương chức; mỗi chức danh cán bộ quy hoạch từ 2 – 3 người và một người có thể quy hoạch cho nhiều chức danh.
(4). Phải bảo đảm cơ cấu 03 độ tuổi trong quy hoạch và gian cách giữa các độ tuổi là 5 năm; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch không dưới 15%. Nếu không bảo đảm cơ cấu thì cấp trên không phê duyệt và có thể bổ sung cán bộ từ nơi khác vào quy hoạch.
(5). Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ (công khai về tiêu chuẩn, số lượng và danh sách cán bộ quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt). Xây dựng cơ chế, chính sách trọng dụng người tài để tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược.
(6). Đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.
(1). Việc luân chuyển cán bộ phải được chọn lọc kỹ lưỡng, thực hiện theo quy trình chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu quả. Thực hiện việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên và luân chuyển ngang giữa các địa phương; giữa các cơ quan Đảng, đoàn thể với các cơ quan Nhà nước và ngược lại.
(2). Xây dựng cơ chế và đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện và một số ngành (toà án, viện kiểm sát, công an, thuế,… không là người địa phương. Phấn đấu đến năm 2017, thực hiện từ 35 – 50% ở cấp tỉnh; 50 – 60% ở cấp huyện.
(3). Kết hợp thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý với luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ trong thực tiễn.
(1). Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải trên cơ sở quy hoạch và theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Đẩy mạnh bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh và cán bộ dự nguồn ở các cấp, kể cả các đồng chí là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
(2). Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng về mọi mặt của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả trong và ngoài nước; cả trong và ngoài khu vực kinh tế nhà nước.
( 3). Sớm xây dựng chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chiến lược quốc gia về nhân tài để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ
(1). Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc, nhất là người đứng đầu. Mở rộng việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo quản lý và giới thiệu nhiều nhân sự để lựa chọn. Thực hiện chủ trương những người dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
(2). Thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty, tập đoàn kinh tế… không hoàn thành nhiệm vụ, kém về phẩm chất đạo đức, yếu về năng lực, tín nhiệm thấp, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
(3). Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.
(4). Thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong Đảng; cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc trao và thực thi quyền lực của tổ chức và cá nhân, ngăn ngừa sự lộng quyền, vượt quyền. Thực hiện nghiêm túc việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy; cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội theo hướng mở rộng đối tượng tham gia.
( 5). Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó.
(6). Phối hợp chặt chẽ công tác kiểm tra giám sát của Đảng, với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Kiểm tra, giám sát, chặt chẽ việc kê khai và công khai, minh bạch việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp.
(7). Nghiên cứu, xây dựng quy định về xử lý và truy cứu trách nhiệm đối với cán bộ, đảng viên có sai phạm khi đã chuyển vị trí công tác khác hoặc đã nghỉ hưu.
(8). Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ; xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ có bản lĩnh, công tâm, khách quan, liêm khiết và gương mẫu./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) về ” Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước “;
3. Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về ” Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” và Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị (khoá IX) về ” Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước “;
4. Kết luận 37-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về ” Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020″;
5. Nghị quyết 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI): ” Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
6. Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (khoá XI) về ” Tăng cường và đổi mới công tác Dân vận của Đảng trong tình hình mới”.
7. Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị (khoá XI) về ” Đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo “.
8. Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về ” Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý…”.
9. Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành ” Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội “.
10. Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành ” Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền “.
11. Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về ” Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ XII của Đảng”.
12. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Nâng Cao Năng Lực Thực Thi Công Vụ Của Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức
Ngày đăng: 13/09/2017 03:13
Lao động của CBCC là loại lao động đặc biệt, nhiệm vụ trực tiếp của họ là thực thi công vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước. Đồng thời chính họ đóng vai trò tham mưu, tạo dựng luật pháp, xây dựng hệ thống pháp luật từng bước hoàn chỉnh để làm công cụ quản lý xã hội. Lao động của CBCC có vai trò quan trọng trong đảm bảo trật tự, kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh liên tục, không khoan nhượng với các hiện tượng quan liêu, hành vi tham nhũng, cửa quyền, tiêu cực khác, làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC.
1. Năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức
Năng lực thực thi công vụ là thuật ngữ chỉ khả năng thể chất và trí tuệ của CBCC trong việc sử dụng tổng hợp các yếu tố như kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi để thực hiện công việc được giao. Năng lực thực thi công vụ còn bao hàm khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố trên trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt được hiệu quả công việc cao nhất.
Năng lực thực thi công vụ của CBCC được tiếp cận trên nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, về kiến thức: là tổng hợp những tri thức mà CBCC thu nhận được biểu hiện qua bằng cấp, trình độ đào tạo, kiến thức và kinh nghiệm xã hội mà họ tích lũy và học hỏi được trong cuộc sống. Kiến thức có được qua đào tạo của CBCC bao gồm: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hóa, trình độ tin học, ngoại ngữ, lý luận chính trị và các kiến thức nền tảng về văn hóa, kinh tế – xã hội.
Thứ hai, về kỹ năng: là tổng hợp các cách thức, phương thức, biện pháp tổ chức và thực hiện công việc, thể hiện ở khả năng vận dụng kiến thức chuyên môn vào thực tế giải quyết các công việc cụ thể. Để đạt được những kỹ năng xử lý công việc thành thạo, mỗi CBCC cần có những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng làm việc độc lập, làm việc nhóm, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng ra quyết định…
Năng lực thực thi công vụ luôn gắn liền với một môi trường làm việc nhất định. Vì thế, khi xem xét, đánh giá năng lực thực thi công vụ của CBCC không nên tách rời khỏi môi trường làm việc và những công việc cụ thể được phân công. Năng lực thực thi công vụ cần được hiểu là khả năng thực hiện công việc một cách có hiệu quả trong một điều kiện nhất định, nó không hoàn toàn đồng nghĩa với trình độ được đào tạo hay chứng chỉ, bằng cấp về một lĩnh vực nào đó. Người có trình độ cao không đồng nhất với việc người đó có năng lực thực thi công vụ.
2. Năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức hiện nay
Trong những năm qua, đội ngũ CBCC nước ta có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ khi Luật cán bộ, công chức (2008) và Luật Viên chức (2010) ra đời, đội ngũ CBCC không ngừng được kiện toàn và phát triển về mọi mặt. CBCC được quan tâm quy hoạch, được tham gia vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trong quá trình công tác, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và kỹ năng xử lý công việc của CBCC được rèn luyện, góp phần nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước.
Bảng 1. Chất lượng công chức xét về trình độ
(Nguồn: Đề án “Chiến lược phát triển đội ngũ công chức đến năm 2020”,
Bộ Nội vụ, 2012)
Về số lượng, thực hiện chủ trương giữ ổn định biên chế công chức đến năm 2016, tập trung vào việc nâng cao chất lượng thực thi công vụ của CBCC (tại Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về Một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng đến năm 2020, Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở), số CBCC hưởng lương từ ngân sách nhà nước cơ bản giữ ổn định. Việc xác định và bổ sung, điều chỉnh biên chế công chức cho các bộ, ngành địa phương phải căn cứ trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ và cơ cấu ngạch công chức, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Biên chế công chức (bao gồm CBCC từ cấp huyện trở lên trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, biên chế công chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập và biên chế công chức cấp xã) năm 2014 là 281.714 người, không tăng so với số lượng CBCC từ năm 2011. Tuy nhiên, đội ngũ CBCC trong hệ thống chính trị của chúng ta vẫn trong tình trạng “đông nhưng không mạnh”; thừa những CBCC không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao nhưng thiếu những CBCC giỏi, có trình độ chuyên môn cao, làm việc có trách nhiệm và tâm huyết với công việc. Khả năng thực thi công vụ của CBCC thấp là nguyên nhân chính dẫn tới kết quả thực hiện nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống công vụ không cao, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, mặc dù đội ngũ CBCC được tuyển dụng trong những năm gần đây đã được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hầu hết đều có bằng cử nhân chuyên ngành, có trình độ ngoại ngữ, tin học… hơn nữa, trong quá trình công tác còn được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhưng mặt bằng tri thức của CBCC còn thấp so với yêu cầu của công việc, năng lực thực thi công vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
Thứ hai, kỹ năng làm việc chưa thành thạo, tính chuyên nghiệp chưa cao. Một bộ phận CBCC chưa có thói quen xây dựng kế hoạch làm việc nên việc triển khai thực hiện chưa khoa học, lúng túng, nhiều khi không đúng quy trình, quy định. Kỹ năng vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết những công việc cụ thể còn gặp nhiều lúng túng.
Thứ ba, nhiều CBCC tuy có bằng cấp nhưng năng lực thực thi công vụ còn hạn chế, đặc biệt là năng lực, kỹ năng hành chính (thể hiện qua năng lực soạn thảo, ban hành các văn bản hành chính, kỹ năng tham mưu…). Một số CBCC còn làm việc cầm chừng, thiếu trách nhiệm dẫn tới công việc tồn đọng, chậm tiến độ, chất lượng, hiệu quả không cao. Còn thiếu những CBCC có khả năng làm việc độc lập, có tính sáng tạo, đột phá trong cách thức giải quyết công việc. Hơn nữa, lao động của đội ngũ CBCC là loại lao động đặc biệt có chất lượng cao. Họ chính là những người tham mưu, xây dựng và ban hành chính sách để áp dụng vào đời sống thực tế. Tuy nhiên, không ít chính sách vừa được ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung vì chưa phù hợp, nhiều văn bản ban hành nhưng hiệu lực thực thi thấp vì không thể áp dụng vào cuộc sống.
Thứ tư, tinh thần làm việc, thái độ phục vụ người dân chưa cao, đạo đức, văn hóa giao tiếp bị xuống cấp. Nhiều CBCC có thái độ nhũng nhiễu, xử lý công việc máy móc, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, nhận thức về pháp luật hạn chế, còn để lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm chi phối hoạt động công vụ. Nhiều CBCC chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động công vụ.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
– Công tác cải cách chế độ công vụ, công chức và công tác quản lý CBCC chưa thực sự đổi mới. Kỷ luật, kỷ cương hành chính, việc chấp hành sự chỉ đạo, điều hành chưa nghiêm; công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện còn lỏng lẻo, nể nang. Nhiều chính sách được ban hành nhưng vẫn chưa chú trọng đến việc phát huy năng lực, khuyến khích những tài năng, tạo động lực cho CBCC hăng say, nhiệt tình, sáng tạo trong thực thi công vụ, chưa thực sự mạnh dạn sàng lọc để tinh gọn bộ máy cũng như đổi mới để tuyển chọn và giữ chân người tài làm việc trong bộ máy hành chính.
– Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực thi công vụ của CBCC chưa thực sự được coi trọng. Cách đánh giá chất lượng CBCC hiện nay còn mang tính hình thức, cào bằng, không tạo được động lực cho CBCC thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn dàn trải, chưa tập trung, kém hiệu quả.
– Tiền lương chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của CBCC. Việc đổi mới cơ chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính); việc xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công còn chậm dẫn tới bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, kém chất lượng, số lượng người hưởng lương từ ngân sách nhà nước quá lớn tạo gánh nặng không nhỏ lên ngân sách nhà nước. Đề án vị trí việc làm, tinh giản biên chế triển khai còn chậm, thiếu hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới chất lượng thực thi công vụ của CBCC còn thấp.
4. Một số định hướng nâng cao chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức
Thứ nhất, tăng cường rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức cho CBCC theo hướng thực sự là “công bộc” của dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC để thực sự là “công bộc” của dân là thách thức trong điều kiện mới. Vì vậy, chế độ công chức, công vụ mới cần thiết lập là một bước chuyển về chất của quan hệ nhà nước với dân, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc tới các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”.
Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức hành chính theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp và đáp ứng tốt yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính. Nước ta đang từng bước xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, do đó đội ngũ CBCC cần được đào tạo, bồi dưỡng chính quy và có hệ thống, thường xuyên cập nhật kiến thức và nâng cao kỹ năng hành chính mới, tri thức khoa học công nghệ. Đặc biệt, khi đẩy nhanh việc xây dựng và thực hiện chính phủ điện tử thì yêu cầu về tính chuyên nghiệp của CBCC càng trở nên cấp thiết.
Thứ ba, CBCC phải tinh thông về pháp luật, chấp hành đúng pháp luật và có khả năng kiểm soát xã hội thực hiện đúng pháp luật. CBCC là chủ thể của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, trọng tâm là xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân, phục vụ phát triển theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại. Tất yếu này đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ, thực thi quyền lực nhà nước theo pháp luật.
Thứ tư, tăng cường công tác đào tạo ngoại ngữ và luật pháp quốc tế cho đội ngũ CBCC đảm bảo tính hội nhập quốc tế của nền công vụ. Để tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện thì hệ thống hành chính của nước ta cần phải đổi mới theo hướng hội nhập quốc tế. Do đó, yêu cầu mới về chất lượng của CBCC nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trở nên cấp thiết. Trong đó, hai yếu tố trọng tâm trong phát triển đội ngũ CBCC nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập là trình độ ngoại ngữ và kiến thức về luật pháp, thông lệ quốc tế.
Thứ năm, đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và quản lý CBCC đảm bảo công khai, minh bạch là một trong các giải pháp thiết yếu nhằm kiềm chế và chống nạn tham nhũng. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đòi hỏi nhà nước phải có những quyết sách đúng đắn về tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo, quản lý và thanh lọc làm trong sạch đội ngũ CBCC. Những thách thức trong quá trình chuyển đổi, phát triển nhanh và bền vững đang đặt ra trọng trách cho đội ngũ CBCC là phải đi đầu trong cải cách cơ bản bộ máy nhà nước và cải cách hành chính. Đảm bảo tính trong sạch của đội ngũ CBCC là biện pháp tất yếu nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các hành vi tiêu cực khác. CBCC phải gương mẫu, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh này cùng với sự tham gia của cả hệ thống chính trị cũng như toàn xã hội.
Thứ sáu, CBCC có khả năng và động lực để tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chất lượng thực thi công vụ trên cơ sở chính sách tiền lương và thù lao lao động xứng đáng. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới là đổi mới chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với CBCC; đảm bảo cho những CBCC trẻ và có trình độ cao yên tâm công tác, cống hiến trong khu vực hành chính công. Chế độ tiền lương và thu nhập của CBCC phải cao hơn mức trung bình trong xã hội. Mặt khác, để đảm bảo tiền lương thực sự là giá cả sức lao động thì tiền lương phải phù hợp với những đóng góp thực sự của từng loại CBCC. Do đó, cần hoàn thiện các quy định về đánh giá CBCC trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, thực hiện chế độ loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
Thứ bảy, chuẩn hóa và nâng cao trình độ của đội ngũ CBCC cấp xã trên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, hoàn thiện các chức danh và tiêu chuẩn nghiệp vụ. Do những yếu tố lịch sử nên đội ngũ CBCC cấp xã hiện nay còn nhiều bất cập. Trong khi đó, cấp xã là cấp quản lý hành chính tiếp xúc trực tiếp với người dân, trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh cũng như triển khai thực hiện các văn bản quy định của nhà nước. Do đó, để đảm bảo nền hành chính hiện đại, thực sự là của dân, do dân và vì dân thì nhà nước cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức xã, phường, đặc biệt là công chức tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
ThS. Đào Thị Kim Lân – Trường Đại học Lao động – Xã hội
1. Đề án “Chiến lược phát triển đội ngũ công chức đến năm 2020″, Bộ Nội vụ, 2012.
2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khóa VIII về “Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Khóa X về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng; định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội”; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị khóa XI “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”;
3. Báo cáo số 604/BC-CP ngày 04/11/2015 của Chính phủ “Về việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến năm 2015”.
tcnn.vn
Bạn đang xem bài viết Một Số Vấn Đề Về Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức (Phần Cuối) trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!