Xem Nhiều 6/2023 #️ Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo # Top 8 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo, Muc Tieu Phuong Cham Giai Phap Phong Chong Chong Dich Loi Dung Dan Toc Ton Giao , Tiểu Luận Giáo Lý Ngũ Uẩn Trong Pháp Học Và Pháp Hành, Giai Pháp Cho Tiêu Chuẩn Leed, Chuyên Đề Về Giải Pháp Đẩy Mạnh Tiêu Thụ, Tieu Luan Giai Phap Nang Cao Y Duc Cua Can Bo Nghanh Y Te, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đầu Tư Công, Tiểu Luận Giải Pháp Phòng Chống Tham Nhũng, Tiểu Luận Về Thất Nghiệp ở Việt Nam. Thực Trạng Giải Pháp, Tiểu Luận Giải Quyết Tình Huống Về Tư Pháp Quốc Tế, Tiểu Luận Thất Nghiệp ở Việt Nam Hiện Nay Thực Trạng Và Giải Pháp, Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Xây Dựng Nông Thôn Mới, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Tw5, Khóa Xii (Đối Với Lớp Cán Bộ Đảng Viên Cơ Sở) … Mục Tiêu, Giải Pháp, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Tw5, Khóa Xii (Đối Với Lớp Cán Bộ Đảng Viên Cơ Sở) … Mục Tiêu, Giải Pháp , Tiểu Luận Về Thất Nghiệp ở Việt Nam Hiện Nay Thực Trạng Và Giải Pháp, Giải Pháp An Toàn Giao Thông, Giải Pháp Giao Tiếp ứng Xử Nơi Công Sở, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Đội Ngũ Lãnh Đạo Cấp Phòng, Tiểu Luận Thực Trạng Nhiệm Vụ Giải Pháp Xây Dựng Đội Ngũ Đảng Viên, Tiểu Luận Hiến Pháp:bảo Đảm Thục Hiện Văn Hóa Giáo Dục Của Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Đội Ngũ Lãnh Đạo Cấp Phòng Tại Địa Phương/Đơn Vị, Các Chiến Lược Và Giải Pháp Quản Lý Giao Thông Cho Hà Nội, Tiểu Luận Nhiệm Vụ Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch Vững Mạnh Hiện Nay, Nêu Tồn Tại Về Vấn Đề Giao Tiếp ứng Sử Tìm Nguyên Nhân Va Giải Pháp Khắc Phục, Quan Điểm, Thực Trạng, Giải Pháp Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Việt Nam, Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Phân Cấp Quản Lý Nhà Nước Đối Với Giáo Viên, Hãy Kể Tên 09 Giải Pháp Phát Triển Giáo Dục Việt Nam Theo Nghị Quyết 29/nq-tw, Chỉ Thị Về Việc Tăng Cường Giải Pháp Phòng, Chống Bạo Lực Học Đường Trong Cơ Sở Giáo Dục, Bộ Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Công Tác Phổ Biến Giáo Dục Pháp Luật, Đề Tài: Giải Quyết Tình Huống Giáo Viên Không Soạn Bài Khi Lên Lớp Của Giáo Viên Tại Trường Tiểu Học, Đề Tài: Giải Quyết Tình Huống Giáo Viên Không Soạn Bài Khi Lên Lớp Của Giáo Viên Tại Trường Tiểu Học, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Tiểu Luận Vấn Đè Tôn Giáo Nguyên Tắc Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác-leenin Trong Việc Giải Quyết Vấn Đè Tô, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Phân Công Công Việc Cho Công Chức Phòng Nội Vụ, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Giải Pháp Đấu Tranh Phòng Chống Địch Lợi Dụng Vấn Đề Dân Tộc, Ttoon Giáo Chống Phá Cách Mạng Nươcs T, Giải Pháp Đấu Tranh Phòng Chống Địch Lợi Dụng Vấn Đề Dân Tộc, Ttoon Giáo Chống Phá Cách Mạng Nươcs T, Giải Thích Câu Tục Ngiải Pháp Chủ Yêu Đường Lối, Chính Sách, Pháp Luật Của Đẩng, Nhà Nươc…, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 1) Pdf, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Vũ Mai Phương, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 1), Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 2) Pdf, Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Ta Trong Giai Đoạn Hiện Nay. , Liên Hệ Giải Pháp Xây Dựng Giai Cấp Công Nhân Trong Các Trường Học, Phân Tích Những Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 Tập 1, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh, Các Đồng Chí Hẫy Trình Bày Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Tron Sạch Vững Mạnh Trong Giai Đoạn H, Tiểu Luận Phương Pháp Dạy Tiếng Việt ở Tiểu Học, Tiểu Luận Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Hòa Giải, Các Đồng Chí Hãy Trình Bày Các Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch, Vững Mạnh Trong Giai, Các Đồng Chí Hãy Trình Bày Các Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch, Vững Mạnh Trong Giai , Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch Vững Mạnh Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Nhiệm Vụ Và Giai Pháp Xây Dựng Đẳn Trong Sạch Vững Mạnh Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Tiểu Luận Giai Cấp Công Nhân Việt Nam Và Sứ Mệnh Lịch Sử Của Nó Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Phân Tích Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch Vững Mạnh Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Nội Dung Chủ Yếu Của Chiến Lược Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Giai Đoạn Hiện Nay 1. Mục Tiêu : * Mục Tiêu T, Nội Dung Chủ Yếu Của Chiến Lược Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Giai Đoạn Hiện Nay 1. Mục Tiêu : * Mục Tiêu T, Tiểu Luận Pháp Luật Và Hệ Thống Pháp Luật Xhcn Việt Nam, Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Với Pháp Luật Thương Mại, Bản Mô Tả Giải Pháp Hữu ích, Giải Pháp, Giải Pháp Hữu ích, Giai Phap Co Ban, Bản Mô Tả Giải Pháp Dự Thi, Giáo Trình Môn Pháp Luật Giao Thông Đường Bộ, Giải Pháp Vấn Đề Gia Tăng Dân Số, Giải Pháp Khu Vực Phòng Thủ, Bản Mô Tả Giải Pháp Skkn, Giải Pháp Đại Hội Đảng 8, Đơn Đăng Ký Giải Pháp Hữu ích, Giải Pháp E Marketing, Thủ Tục Đăng Ký Giải Pháp Hữu ích, Yêu Cầu Giải Pháp Nâng Cao, Giải Pháp Cho Vinfast, Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh, Cac Giai Phap An Ninh Quoc Gia, Giải Pháp Xây Dựng Đoàn Kết Nội Bộ, Giải Pháp Với Khách Hàng, 7 Giải Pháp Nghị Quyết 36, Đáp án Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh, Giải Pháp Marketing Online, Phương Pháp Giải Bài Tập ăn Mòn Kim Loại, Phương Pháp Giải Bài Toán Hỗn Hợp, Bài Giải Phương Pháp Tính, Giải Pháp Xây Dựng Khu Vực Phòng Thủ, Đề Tài Giải Pháp Tăng Doanh Thu, Giai Phap Nang Cao Y Duc Cua Can Bo Nghanh Y Te, Giải Pháp Sẵn Sàng Đối Phó Của Hội Chữ Thập Đỏ, Phương Pháp Giải Toán 8, Giải Pháp Quản Lý Môi Trường, Nhiệm Vụ, Giải Pháp Về Bảo Vệ Môi Trường, Tiểu Luận Phát Triển Kỹ Năng Giao Tiếp Cho Học Sinh Tiểu Học, Bài Tham Luận Hay Về Giải Pháp Đảm Bảo Antt,

Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo, Muc Tieu Phuong Cham Giai Phap Phong Chong Chong Dich Loi Dung Dan Toc Ton Giao , Tiểu Luận Giáo Lý Ngũ Uẩn Trong Pháp Học Và Pháp Hành, Giai Pháp Cho Tiêu Chuẩn Leed, Chuyên Đề Về Giải Pháp Đẩy Mạnh Tiêu Thụ, Tieu Luan Giai Phap Nang Cao Y Duc Cua Can Bo Nghanh Y Te, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đầu Tư Công, Tiểu Luận Giải Pháp Phòng Chống Tham Nhũng, Tiểu Luận Về Thất Nghiệp ở Việt Nam. Thực Trạng Giải Pháp, Tiểu Luận Giải Quyết Tình Huống Về Tư Pháp Quốc Tế, Tiểu Luận Thất Nghiệp ở Việt Nam Hiện Nay Thực Trạng Và Giải Pháp, Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Xây Dựng Nông Thôn Mới, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Tw5, Khóa Xii (Đối Với Lớp Cán Bộ Đảng Viên Cơ Sở) … Mục Tiêu, Giải Pháp, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Tw5, Khóa Xii (Đối Với Lớp Cán Bộ Đảng Viên Cơ Sở) … Mục Tiêu, Giải Pháp , Tiểu Luận Về Thất Nghiệp ở Việt Nam Hiện Nay Thực Trạng Và Giải Pháp, Giải Pháp An Toàn Giao Thông, Giải Pháp Giao Tiếp ứng Xử Nơi Công Sở, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Đội Ngũ Lãnh Đạo Cấp Phòng, Tiểu Luận Thực Trạng Nhiệm Vụ Giải Pháp Xây Dựng Đội Ngũ Đảng Viên, Tiểu Luận Hiến Pháp:bảo Đảm Thục Hiện Văn Hóa Giáo Dục Của Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Đội Ngũ Lãnh Đạo Cấp Phòng Tại Địa Phương/Đơn Vị, Các Chiến Lược Và Giải Pháp Quản Lý Giao Thông Cho Hà Nội, Tiểu Luận Nhiệm Vụ Giải Pháp Xây Dựng Đảng Trong Sạch Vững Mạnh Hiện Nay, Nêu Tồn Tại Về Vấn Đề Giao Tiếp ứng Sử Tìm Nguyên Nhân Va Giải Pháp Khắc Phục, Quan Điểm, Thực Trạng, Giải Pháp Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Việt Nam, Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Phân Cấp Quản Lý Nhà Nước Đối Với Giáo Viên, Hãy Kể Tên 09 Giải Pháp Phát Triển Giáo Dục Việt Nam Theo Nghị Quyết 29/nq-tw, Chỉ Thị Về Việc Tăng Cường Giải Pháp Phòng, Chống Bạo Lực Học Đường Trong Cơ Sở Giáo Dục, Bộ Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Công Tác Phổ Biến Giáo Dục Pháp Luật, Đề Tài: Giải Quyết Tình Huống Giáo Viên Không Soạn Bài Khi Lên Lớp Của Giáo Viên Tại Trường Tiểu Học, Đề Tài: Giải Quyết Tình Huống Giáo Viên Không Soạn Bài Khi Lên Lớp Của Giáo Viên Tại Trường Tiểu Học, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Tiểu Luận Vấn Đè Tôn Giáo Nguyên Tắc Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác-leenin Trong Việc Giải Quyết Vấn Đè Tô, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Phân Công Công Việc Cho Công Chức Phòng Nội Vụ, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Giải Pháp Đấu Tranh Phòng Chống Địch Lợi Dụng Vấn Đề Dân Tộc, Ttoon Giáo Chống Phá Cách Mạng Nươcs T, Giải Pháp Đấu Tranh Phòng Chống Địch Lợi Dụng Vấn Đề Dân Tộc, Ttoon Giáo Chống Phá Cách Mạng Nươcs T, Giải Thích Câu Tục Ngiải Pháp Chủ Yêu Đường Lối, Chính Sách, Pháp Luật Của Đẩng, Nhà Nươc…, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 1) Pdf, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Vũ Mai Phương, Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 1), Ngữ Pháp Và Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Cơ Bản Và Nâng Cao 20/80 (tập 2) Pdf, Nhiệm Vụ Và Giải Pháp Xây Dựng Đảng Ta Trong Giai Đoạn Hiện Nay. , Liên Hệ Giải Pháp Xây Dựng Giai Cấp Công Nhân Trong Các Trường Học,

Hướng Dẫn Chi Tiết Chuyên Đề “Vấn Đề Tôn Giáo Và Chính Sách Tôn Giáo”

Đây là nội dung cơ sở của cả chương trình. Vì vậy, trong phần này, giảng viên cần phân tích làm rõ được các nội dung sau:

1. Bản chất, nguồn gốc tôn giáo và các hình thức tôn giáo trong lịch sử

Trong phần này, giảng viên cần phân tích, làm rõ được khái niệm, bản chất, hình thức biểu hiện của tôn giáo.

Về mặt hình thức biểu hiện , mõi tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lý), các quy định về kiêng cữ, cấm kỵ (giáo luật), các hình thức về thờ cúng, lễ bái (giáo lễ) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo (giáo đường – cơ sở thờ tự).

Trong phần này, giảng viên cần phân tích, làm rõ được 03 nguồn gốc ra đời và tồn tại của tôn giáo:

Trong phần này, giảng viên cần phân tích, làm rõ được:

Hình thức nguyên thủy của tôn giáo phổ biến là: – Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp. Tô-tem giáo; Ma thuật giáo; Bái vật giáo; Vật linh giáo

Tôn giáo trong xã hội có giai cấp – Tôn giáo trong xã hội có giai cấp. thường gắn với chính trị, xuất hiện tôn giáo thế giới và tôn giáo dân tộc.

2. Tính chất chung của tôn giáo

on người sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử.

+ Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó.

+ Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội, tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.

– Tính chất quần chúng của tôn giáo thể hiện ở tín đồ các tôn giáo thuộc tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới. Nếu chỉ tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến một nửa dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo.

– Tính chất quần chúng của tôn giáo xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt, cho đến nay sự phát triển của khoa học, sản xuất và xã hội chưa loại bỏ được những nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng…

– Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống trị lợi dụng tôn giáo phục vụ lợi ích của mình.

– Trong xã hội xã hội chủ nghĩa tôn giáo hoàn toàn tách rời với chính trị. Nhà nước thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, bao gồm quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào; sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo thuần túy, không gắn với chính trị. Chính sách tôn giáo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đã loại bỏ hoàn toàn tính chất chính trị của tôn giáo.

– Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới hiện thực vào đầu óc con người, giải thích một cách duy tâm, thần bí những thực tại xã hội mà con người đang gặp phải. Vì vậy, tôn giáo mang tính chất duy tâm, đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học.

– Trong thời đại cách mạng công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay, tôn giáo có sử dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo, đồng thời vẫn tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, gieo vào đầu óc con người những định mệnh không thể cưỡng lại…

3. Chức năng của tôn giáo

Đây là một trong những nội dung trọng tâm của phần I. Trong phần này, giảng viên cần đi sâu phân tích làm rõ được các chức năng của tôn giáo.

Mỗi tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi: Thế giới này (kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hình này là gì? Có thể nhận thức được không? V.v…Dù phản ánh hư ảo thế giới khách quan, nhưng tôn giáo luôn có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của con người về nhận thức thế giới: tự nhiên, xã hội và chính con người.

Con người trong thế giới đời thường luôn bị sức ép của những sức mạnh tự nhiên cũng như xã hội (sự bóc lột giai cấp) không tìm được lời giải đáp chính xác về nguyên nhân của những bất bình đẳng xã hội và biện pháp khắc phục nó, cũng như bất lực trong cuộc đấu tranh giai cấp, phải sống trong nỗi lo sự khốn cùng, bất hạnh, trong khi chưa được soi sáng bởi một chân lý – chân lý cách mạng – có thể tìm thấy trong tôn giáo những giải đáp làm nguôi ngoai đi những khổ đau và ấp ủ một hi vọng hư ảo. Sự đền bù hư ảo của tôn giáo, nhưng lại có tác dụng hiện thực, bởi nhờ có nó mà con người trong những lúc khổ đau tuyệt vọng nhất vẫn được an ủi và vẫn nuôi hy vọng vượt qua, hạn chế được những hành vi vô nghĩa hoặc tai hại cho đồng loại.

Tôn giáo đã tạo nên hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức. Qua những điều cấm kỵ, răn dạy đã điều chỉnh hành vi của mỗi tín đồ trong đời sống cộng đồng.

Tôn giáo có khả năng liên kết những con người cùng tín ngưỡng. Họ có chung một niềm tin, cùng bị ràng buộc bới giáo lý, giáo luật, cùng thực hiện một số nghi thức tôn giáo và những điểm tương đồng khác. Sự liên kết giữa các cộng đồng cùng tôn giáo rất chặt chẽ và lâu bền. Tuy nhiên, bên cạnh chức năng liên kết, tôn giáo cũng có khả năng bị phân ly vì sự khác biệt tín ngưỡng.

4. Phân biệt giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Đây là nội dung trọng tâm của phàn I và cũng là một trong những nội dung trọng tâm của bài.

” là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”.

“là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”.

Theo quan điểm truyền thống, người ta có ý thức phân biệt giữa tôn giáo và tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo.

Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện ở một số điểm như:

+ Tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các , , … Tín ngưỡng mang , gắn với sinh hoạt . Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ…

Hoạt động tín ngưỡng : ” là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội

Hoạt động tôn giáo “là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

Trong phần này, giảng viên cần nêu, làm rõ những nội dung sau:

1. Xu hướng phục hồi và phát triển của tôn giáo cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI

Kể từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự thay đổi của lịch sử hiện thực. Hiện nay, ở hầu hết các châu lục, tôn giáo đang hồi sinh và phát triển mạnh mẽ dù cho nó có sự biến đổi sâu sắc về nhiều mặt. Người ta nói nhiều đến Hồi giáo (Ix-lam) với trên 1,3 tỷ tín đồ đang được củng cố ở Trung Đông, Bắc Phi, Tây Á, được phục hưng ở Trung Á, Đông Nam Á…, Thiên chúa giáo chính thống được khôi phục và phát triển mạnh ở Trung – Đông Âu, Tin lành đang phát triển mạnh Bắc Mỹ, Úc Châu, Nam Á…

những mâu thuẫn kinh tế, chính trị gay gắt, đẩy người ta đến với tôn giáo Thứ hai, trật khủng hoảng niềm tin về mô hình xã hội tương lai những hậu quả tiêu cực của sự phát triển khoa học- kỹ thuật và công nghệ mới sự lợi dụng tôn giáo của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng đen tối trên thế giới. 2. Những xu hướng biến đổi của tôn giáo tự thế giới đang có sự xáo trộn khó định trước

III. VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Những tác động của tôn giáo trong đời sống xã hội

Đây là một trong những phần trọng tâm của bài. Trong phần này, giảng viên cần làm rõ những nội dung sau:

– Tôn giáo có vai trò trong việc liên kết, tập hợp cộng đồng.

– Tôn giáo đã đóng góp khá lớn đối với các di sản văn hóa của nhân loại và góp phần chuyển tải các giá trị văn hóa, văn minh trong quá trình giao lưu với nhau trên thế giới.

– Vào buổi bình minh của lịch sử, tôn giáo hình thành như là một nhu cầu khách quan của con người, đáp ứng được những nhu cầu đó và bù đắp (hư ảo) những bất lực hiện thực của họ.

– Trong xã hội có giai cấp trước đây, các giai cấp bóc lột thống trị thường tìm cách lợi dụng các tôn giáo để thực hiện lợi ích của mình.

Nói chung, nếu gác sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực chính trị sang một bên, tôn giáo có tác động hai mặt đối với xã hội.

– Một mặt tôn giáo phản ánh khát vọng của con người, sự trăn trở của họ về một xã hội tốt đẹp hơn. Mặt khác, tôn giáo là sự kìm hãm quá trình hiện thực hóa khát vọng đó bởi nó phản ánh hiện thực một cách hoang đường, hư ảo.

– Một mặt tôn giáo làm tăng sự liên kết xã hội. Mặt khác tôn giáo cũng là nguyên nhân của sự rạn nứt các quan hệ xã hội do sự sùng tín hay tính cục bộ cố hữu của nó.

– Một mặt tôn giáo hướng con người về những giá trị cao cả, đạo đức, hướng thiện…. Mặt khác tôn giáo lại làm tăng tính thụ động của họ theo những giáo điều có sẵn và bất di bất dịch.

– Một mặt tôn giáo gợi lên những suy tư, tìm tòi, hướng tới xã hội cao đẹp, dù là ở trên trời. Mặt khác tôn giáo lại ngăn cản sự phát triển của khoa học.

2. Tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội

– Một mặt tôn giáo góp phần tạo dựng, tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa của dân tộc. Mặt khác tôn giáo lại kìm hãm sự sáng tạo hiện thực của con người …

– Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại và sẽ còn tồn tại lâu dài. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình đó là:

+ Tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều có tính bảo thủ. Khi những điều kiện kinh tế, xã hội sản sinh ra nó đã thay đổi nhưng bản thân nó biến đổi chậm hơn. Vì vậy, tôn giáo tồn tại với tư cách là một sản phẩm của lịch sử để lại.

+ Bản thân chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có khả năng khắc phục triệt để, ngay một lúc các nguồn gốc làm phát sinh và duy trì sự tồn tại của tôn giáo.

+ Giáo lý và hoạt động tôn giáo có một số yếu tố phù hợp với xã hội. Đó là mặt đạo đức, văn hóa của tôn giáo. Tôn giáo vẫn đang đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.

+ Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc”, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”…

– Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo đã có những biến đổi cơ bản. Tín ngưỡng, tôn giáo tách hẳn khỏi nhà nước và nhà trường, chỉ còn là công việc tôn giáo thuần túy. Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo, niềm tin tôn giáo. Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng.

1. Hãy phân tích nguồn gốc hình thành tôn giáo và tính chất chung của tôn giáo? 2. Hãy nêu và phân tích một số xu hướng biến đổi tôn giáo trên thế giới hiện nay? 3. Hãy nêu và phân tích những tác động của tôn giáo trong đời sống xã hội? Chuyên đề 2 TÌNH HÌNH TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

CÂU HỎI THẢO LUẬN

I. KHÁI QUÁT CHUNG ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

1. Việt Nam là nước có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng 2. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam mang tính dung hợp, đan xen, hòa đồng 3. Ttín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thể hiện tính trội của yếu tố nữ 4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người có công với gia đình, làng, nước 5. Về đội ngũ chức sắc, nhà tu hành – những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp ở Việt Nam 6. Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi 7. Tôn giáo ở Việt Nam thường bị các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng

Trong phần này, giảng viên cần nêu và phân tích rõ dặc điểm cơ bản về tình hình tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Cụ thể gồm các nội dung sau:

II- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO CỤ THỂ

a. Một số điểm chung về Phật giáo 2. Công giáo a. Một số điểm chung về Công giáo 3. Đạo Tin lành a. Một số điểm chung về đạo Tin lành: 4. Hồi giáo ( Ixlam) a. Một số điểm chung về Hồi giáo 5. Đạo Cao Đài a. Một số điểm chung về đạo Cao Đài b. Tình hình đạo Cao Đài trong những năm gần đây 6. Phật giáo Hòa Hảo a. Một số điểm chung về Phật giáo Hòa Hảo b. Tình hình Phật giáo Hòa Hảo trong những năm gần đây

Trong phần này, giảng viên cần nêu và phân tích rõ đặc điểm chung về điều kiện, thời gian, hoàn cảnh ra đời; về giáo lý; về nghi lễ; về tổ chức… của một số tôn giáo sau:

1. Hãy phân tích khái quát những nét chung về tình hình tôn giáo ở Việt Nam? 2. Hãy nêu và phân tích sự phát triển của một số tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? Chuyên đề 3 CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Trong bài này, giảng viên cần phân tích, làm rõ: Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Việc giải quyết vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức của quần chúng.

I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

1. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với cuộc vận động toàn dân đoàn kết cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới 2. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân 3. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo 4. Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo 5. Đoàn kết lương – giáo, hòa hợp dân tộc

Trong phần này, giảng viên cần đi sâu phân tích, làm rõ quan điểm chung của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Trong đó chú ý đi sâu phân tích những quan điểm sau:

II. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO

1. Quan điểm đối với công tác tôn giáo 2. Nguyên tắc thực hiện chính sách đối với tôn giáo

Đây là một trong những nội dung trọng tâm của bài, giảng viên cần phân tích, làm rõ:

– Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Mọi người đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa tôn giáo khác nhau.

– Đoàn kết, gắn bó đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

– Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gìn giữ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

– Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.

– Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

– Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn giáo.

– Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

III. NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC TÔN GIÁO VÀ NHỮNG CHÍNH SÁCH CỤ THỂ ĐỐI VỚI TÔN GIÁO HIỆN NAY

1. Nhiệm vụ của công tác tôn giáo hiện nay

Đây là một trong những nội dung trọng tâm của bài, giảng viên cần phân tích, làm rõ:

, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào là tín đồ các tôn giáo. Thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo; vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết xây dựng cuộc sống, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng.

2. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay

xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vùng có đông đồng bào tôn giáo ngày càng vững mạnh. Cán bộ, đảng viên nói chung và đảng viên theo tôn giáo nói riêng phải gương mẫu thực hiện và vận động các tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

a. Đối với tín đồ các tôn giáo b. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo

Trong phần này, giảng viên cần phân tích, làm rõ những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay. Đặc biệt cần lưu ý liên hệ với những chính sách cụ thể ở địa phương, đơn vị.

d. Đối với các hoạt động tôn giáo e. Đối với đất đai, nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo f. Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo g. Quản lý nhà nước và sử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo

c. Đối với các tổ chức tôn giáo

1. Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề tôn giáo? 2. Hãy trình bày khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay? 3. Trình bày những quan điểm, nguyên tắc và chính sách đối với tôn giáo? 4. Hãy nêu những nhiệm vụ của công tác tôn giáo và những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay? Chuyên đề 4 ĐẢNG VIÊN VỚI TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

CÂU HỎI THẢO LUẬN

I. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở CƠ SỞ VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

1. Cán bộ, đảng viên ở cơ sở giữ vai trò quan trọng trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước

Trong phần này, giảng viên cần làm rõ một số nội dung sau:

2. Yêu cầu chung đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương, chính sách tôn giáo c. Cần phân biệt sự khác nhau giữa tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các mục đích phi tôn giáo, chống đối Đảng, Nhà nước

Công tác tôn giáo cũng là một nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên từ Trung ương đến cơ sở. Trung ương xác định chủ trương, chính sách làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên vận dụng và thực hiện. Cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần phải xác định rõ nội dung lãnh đạo công tác tôn giáo của mình trong từng thời gian cụ thể. Trên cơ sở đó phân công trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên lãnh đạo và chỉ đạo chính quyền các tổ chức quần chúng thực hiện.

II. THÁI ĐỘ VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI VỚI TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

1. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người trong khuôn khổ chính sách, pháp luật 2. Đối xử bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân, tích cực vận động quần chúng có đạo tham gia sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân

Đây là một trong những nội dung trọng tâm của bài, giảng viên cần đi sâu phân tích, làm rõ một số nội dung sau:

1. Khái niệm

III. ĐẢNG VIÊN LÀ NGƯỜI CÓ ĐẠO VỚI SINH HOẠT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

Ở mục này, giảng viên cần làm rõ :

Khái niệm “đảng viên là người có đạo” là cách nói mới của khái niệm “đảng viên gốc tôn giáo” hoặc “đảng viên xuất thân từ tôn giáo” vẫn thường dùng trước đây. Nước ta có gần 27% dân số là tín đồ các tôn giáo (chưa kể đến các tín ngưỡng khác). Trong hàng ngũ của Đảng có những đảng viên là người có đạo. Đây là một thuận lợi trong mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng tín đồ các tôn giáo. Tuy nhiên, thời gian qua mối quan hệ giữa đảng viên có đạo và tín ngưỡng, tôn giáo mỗi nơi tiến hành một khác, thiếu hiệu quả.

2. Nhiệm vụ cụ thể của đảng viên là người có đạo trong quá trình tham gia sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo

Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa IX) tại Quy định số 123-QĐ/TW ngày 28-9-2004 quy định “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo” đã chủ trương: đảng viên có đạo cần phải tham gia sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo để liên hệ, gần gũi quần chúng và tuyên truyền vận động quần chúng làm cách mạng.

– Nói và làm trái với Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của Đảng và Hiến pháp, chính sách, pháp luật Nhà nước.

– Tiết lộ bí mật của Đảng.

– Theo đuôi quần chúng lạc hậu và kẻ xấu.

– Đảng viên là người có đạo có trách nhiệm báo cáo với chi bộ và tổ chức đảng về việc tham gia sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để được hướng dẫn, giúp đỡ.

Hãy trình bày vai trò của cán bộ, đảng viên ở cơ sở với việc thực hiện chính sách tôn giáo? 2. Phân tích nội dung về thái độ và nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên đối với tín ngưỡng tôn giáo? 3. Trình bày một số nhiệm vụ của đảng viên là người có đạo với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo?

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Bộ Môn Nhân Học/Tôn Giáo, Tín Ngưỡng Và Lễ Hội Ở Việt Nam/Những Vấn Đề Xung Quanh Khái Niệm Tôn Giáo

Trang chính: Tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội ở Việt Nam

Có nhiều định nghĩa về tôn giáo được đưa ra nhằm khái quát một cách chung nhất bản chất của tôn giáo:

– Giáo hội (thần học) cho rằng: tôn giáo là mối liên hệ của con người với Thượng đế, với Thần linh, với cái tuyệt đối, với một lực lượng nào đó, với sự siêu việt hóa,… Nhà thần học và triết học Tin Lành giáo, R. Otto (1869-1937) cho rằng tôn giáo là ” sự thể nghiệm cái thần thánh “

– Một số nhà tâm lý học lại cho rằng ” Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo“. V. Jemes (1842-1910) giải thích tôn giáo nhờ xuất phát từ tâm lý cá thể: ” Chúng ta thỏa thuận gọi tôn giáo là tổng thể những tình cảm, hành vi và kinh nghiệm của cá nhân riêng biệt vì nội dung của chúng quy định quan hệ với cái mà tôn giáo tôn sùng – Thượng đế “

Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử, Marx và Ăngghen cũng đưa ra định nghĩa khái quát bản chất của tôn giáo: – Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của Marx: ” Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân “

– Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: ” Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế “

Như vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau đã cố gắng khái quát bản chất của tôn giáo. Nhưng liệu có thể bao hàm tất cả bản chất của tôn giáo vào một khái niệm ngắn gọn có hợp lý không khi tôn giáo là một vấn đề phức tạp? Bây giờ chúng ta sẽ phân tích bản chất của tôn giáo từ những khái niệm của Marx và Ăngghen – vốn được nhiều người mặc nhiên coi là đúng nhất, trên cơ sở vừa tiếp thu vừa chỉ ra những hạn chế:

Trước hết, thành tựu của Marx và Ăngghen là chỉ ra tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con đường nhận thức. Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người, đối tượng của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người, còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư ảo. Với chủ thể, đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cai siêu nhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức, niềm tin. Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan, vì khi con ngưòi bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy. Điều đó cũng có nghĩa là bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của nó. Nhưng liệu phương thức tạo ra và sự phản ánh tôn giáo hoàn toàn chỉ là hư ảo hay không. Để trả lời câu hỏi này, khoan nói đến nguồn gốc của tôn giáo, ta cần phân tích nội dung, cơ sở của tôn giáo

1. Niềm tin và đức tin:

Về mặt nội dung, nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…

Theo quan điểm của Awngghen thì: tôn giáo là niềm tin của con người cho rằng:

+ cái không có thật, cái hư ảo chính là cái có thật

+ cái có thật trở thành cái linh thiêng, siêu nhiên

Quan điểm này của Ăng-ghen đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất đúng sai của niềm tin tôn giáo, tức là nhìn nhận tôn giáo bằng góc độ lý tính. Tuy nhiên niềm tin tôn giáo không chỉ đơn giản như thế, nó bao gồm 2 bộ phận: niềm tin và đức tin, được thể hiện thành tin rằng và tin vào. Ở đây chúng ta không nên đồng nhất hai khái niệm niềm tin và đức tin, mặc dù chúng là hai bộ phận của niềm tin tôn giáo. VD:

Tôi tin rằng Chúa tồn tại Tôi tin vào Chúa

Ở vế thứ nhất, hiển nhiên người ta có thể nghi ngờ rằng liệu chúa có thực sự tồn tại hay không, đó là một giả thiết, một quan điểm cho rằng cái không có thật, cái hư ảo chính là cái có thật theo định nghĩa của Ăng-ghen. Đó chính là niềm tin và có thể được kiểm chứng thực nghiệm bằng khoa học. Nhưng ở vế thứ hai thì việc kiểm chứng, nghi ngờ lại trở nên vô nghĩa. Việc một người tin vào ai, tin vào cái gì không phải là phạm trù khoa học có thể giải thích, chứng minh là đúng hay sai. Đức tin là hiện tượng tâm lý có thật và chắc chắn, mang tính chủ quan, không cần lý giải một cách khoa học cho nên nó không “tồn tại một cách hư ảo”. Đó là điều kiện để con người đến với tôn giáo và có ở bất kỳ tín đồ tôn giáo chân thành nào, ở đó con người gửi gắm bản thân cho những thế lực không phải con người. Đức tin mới là cơ sở chủ yếu của tôn giáo, không phải niềm tin, bởi vì chừng nào còn là một tín đồ tôn giáo thì còn đức tin, chẳng qua là nó còn ở mức độ nào thôi; còn niềm tin thì có sự biến động, thể hiện cụ thể trong sự thay đổi nội dung giáo luật. Hai khái niệm này hay bị nhầm lẫn và sử dụng tùy tiện, chúng ta nên phân biệt rạch ròi chúng.

Ngoài ra niềm tin không phải cái nào cũng được tạo thành bằng con đường hư ảo, có những niềm tin xuất phát từ cơ sở đạo đức, đời sống hàng ngày. VD: ở hiền gặp lành, tu nhân tích đức. Nếu coi chúng cũng là không có thật, hư ảo nốt thì khoa học cũng trở nên phi đạo đức nốt.

Từ lập luận trên, chúng ta nên nhìn nhận khách quan một số định nghĩa của các nhà triết học tư tưởng tôn giáo. Ở những định nghĩa này, tôn giáo được nêu lên là một hiện tượng tâm lý, xuất phát từ góc độ cá nhân tuy chưa thể hiện được đầy đủ bản chất của tôn giáo nhưng ít nhất cũng đã xem xét rằng bản chất tôn giáo là một hệ thống các niềm tin: Từ điển Oxford ghi rằng: “Tôn giáo là hệ thống của niềm tin và sự tôn thờ, là sự trực nhận của con người về năng lực chế ngự siêu nhiên, đặc biệt là về một ngôi vị Thượng đế có quyền uy được tuân phục, là kết quả của sự trực nhận như thế trong cách ứng xử, v.v… (System of faith and worship; human recognition of super human controlling power and especially of a personal God entitled to obedience, effect of such recognition on conduct etc…).

→ tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một phần bằng cách cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Ngoài bản chất xuất phát từ góc độ tâm lý cá nhân, tôn giáo còn mang bản chất xã hội

2. Bản chất xã hội của tôn giáo:

Marx nhìn nhận tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội. Qua câu nói “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim … tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

– Tôn giáo là sự phản ánh xã hội: Marx vẫn cố ý cho rằng tôn giáo là sự phản ánh là sự phản ánh xã hội, nhưng lại là sự phản ánh hư ảo, không chân thật. Thật ra tôn giáo có phản ánh hiện thực xã hội, chẳng qua bằng cách ẩn ý, đôi khi nói ngược. Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu lịch sử vẫn nghiên cứu bối cảnh lịch sử xã hội thông qua các giáo lý tôn giáo thời bấy giờ. VD : ” kẻ giàu lên thiên đường còn khó hơn con bò chui qua lỗ trôn kim “. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì làm gì có thiên đường để phân chia kẻ giàu người nghèo, nhưng qua điều răn này chúng ta vẫn có thể hiểu rằng : thời bấy giờ người giàu không được nhận làm tín đồ Kito giáo.

– Tôn giáo ở giai đoạn phát triển cao nhất của nó trở thành một hình thái ý thức xã hội. Ý thức xã hội là một khái niệm triết học chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng xã hội, là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội nhất định. Có 7 hình hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Như vậy tôn giáo là 1 trong 7 lĩnh vực tinh thần của con người. Đến đây có một điều cần phải nói: tôn giáo cũng như khoa học cùng là những hình thái ý thức xã hội thì tại sao lại phủ nhận lẫn nhau như vậy? Thực tế thì tôn giáo và khoa học chỉ mâu thuẫn về mặt phương pháp chứ không phủ nhận nhau: tôn giáo tạo ra một thế giới mới (thế giới tinh thần) để phục vụ nhu cầu tinh thần, còn khoa học thì sử dụng, cải tạo thế giới vật chất để phục vụ nhu cầu vật chất.

3. Tôn giáo gắn với văn hóa :

Bản chất của tôn giáo còn thể hiện ở chỗ tôn giáo là một thành tố của văn hóa, không có tôn giáo nào là phi văn hóa, bằng chứng là giáo lý, kinh kệ, kiến trúc cơ sở… hội họa, âm nhạc của tôn giáo đều là sản phẩm của con người, được con người sử dụng, đều là văn hóa Tôn giáo là hạt nhân của văn hóa, các tôn giáo lớn kiến tạo nên cả một nền văn minh, văn hóa VD: đạo Thiên chúa có: lễ Tết như lễ sinh nhật, lễ phục sinh, lễ thăng thiên, lễ hiện xuống, lễ minh thánh, lễ đức mẹ vô nhiễm nguyên tội, lễ đức mẹ lên trời, lễ chư thánh, lễ các linh hồn…Các thành tựu kiến trúc của Ấn độ như đền chùa, đặc biệt là các pho tượng thần Silva, Vishnu lúc dữ dằn lúc mềm mại uyển chuyển là những di sản to lớn của Ấn độ giáo, có giá trị kiến trúc, giá trị nghệ thuật vô cùng cao

Cùng với các lĩnh vực văn hóa khác thì tôn giáo đã tạo ra và tích lũy các phương thức và các thủ thuật thực hiện tồn tại người trong lĩnh vực hoạt động vật chất, cũng như trong lĩnh vực hoạt động tinh thần được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sau khi trở thành một bộ phận của chỉnh thể văn hóa, tôn giáo tích hợp những hiện tượng nghệ thuật, đạo đức, triết học, khoa học để xác định rõ khuôn khổ của mình và kế thừa các truyền thống. Thời kỳ đỉnh cao thì tôn giáo thống trị, bao trùm lên toàn bộ lĩnh vực văn hoá. Điều này đã từng xảy ra ở thời kỳ trung cổ. Trong quá trình thế tục hóa, khi xã hội chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản, các lĩnh vực văn hóa tinh thần như triết học, đạo đức, nghệ thuật, khoa học,… đã dần được giải phóng khỏi tôn giáo. Sự thế tục hóa các hệ thống đạo đức cũng diễn ra làm cho đạo đức tôn giáo đánh mất vị trí độc tôn trong xã hội.

Tóm lại: Tôn giáo là một hiện tượng tâm lý cá nhân, là đức tin vào những lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng. Tôn giáo đồng thời cũng là một hiện tượng xã hội, là bản thể của xã hội, là sự phản ánh hiện thực xã hội theo cách đặc biệt. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận quan trọng của đời sống tinh thần, tư tưởng của con người. Tôn giáo là một thành tố của văn hóa, hạt nhân của văn hóa, các tôn giáo lớn kiến tạo nên cả một nền văn minh, văn hóa. Văn hóa của các quốc gia, dân tộc hiện diện tôn giáo

Luận điểm nổi tiếng của C.Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo. Giống như thuốc phiện tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự làm nhẹ” tạm thời nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những mất mát, những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người, đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học.

Đây là cách hiểu của đại đa số người nghiên cứu về chủ nghĩa Marx, nhưng thực tế có phải Marx có ý nói như vậy không? câu trả lời là không phải bởi vì Trung Quốc là nơi mà chủ nghĩa Marx lan đến trước Việt Nam, vào bối cảnh đầu thế kỷ XX, các học giả Trung Quốc đặc biệt yêu thích câu nói tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân vì cuộc chiến tranh thuốc phiện (chiến tranh nha phiến) thế kỷ XIX vẫn là một sự kiện đánh dấu chủ nghĩa thực dân xâm chiếm Trung Quốc như thế nào. Do vậy người ta hiểu thuốc phiện theo ý ác cảm, cho rằng nó là chất gây nghiện, có hại, đem lại hạnh phúc hư ảo cho con người. Tới hiện nay các học giả Trung Quốc đã có cái nhìn khách quan hơn và đã hiểu lại rằng câu nói này của Marx ý nói tôn giáo là một hiện tượng tồn tại dai dẳng, lâu bền, không thể biến mất một sớm một chiều được, như khi người ta bị nghiện thì rất khó bỏ. Do vậy trong thời gian dài tôn giáo vẫn phải đảm nhiệm chức năng an ủi, giảm nhẹ nỗi đau, là tiếng thở dài của chúng sinh mà không gì có thể thay thế được. Chúng ta nên hiểu đây là quan điểm thiện cảm, là lời khuyên của Marx trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo, không phải đơn thuần là phê phán.

Đáp ứng nhu cầu tâm linh, tình cảm của con người

Chế ngự nỗi sợ hãi: con người ai cũng có nỗi sợ, và nỗi sợ lớn nhất là cái chết. Người ta luôn lo sợ cái chết là một điều khủng khiếp vì chưa ai hiểu được sau cái chết là gì. Sự bí hiểm của cái chết khiến người ta sợ hãi nó. Nắm được điểm này mà tôn giáo nào cũng xây dựng cho mình một thế giới sau khi chết như thiên đàng, địa ngục, diêm phủ, niết bàn…tức là cho người ta thấy viễn cảnh sau khi chết, nó như thế nào tùy thuộc vào sự mộ đạo, chân thành và tu dưỡng đạo đức.

Giải tỏa căng thẳng, lo âu: Biểu hiện rõ nhất qua lễ xưng tội của Kito giáo. Trong Công giáo người ta giãi bày mọi phiền não, lo âu của mình cho cha và nhận lại những lời khuyên. Đây là một phương pháp trị liệu tâm lý rất hiệu quả. Ở một số tôn giáo khác không cần qua những hoạt động thế này mà biểu hiện ngay trong giáo lý dạy cho tín đồ.

Giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, văn hóa con người

Tôn giáo tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh hành vi của con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà cả ở cuộc sống hàng ngày trong gia đình và xã hội của giáo dân VD: Phật giáo : cấm sát sinh, tà dâm, nói dối.

Không có tôn giáo nào dạy con người làm điều xấu, điều ác (trừ một số loại biến thái và chúng chẳng tồn tại được lâu). Bởi vì hai lý do: tôn giáo cần những chuẩn mực cho tín đồ

Chức năng giáo dục của tôn giáo được thể hiện ở hệ thống giáo dục một số nước. Về điểm này cần nói đến Nho giáo, một điều rất đặc biệt mà nho giáo đem lại cho xã hội phương Đông đó là khiến Nhà nước phải tuyển chọn người tài bằng con đường thi cử, học hành.

Tôn giáo cũng là một phương cách nhận thức khác khoa học. Có những khoa học dạy con người nhận thức thế giới một cách gián tiếp hoặc trực tiếp, trên cơ sở tri thức xác thực, duy lý, dựa trên lý tính, chân lý khách quan, phổ quát trong khi tôn giáo giúp con người nhận thức thế giới theo cách riêng, bằng thần bí, đức tin, cảm quan, trải nghiệm cá nhân.

Khoa học giúp con người nhận thức thế giới một cách khách quan, quan tâm tới các sự kiện; còn tôn giáo giúp con người nhận thức thế giới một cách chủ quan, quan tâm tới các giá trị. Tôn giáo có sự lý giải các vấn đề tự nhiên và xã hội – hướng con người tới cái siêu nhiên, thần thánh, xen nhẹ đời sống hiện thực

VD: được lên thiên đàng (quan niệm của kitô giáo, islam, Do thái) ở hiền gặp lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để giải thoát (đạo Phật)

chức năng liên kết cộng đồng qua tổ chức giáo hội

là chức năng có sau cùng, vì tôn giáo mang bản chất xã hội nên tôn giáo cũng có chức năng liên kết tín đồ, liên kết cộng đồng. Những người có cùng niềm tin tôn giáo thì dễ hiểu nhau và có xu hướng sống cố kết với nhau hơn với những người không cùng hoặc không có tôn giáo. Họ có thể bảo vệ nhau, chống lại những mối đe dọa hoặc chế độ phản tiến bộ đương thời. Nhưng cũng có khi Những cuộc thập tự chinh có những đoàn người Kito hành hương về đất thánh, trên đường đi họ bị cướp phá, sát hại. Giáo hội liền tổ chức các dòng kị sĩ đền để bảo vệ các đoàn hành hương này, thậm chí tham gia chiến tranh.

Chức năng giao tiếp, nhiều khi nó đồng nhất với chức năng liên kết cộng đồng

Thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ được thể hiện chủ yếu trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thần thánh được coi là giao tiếp tối cao.

Quan Điểm Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Vấn Đề Tôn Giáo, Tín Ngưỡng

Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Về nhận thức lí luận, Nghị quyết 24 nêu lên “3 luận đề” cơ bản về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng: Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; hai là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Để có được những tư tưởng đổi mới có tính “đột phá” nêu trên, Đảng CSVN tìm tòi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo vào tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, nhất là Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa IX), ngày 12/3/2003. Điều đó được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:

Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đây là khâu đột phá đầu tiên trong nhận thức tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo. Quan điểm này đã đi vào vấn đề có tính “bản thể luận” của tôn giáo vì đã nêu lên và trả lời cho câu hỏi: Tôn giáo là gì? Trước đây, tôn giáo thường được tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị với hai định nghĩa mang tính kinh điển: “tôn giáo là hình thái ý thức xã hội” và “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Đây là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan điểm mới của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo. Bởi vì, tôn giáo không chỉ là triết học (một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan), không chỉ là vấn đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi dụng), mà tôn giáo còn là lịch sử (phản ánh tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức (giải thích về thế giới và con người), là văn hóa (góp phần hình thành nên những nền văn minh và nếp sống văn hóa của loài người), là đạo đức (góp phần điều chỉnh hành vi của con người hướng tới những giá trị chân, thiện, mĩ), là lối sống (góp phần hình thành lối sống của những người có đạo) và tôn giáo là một thực thể xã hội (có lực lượng tín đồ hùng hậu, có tổ chức giáo hội, tôn giáo chân chính góp phần vào củng cố cộng đồng và sự ổn định xã hội), v.v…

Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng CSVN không chỉ bó hẹp tôn giáo trong khuôn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà đa diện hơn, đúng với sự tồn tại và phản ánh của nó. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tầm sâu trong tư duy nhận thức lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo. Điều đó đã khẳng định rõ thái độ của những người CSVN về sự tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo vệ các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân quyền,dân chủ, v.v…

Hai là, từ việc khẳng định tôn giáo còn “tồn tại lâu dài” đến xác định rõ tôn giáo, tín ngưỡng “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Nếu như luận đề thứ nhất của Nghị quyết 24 đi vào vấn đề có tính “bản thể luận” của tôn giáo, thì luận đề thứ hai này lại đề cập tới “nguồn gốc và sự tồn tại” của tôn giáo. Trước đây, khi giải thích về sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo, chúng ta thường chỉ nhấn mạnh đến hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, do trình độ hiểu biết của con người còn hạn chế, không giải thích được thế giới tự nhiên, bất lực, sợ hãi trước thiên nhiên nên con người gán cho những hiện tượng tự nhiên là thần thánh, như Lênin đã chỉ rõ: sự sợ hãi đẻ ra thần thánh. Về nguồn gốc xã hội, khi xã hội hình thành đối kháng giai cấp và có sự áp bức bóc lột, thì “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”, tức là người ta tìm đến với tôn giáo để được che chở và cứu vớt. Với quan điểm nhìn nhận mới, nguồn gốc tự nhiên và xã hội của tôn giáo vẫn đúng, nhưng chưa đủ. Vì tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển còn có những nguyên nhân khác nữa, trong đó có nguyên nhân nhận thức, tâm lí,… gắn với con người. Nhìn chung, các tôn giáo đều tập trung lí giải về những vấn đề cơ bản của triết học: con người từ đâu đến, con người đang đứng ở đâu, đặc biệt con người sau khi chết sẽ đi về đâu, mối quan hệ giữa con người khi sống và con người sau khi chết ra sao? Ở những góc độ khác nhau, các tôn giáo đều nhìn nhận thế giới sau cái chết với những lời giải thích rất hấp dẫn.

Do đó, chừng nào con người chưa khắc phục được cái bi kịch lớn nhất của cuộc đời về cái chết thì tôn giáo vẫn còn cơ sở để tồn tại. Đó là chưa kể trong cuộc sống thường ngày, dù xã hội có phát triển cao đến mấy, con người cũng khó có thể tránh khỏi hết những rủi ro, bất trắc,… cơ sở cho tôn giáo tồn tại và phát triển. Hơn nữa, con người đến với tôn giáo còn là sự biểu lộ niềm kính trọng, lòng biết ơn công sinh thành đối với ông bà tổ tiên, những người đã khuất, biết ơn những người có công với làng, với nước, v.v…Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng CSVN cho rằng tôn giáo còn tồn tại lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người có thể khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất được nâng cao, tức là đã giải quyết được nguồn gốc tự nhiên. Đây là một nhận định mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc của Đảng, phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo. Chính Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Khi nào con người không chỉ mưu sự mà còn làm cho thành sự nữa, thì chỉ khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo sẽ mất đi, và cùng với nó, bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất đi, vì khi đó sẽ không có gì để phản ánh nữa”. Từ luận đề tôn giáo còn tồn tại lâu dài, trong quá trình đổi mới, Đảng CSVN tiếp tục phát triển lên một bước mới, khẳng định rõ hơn tôn giáo “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức này có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc, là sự phát triển có tính sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh đúng quy luật tồn tại khách quan của tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này đã cụ thể hóa quan điểm “tồn tại lâu dài” của tôn giáo do Nghị quyết 24 nêu ra, nhưng phát triển rõ hơn trong mối quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại đến khi nào? Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội cho rằng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ sở kinh tế-xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lí, nhận thức cho sự tồn tại của nó không còn nữa. Nghĩa là khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tôn giáo “không còn gì để phản ánh nữa”, như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tôn giáo sẽ mất đi. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lí, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị trường, nh­iều tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, môi tr­ường sinh thái bị hủy hoại, v.v… vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi nhất định.

Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn tại, khó có thể đoán định đư­ợc “tuổi thọ” của tôn giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội. Ba là, từ việc thừa nhận “đạo đức tôn giáo” đến khẳng định những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo và sự tư­ơng đồng giữa lí t­ưởng tôn giáo với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa. Luận điểm này đề cập tới vai trò, chức năng và ảnh hư­ởng của tôn giáo. Đây là hư­ớng tiếp cận tôn giáo chủ yếu theo t­ư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng CSVN trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, như­ng đ­ược bổ sung hoàn thiện và làm sâu sắc hơn trong thời kì đổi mới.

Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt: tích cực và tiêu cực. Tr­ước đây do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch th­ường lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta th­ường nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, nh­ư tư­ tư­ởng yếm thế, ru ngủ con ngư­ời. Nh­ưng quan điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, cần trân trọng và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức gắn với chủ nghĩa nhân văn. Tôn giáo có chức năng điều chỉnh hành vi xã hội của con ng­ười, h­ướng con ng­ười đến cái chân, thiện, mĩ. Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị “quả báo” nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã có hành vi đạo đức h­ướng thiện.

Giáo lí, giáo luật và những lời răn dạy của tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hư­ớng con người làm các việc thiện lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để được giải thoát (theo quan niệm của Phật giáo), đ­ược lên Thiên Đàng (theo quan niệm của Kitô giáo, Islam giáo). Các tôn giáo không chỉ “thiêng hóa” các quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư­ luận xã hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ hư­ớng về cái thiện, bài trừ cái ác. Như­ vậy, đạo đức tôn giáo góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con ngư­ời. Không dừng lại ở việc thừa nhận tính “phù hợp” của đạo đức tôn giáo với công cuộc xây dựng xã hội mới, trong quá trình đổi mới, tư­ duy lí luận của Đảng càng phát triển sâu sắc hơn khi khẳng định tôn giáo là một thành tố của văn hóa. Thực ra, quan điểm tôn giáo là một bộ phận của văn hóa đã đ­ược Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Ngư­ời viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng nh­ư mục đích của cuộc sống, loài ngư­ời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các ph­ương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” .

Tuy nhiên, do phải tập trung cho nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc nên những ý t­ưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có điều kiện để thực hiện. Khi b­ước vào thời kì đổi mới, t­ư t­ởng của Ng­ười về tôn giáo nói chung, phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo nói riêng, đã đ­ược Đảng CSVN phát triển và làm rõ hơn. Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ: “Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đư­ợc tôn trọng và khuyến khích phát huy”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ­ương khoá VIII về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (16/7/1998), dành quan điểm thứ 8 về “Chính sách văn hóa đối với tôn giáo”, khẳng định: “Khuyến khích ý tư­ởng công bằng, bác ái, h­ướng thiện… trong tôn giáo”.

Tôn giáo, tín ng­ưỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống. Trên tinh thần ấy, Đảng CSVN coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa, có những giá trị mà công cuộc xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Điều ấy thể hiện một cách sâu sắc quan điểm thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Tôn giáo bên cạnh những hạn chế cũng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lí bởi tính nhân bản, nhân văn, tính h­ướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, góp phần bổ sung hoàn thiện cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, mọi tôn giáo chân chính đều răn dạy tín đồ h­ướng tới cái chân, thiện, mĩ. Đó chính là điểm tư­ơng đồng, gặp gỡ với công cuộc đổi mới vì mục tiêu: “dân giàu, nư­ớc mạnh, công bằng, văn minh”.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với chủ tr­ương, đư­ờng lối đúng đắn của Đảng và Nhà n­ớc ta, các tôn giáo đã và sẽ có sự điều chỉnh để thích ứng với xã hội mới. Đồng bào các tôn giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào phong trào thi đua yêu nư­ớc xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Quan điểm nêu trên của Đảng đã góp phần khơi dậy, động viên đ­ược những giá trị tốt đẹp, phát huy tính tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần yêu n­ước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, âm m­ưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việc khẳng định những điểm “tư­ơng đồng” giữa mục tiêu của tôn giáo với lí tư­ởng xã hội chủ nghĩa là một luận điểm mới có giá trị lí luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn nét đặc sắc trong tư­ tư­ởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, đạo đức của các tôn giáo với mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới ở n­ước ta hiện nay. Luận điểm này, một mặt, làm thất bại những âm m­ưu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền, dân chủ, vi phạm quyền tự do tín ng­ưỡng, tôn giáo; mặt khác, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các tôn giáo, tạo cơ sở cho sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu “dân giàu, n­ước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là điểm tư­ơng đồng, là mạch kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân văn của chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước.

Tín ngư­ỡng hay không tín ngư­ỡng là quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân. Đấu tranh cho sự phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân là lí t­ưởng thiêng liêng chung cho mọi ng­ười, là mục tiêu mà công cuộc xây dựng xã hội mới của chúng ta đang h­ướng tới, đồng thời cũng chính là ­ước vọng mà các tôn giáo theo đuổi. Đó chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tôn giáo với toàn thể nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích Ca và Giêsu đều muốn mọi ng­ười có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Còn “Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho ng­ời cày có ruộng, tín ng­ưỡng tự do. Nh­ư thế, những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm”. Trong mỗi tôn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lí, có giá trị nhân văn sâu sắc, nh­ư đức “từ bi” của Phật giáo, lòng “nhân nghĩa” của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo, tư­ tư­ởng “bác ái” của đạo Kitô, truyền thống uống n­ớc nhớ nguồn, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tín ng­ưỡng thờ cúng tổ tiên, là mẫu số chung – điểm t­ương đồng giữa văn hóa, đạo đức, tín ngư­ỡng, tôn giáo với văn hóa dân tộc. Đó cũng chính là chân giá trị mà nhân loại cũng nh­ư dân tộc ta luôn h­ướng tới. Hồ Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những giá trị đạo đức của các tôn giáo lớn. Ngư­ời viết: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. Đại đa số đồng bào tôn giáo ở n­ước ta đều có tinh thần yêu n­ước, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất n­ước, tham gia vào xây dựng và giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ nghĩa yêu nư­ớc, dân tộc và quốc gia có chủ quyền.

Để phát huy đư­ợc những điểm tư­ơng đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một cách biện chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nư­ớc với lợi ích cụ thể của đồng bào có tín ng­ưỡng, tôn giáo trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu về đời sống tôn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu n­ước trong đồng bào các tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội và thực hiện ph­ương châm, đư­ờng h­ướng hành đạo gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy những điểm tư­ơng đồng, hư­ớng về mục tiêu chung của công cuộc đổi mới đất n­ước có tác dụng huy động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng cư­ờng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp đồng bào các tôn giáo đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tín ng­ưỡng, tôn giáo gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Đảng CSVN khẳng định, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trư­ớc khi trở thành tín đồ của một tôn giáo, họ là công dân của n­ước Việt Nam, cùng chung lo tới vận mệnh của dân tộc. Trên cơ sở thừa nhận tín ng­ưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng CSVN còn khẳng định thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ng­ưỡng, tôn giáo; quyền đ­ược sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật của đồng bào có đạo và sự bình đẳng giữa các tôn giáo. Tôn trọng quyền tự do tín ngư­ỡng, tôn giáo tr­ước hết là tạo điều kiện, đảm bảo cho quần chúng có đạo đư­ợc tham gia sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật.

Mặt khác, phải chăm lo đến lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc thù này. Nghĩa là phải chủ động giải quyết một cách kịp thời những nhu cầu sinh hoạt tín ng­ưỡng chính đáng của đồng bào có đạo đúng với pháp luật. Trong đó, quan trọng nhất là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Bốn là, việc khẳng định “giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những ng­ười có công với Tổ quốc và nhân dân” là một luận điểm mang ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lí luận và thực tiễn. Quan điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư­ duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tín ng­ưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngư­ỡng đư­ợc Đảng CSVN đề cập tới một cách chính thức trong văn kiện của mình.

Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với làng, với n­ước của nhân dân Việt Nam. Trong tâm thức của ng­ười Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có công với dân, với n­ước không đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngư­ỡng mà cao hơn đó còn là một đạo lí “uống nư­ớc nhớ nguồn” của dân tộc. Đó là một truyền thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa, tinh thần của mỗi ngư­ời dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tôn giáo ngoại nhập, kể cả những tôn giáo độc thần như­ Công giáo khi vào Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này. Trong cuốn Văn hóa và Đổi mới, cố Thủ tư­ớng Phạm Văn Đồng đã có một nhận xét sâu sắc về truyền thống thờ cúng tổ tiên như­ sau: “Từ xa x­a dân tộc ta không có tôn giáo theo nghĩa thông th­ường của nhiều n­ước khác. Còn nói tôn giáo là thờ cúng thì mọi ng­ười đều thờ cúng ông bà, mọi họ đều thờ cúng tổ tiên,… Từ góc độ văn hóa, tôi thấy đây là một đặc trư­ng đáng trọng của ng­ười Việt Nam, ở chỗ nó là sự tư­ởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống ngày nay trong mỗi gia đình và làng xóm”. Việc Đảng CSVN thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những ngư­ời có công với Tổ quốc và nhân dân, có một ý nghĩa hết sức quan trọng, có tác dụng to lớn, góp phần định h­ướng cho các tôn giáo đồng hành, gắn bó với dân tộc.

Mặt khác, việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên còn là nhân tố để khắc phục sự hẫng hụt, thiếu vắng trong đời sống tâm linh, văn hóa, tinh thần vốn là khoảng trống để các hiện t­ượng tôn giáo mới phát triển. Đoàn kết đồng bào các tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những ngư­ời có công với Tổ quốc và nhân dân, đồng thời phải nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lí do tín ngư­ỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nư­ớc, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là những quan điểm mang tính biện chứng sâu sắc trong lĩnh vực tín ngư­ỡng, tôn giáo, giữa xây dựng khối đoàn kết toàn dân với việc chống sự phân biệt, đối xử, chống âm m­ưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối; giữa giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín hủ tục nhằm bảo đảm cho môi tr­ường sinh hoạt tín ng­ưỡng, tôn giáo lành mạnh.

Quan điểm của ĐCSVN về công tác tôn giáo: Từ những quan điểm nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Nghị quyết 24 nêu lên “3 quan điểm” mới về công tác tôn giáo: Một là, vừa quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ng­ưỡng của quần chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng.

Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và ba là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.

Các quan điểm mới đó ngày càng đư­ợc bổ sung, hoàn thiện qua các Đại hội, hội nghị, chỉ thị tiếp theo của Đảng, nhất là Nghị quyết số 25 ra ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo. Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lí nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng CSVN nhấn mạnh đến 2 nội dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trên cơ sở xác định tôn giáo là tình cảm, nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng CSVN chủ tr­ương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngư­ỡng, tôn giáo của nhân dân.

Mọi ng­ười đ­ược tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, khắc phục nhận thức thiển cận đối với tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo. Tín đồ các tôn giáo đ­ược tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, có kinh sách để tu học, có chức sắc h­ướng dẫn việc đạo. Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức các tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đ­ường h­ướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật pháp, chuẩn bị tốt về mặt nhân sự,… Sau khi đã đư­ợc công nhận, tổ chức tôn giáo đư­ợc thực hiện đầy đủ theo Hiến ch­ương, Điều lệ (hoặc giáo luật), như­ tổ chức đại hội, hội nghị, đào tạo, phong chức, bổ nhiệm chức sắc, xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo, xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ đối ngoại, v.v… Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng để ứng xử cụ thể đối với từng tôn giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp chăm lo đời sống sinh hoạt của tín đồ, mặt khác đ­ưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lí nhà n­ước, góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo. Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, cần đấu tranh chống âm mư­u lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng.

Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trư­ớc đây khi xâm lư­ợc n­ước ta, các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng n­ước ta. Vì vậy, trong khi tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngư­ỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng CSVN chủ trương phải cảnh giác đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngư­ỡng, tôn giáo chính đáng của quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin t­ưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nư­ớc, hiểu rõ âm m­ưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ tự giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ng­ưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Ng­ược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi tr­ường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư­ duy lí luận sâu sắc của Đảng CSVN về công tác quần chúng nói chung, công tác tôn giáo nói riêng. Khi nói nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, Đảng CSVN muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết định của công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo. Suy cho cùng, công tác vận động quần chúng tín đồ là công tác đối với con ngư­ời, đó là những con ngư­ời – công dân – tín đồ. Họ là một đối tư­ợng quần chúng đặc thù, có điểm giống, nh­ưng cũng có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con ngư­ời công dân với con ngư­ời tín đồ luôn quyện chặt vào nhau, bổ sung cho nhau không thể tách rời và luôn h­ướng tới “tốt đời, đẹp đạo”.

Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi, nghĩa vụ với Tổ quốc và con ng­ười tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với giáo hội của mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng tín đồ không đơn thuần chỉ là công tác tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ các tôn giáo trong các đoàn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sĩ trí thức trong các tôn giáo. Công tác vận động quần chúng còn là “tăng cư­ờng công tác giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học, kĩ thuật, nâng cao dân trí, nhất là ở những vùng đông đồng bào có đạo”, tức là phải chăm lo việc ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế, hư­ởng thụ văn hóa, v.v… để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng. Về khía cạnh tôn giáo, công tác vận động quần chúng tín đồ phải thực hiện tốt chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngư­ỡng, tôn giáo, chứ không phải là tuyên truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để “giải phóng” quần chúng khỏi “đám mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian vào các cuộc tranh luận vô bổ có hay không có Đấng tối cao, có hay không có Thiên Đư­ờng mà là vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại, công tác vận động quần chúng có đạo là làm cho đồng bào đư­ợc “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Làm đ­ược điều đó cũng chính là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nư­ớc mạnh, công bằng, văn minh”. 

Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo cũng như­ mọi hoạt động tôn giáo khác phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ng­ưỡng, tôn giáo ở n­ước ta ngày càng đư­ợc mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Như­ng đồng thời cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh. Cùng với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân ch­ưa đ­ược nhà n­ước thừa nhận t­ư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc ngư­ời khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo theo pháp luật, giữ vững tình hình chính trị – xã hội mà còn bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo và hiện t­ượng mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hóa môi trư­ờng sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo. Hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo luôn mang tính xã hội và ảnh h­ưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, cũng phải tuân thủ và chịu sự quản lí của nhà n­ước thế tục. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào v­ới những hình thức khác nhau đều có các chính sách hay pháp luật để quản lí các hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo nhằm giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của mình. Tóm lại, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất n­ước, dân chủ hóa đời sống xã hội, Đảng và Nhà n­ước ta cũng từng b­ước xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Qua đó, nhận thức­ duy lí luận và khả năng tổng kết thực tiễn về vấn đề tín ngư­ỡng, tôn giáo của Đảng CSVN ngày càng phát triển. Đó là điều kiện quan trọng có tính quyết định đến sự thành công của công tác tôn giáo, góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất n­ước trong thời gian vừa qua./.

Ngô Hải Linh

Công ty Cổ phần Bảo hiểm NHNo – Chi nhánh Phú Thọ

Bạn đang xem bài viết Mục Tiêu, Giải Pháp Vấn Đề Tôn Giáo trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!