Cập nhật thông tin chi tiết về Ngành Ngân Hàng Triển Khai Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Bị Ảnh Hưởng Dịch Covid mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Để công tác phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả, đảm bảo duy trì hoạt động liên tục, không để gián đoạn trong mọi tình huống, lãnh đạo Chi nhánh NHNN tỉnh đã chỉ đạo toàn hệ thống trên địa bàn tỉnh xây dựng và kích hoạt phương án bảo đảm cho các hoạt động của từng đơn vị được liên tục trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. Nghiêm túc tuân thủ các biện pháp phòng, chống dịch trong hoạt động và giao dịch tiền mặt như khử trùng, sát khuẩn, vệ sinh thường xuyên tại các khu vực giao dịch tiền mặt, kho quỹ và các máy giao dịch tự động (ATM); thực hiện khử trùng tiền mặt thu về trước khi nhập kho và chi ra lưu thông. Đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN Việt Nam, toàn hệ thống đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường các hoạt động trực tuyến trong giao dịch ngân hàng, nhất là thanh toán trực tuyến. Để khuyến khích người dân tăng cường sử dụng hoạt động tín dụng, các ngân hàng đã triển khai mạnh các ứng dụng thanh toán trên điện thoại di động; triển khai nhiều chương trình khuyến mãi, miễn giảm phí sử dụng dịch vụ như miễn 100% phí chuyển khoản thanh toán, chuyển tiền, mua hàng trong cùng hệ thống ngân hàng cho các giao dịch trực tuyến; cộng thêm lãi suất gửi tiết kiệm nếu gửi online… Qua đó nâng tỷ lệ doanh số thanh toán không dùng tiền mặt trong 3 tháng đầu năm chiếm 68,7% trong tổng doanh số thanh toán qua ngân hàng, cao hơn 5,5% so với cuối năm 2019.
Cán bộ Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Ninh Thuận giải quyết kịp thời hồ sơ cho tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Văn Nỷ
Đồng hành với doanh nghiệp và người vay vốn bị thiệt hại do dịch COVID-19, các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay từ 0,5 đến 1%/năm, đặc biệt hiện nay các ngân hàng đã triển khai gói cho vay ưu đãi hỗ trợ khách hàng, với lãi suất giảm sâu từ 2 đến 2,5%/năm so với lãi suất cho vay thông thường. Tính đến ngày 10-4, toàn hệ thống đã cho vay ưu đãi lãi suất đối với 305 khách hàng, doanh số 1.266 tỷ đồng, gồm 57 doanh nghiệp (DN), với doanh số 589 tỷ đồng và 248 cá nhân, với doanh số 677 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng đã tích cực rà soát, nắm bắt tình hình thiệt hại của khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 để thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Qua rà soát, toàn tỉnh có 4.991 khách hàng, với dư nợ 3.666 tỷ đồng có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, chiếm 16,3% dư nợ cho vay. Trong đó có 155 khách hàng là DN, với dư nợ 1.460 tỷ đồng và 4.836 cá nhân, với dư nợ 2.205 tỷ đồng. Trong số này, đến thời điểm ngày 10-4, đã có 1.433 khách hàng, với dư nợ 2.438 tỷ đồng trực tiếp bị thiệt hại, gồm 125 DN, số dư nợ 1.321 tỷ đồng và 1.308 cá nhân, số dư nợ 1.117 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho 54 khách hàng, với dư nợ 144 tỷ đồng, gồm 10 DN, dư nợ 88 tỷ đồng; 44 cá nhân, dư nợ 56 tỷ đồng; miễn giảm lãi vay cho 97 khách hàng, với dư nợ được miễn giảm 201 tỷ đồng, số tiền lãi miễn giảm 1,24 tỷ đồng…
Trong thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thống đốc NHNN Việt Nam về hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ DN và người dân có vốn vay bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, bố trí nguồn vốn để phát triển các sản phẩm cho vay phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân. Tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát, trong đó có tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của NHNN Việt Nam nhằm đảm bảo thực hiện đúng chính sách; chủ động thông tin đầy đủ, kịp thời về các giải pháp, chính sách, chương trình, gói sản phẩm hỗ trợ để khách hàng vay vốn biết và phối hợp thực hiện.
Nhật Nguyên
Hàng Loạt Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp
TIN ĐỌC NHIỀU
TIN MỚI NHẬN
(Chinhphu.vn) – Hàng loạt giải pháp để hỗ trợ DN vượt qua các khó khăn, thách thức lớn do đại dịch COVID-19 đã được triển khai trong thời gian ngắn vừa qua.
Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương sáng 2/7, Bộ KH&ĐT đã báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP và Chỉ thị số 26/CT-TTg về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020.
Báo cáo cho thấy, các giải pháp triển khai Nghị quyết 35 tiếp tục được triển khai đồng bộ trên các nhóm nhiệm vụ trong nghị quyết: Cải cách hành chính, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo; bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của DN; giảm chi phí kinh doanh cho DN; về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DN.
Sẻ chia trách nhiệm với DN
Trong quý II, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp, chính sách quan trọng như Nghị quyết 42/NQ- CP ngày 9/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, trong đó Nhà nước chia sẻ trách nhiệm với DN trong việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động.
Ngày 9/5, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì Hội nghị với DN nhằm khích lệ động viên tinh thần doanh nhân nỗ lực vượt khó, kịp thời nắm bắt, lắng nghe các kiến nghị, đề xuất của cộng đồng DN.
Ngày 29/5/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết 84/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Trong quý II, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết về miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đến năm 2020; về giảm thuế thu nhập DN phải nộp của năm 2020; điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân; về mức thuế bảo vệ mội trường đối với nhiên liệu bay đến hết ngày 31/12/2020.
Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 6/4/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công; Nghị định 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.
Đồng thời, trong quý II, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng nhằm đẩy mạnh công tác chỉ đạo, điều hành, cải cách thủ tục hành chính, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho DN bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19, như Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử.
Tính đến tháng 5/2020, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đang được các bộ, ngành, địa phương cung cấp cho người dân, DN là hơn 56.000 dịch vụ, trong đó số dịch vụ công trực tuyến mức 4 là gần 17.000. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 có phát sinh hồ sơ trực tuyến là 25,62%. Các bộ, ngành tiếp tục rà soát để cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh và cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN và người dân.
Về tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo, trong quý II các bộ, ngành và địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác triển khai Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa (DNNVV). Tính đến thời điểm báo cáo, khuôn khổ pháp lý để triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV đã cơ bản hoàn thiện.
Ở cấp địa phương, trong quý II, có thêm 6 nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, văn bản hướng dẫn hỗ trợ DNNVV đã được địa phương ban hành, nâng tổng số lên 206; 10 địa phương đang gửi xin ý kiến góp ý đề án hỗ trợ DNNVV. Một số tỉnh, thành phố đã rất chủ động và tích cực xây dựng và thực hiện các chính sách của địa phương về thúc đẩy khởi nghiệp và hỗ trợ DNNVV trên địa bàn như Hà Nội, Thừa Thiên – Huế, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Bà Rịa – Vũng Tàu…
Thực hiện Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 18/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo, trong quý II, một số bộ, ngành, địa phương đã chủ động ban hành hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị.
Điển hình như Bộ GD&ĐT đã ban hành Kế hoạch triển khai đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” năm 2020; lựa chọn 3 cơ sở giáo dục đại học để triển khai thí điểm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp trong các đại học…
Bộ KH&CN tiếp tục triển khai Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của DN Việt Nam đến năm 2020”; triển khai Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Đề án 844).
Miễn giảm lãi suất cho dư nợ hơn 1,14 triệu tỷ đồng
Trong quý II, NHNN đã chỉ đạo áp dụng mức giảm phí dịch vụ nhiều nhất từ trước đến nay, góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng (TCTD) giảm chi phí, hạ lãi suất, đồng thời, gián tiếp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và DN; thực hiện 2 đợt điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1,5%/năm, giảm thêm 1% trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên (hiện ở mức 5,0%/năm)…
Đến ngày 25/5, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho hơn 223.000 khách hàng với dư nợ hơn 151.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 326.000 khách hàng với dư nợ trên 1,14 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ ngày 23/1 đến nay đạt trên 767.000 tỷ đồng cho hơn 196.000 khách hàng, lãi suất thấp hơn phổ biến từ 0,5-2,5% so với trước dịch.
Về xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT đã triển khai các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến giữa DN Việt Nam với đối tác có nhu cầu nhập khẩu, nhằm khơi thông thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường cho nông sản nói riêng và hàng hóa nói chung, như Trung Quốc và Ấn Độ…
Bộ KH&CN tiếp tục rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả thực thi và đẩy mạnh việc tạo lập, khai thác, quản trị tài sản trí tuệ của DN; tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ. Hiện nay, Bộ đang triển khai các thủ tục để xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Về giảm chi phí kinh doanh cho DN, ngoài các giải pháp về thuế, tiền thuê đất… Bộ GTVT đã có văn bản chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ DN gồm tạm thời không xử lý các đơn vị vận tải hành khách không đảm bảo số chuyến khai thác tuyến (tối thiểu 70% số chuyến theo biểu đồ chạy xe); rà soát điều chỉnh giảm mức thu phí, lệ phí để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch.
Đánh giá chung, theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, hầu hết các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 35 đã hoàn thành. Tuy nhiên, hiệu quả triển khai Nghị quyết vẫn còn hạn chế, tồn tại. Đồng thời, trong 6 tháng đầu năm, cộng đồng DN bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19, tỉ lệ DN đóng cửa, giải thể tăng cao, dẫn đến một số chỉ tiêu của Nghị quyết số 35 khả năng cao không thể đạt được, như chỉ tiêu có 1 triệu DN đang hoạt động vào năm 2020.
Đẩy mạnh phát triển nền tảng thương mại điện tử
Trên cơ sở báo cáo của các bộ, ngành và địa phương và kiến nghị của cộng đồng DN, Bộ KH&ĐT kiến nghị các bộ, ngành và địa phương tiếp tục khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ được giao về tháo gỡ khó khăn cho DN.
Khẩn trương rà soát và điều chỉnh đơn giản, minh bạch các quy trình, thủ tục tiếp cận chính sách hỗ trợ DN về thuế, tín dụng, lao động… thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, đẩy mạnh tiến độ thanh toán các khoản nợ công cho các DN đúng quy định.
Nghiêm túc thực hiện thanh, kiểm tra DN theo đúng tinh thần Nghị quyết số 35 ngày 16/5/2016 và Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020.
Một số giải pháp cụ thể, đó là đẩy mạnh hỗ trợ DN đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt tại các thị trường có thể sớm hết dịch như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản… Đặc biệt khai thác các thị trường, khu vực thị trường hiện đang có các thỏa thuận thương mại tự do với Việt Nam.
Xem xét có chính sách bảo lãnh tín dụng cho khoản vay mới của các khách hàng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và sử dụng nhiều lao động như DN trong các ngành du lịch, dệt may, da giày, hàng không,… và các khách hàng là DNNVV.
Khẩn trương hướng dẫn thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế thu nhập DN năm 2020. Hướng dẫn thực hiện chính sách cấp bù lãi suất có thời hạn cho các DNNVV theo quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV để hỗ trợ DN phục hồi sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động.
Nghiên cứu đề xuất mở rộng đối tượng cho vay của Quỹ Phát triển DNNVV và bổ sung kinh phí cho Quỹ để hỗ trợ DNNVV ứng phó với dịch COVID-19.
Thực hiện chiến lược truyền thông về Việt Nam nhằm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch. Khuyến khích xây dựng các nền tảng trực tuyến giúp các nhà mua lớn và DN Việt Nam xúc tiến trao đổi, đàm phán đơn hàng. Các bộ, ngành đẩy mạnh xúc tiến giới thiệu các nhà mua lớn tham gia vào các nền tảng trực tuyến xúc tiến thương mại, kết nối DN; hỗ trợ phát triển các nền tảng thương mại điện tử; e-logistics, các ứng dụng công nghệ giao dịch thanh toán điện tử, fintech, mobile money,…
Về giải quyết kiến nghị của DN trong quý II, theo đánh giá tại báo cáo của VCCI, kết quả trả lời kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương đã kịp thời, sát với yêu cầu của Hiệp hội DN, DN.
Tính đến hết tháng 5, có 179 kiến nghị của DN, hiệp hội DN gửi 15 bộ, ngành, địa phương; đã có 124 kiến nghị được trả lời. Lượng kiến nghị tồn đọng chưa trả lời tính đến hết tháng 5 là 55 kiến nghị (chiếm 31%).
Nội dung cơ bản của các kiến nghị chủ yếu đề xuất các giải pháp, chính sách tài khóa, thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, giãn nộp thuế, lùi thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để hỗ trợ DN vượt qua khó khăn sau đại dịch COVID-19 trong lĩnh vực bất động sản, nông nghiệp, công nghệ thông tin, y tế…
Hà Chính
7 Giải Pháp Trọng Tâm Hỗ Trợ Và Phát Triển Doanh Nghiệp
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết, sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, khu vực doanh nghiệp đã phát triển nhanh, thực sự trở thành một động lực quan trọng để giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã phát huy được tinh thần sáng tạo, năng động vượt khó và ngày càng phát triển. Chưa bao giờ tinh thần khởi nghiệp lại sôi động, mạnh mẽ như thời gian vừa qua.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng
Để triển khai thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, Văn phòng Chính phủ đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp.
Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách.
Trong đó, triển khai hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp tư nhân, tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo đột phá về thể chế, nhất là về: Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế các lĩnh vực kinh tế, quy hoạch phát triển, xây dựng các đơn vị hành chính kinh tế, đặc biệt tạo các động lực phát triển; Hệ thống pháp luật về đầu tư công, NSNN, DNNN, nợ công, tài sản và nguồn lực công như đất đai, tài nguyên; Hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, đất đai, xây dựng, nhà ở, kiểm tra chuyên ngành hàng hóa, các chính sách cụ thể cải thiện môi trường đầu tư, kiinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tinh thần Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ.
Thứ hai, tăng cường thực thi thể chế, pháp luật.
Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, các ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị tập trung nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, cơ chế chính sách; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính gắn với trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức liêm chính trong phục vụ nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Các Bộ, ngành, địa phương chủ động phát hiện, tham mưu đề xuất cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp cụ thể, phù hợp để đưa pháp luật, cơ chế chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đi vào thực tiễn cuộc sống.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, đề nghị chú trọng đổi mới quản trị doanh nghiệp; nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, liêm chính trong kinh doanh; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân, cạnh tranh lành mạnh và phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục “chung tay cải cách thủ tục hành chính”. Người đứng đầu các ngành cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, quan tâm sâu sát, chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện cải cách, kiểm soát thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương; kiên quyết loại bỏ “lợi ích nhóm” vì lợi ích quốc gia để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Tiếp tục đẩy mạnh rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạo, trọng tâm là thủ tục hành chính trên các lĩnh vực theo quy định tại Nghị quyết 19; tăng tính liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính; tăng số lượng thủ tục hành chính được giải quyết tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả các cấp; giảm tỷ lệ trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính trễ hẹn.
Rà soát, hoàn thiện các thể chế về triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính; giao VPCP khẩn trương trình Chính phủ Nghị định về cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo đúng kế hoạch, quy định mô hình Trung tâm hành chính công không làm phát sinh biên chế và bảo đảm hiệu quả thực hiện; các Bộ, ngành nghiên cứu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy định cụ thể về liên thông thủ tục hành chính làm cơ sở để triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, xủ lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, người dân.
Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương làm tốt công tác tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị cua doanh nghiệp, người dân theo phân cấp quản lý và chức năng, nhiệm vụ được giao. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra tình hình, kết quả xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp; đối thoại tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. VPCP tiếp tục phát hiển 2 hệ thống thông tin phản ánh kiến nghị của doanh nghiệp, người dân trên Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ. Tập trung đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc việc tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp. Có biện pháp chấn chỉnh kịp thời đối với những trường hợp thực hiện không nghiêm túc quy định về tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị.
Thực hiện hiệu quả Nghị quyết 41/NQ-CP cua Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng CNTT tại Việt Nam, khẩn trương rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành, các vấn đề còn vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ, kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động của Tổ công tác theo dõi kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng chính phủ giao.
Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ trong việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. Tổ công tác kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả kiểm tra và đề xuất kiến nghị các giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc, nhất là về cơ chế chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp và trong triển khai thực hiện; Tăng cường công khai, minh bạch trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, góp phần tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội. Kịp thời đề xuất khen thưởng đối với những Bộ, ngành, địa phương làm tốt; xử lý nghiêm các trường hợp không thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Thứ bẩy, công tác thông tin truyền thông.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền tới người dân, doanh nghiệp về cơ chế, chính sách, pháp luật về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Kịp thời đưa tin về những mô hình tốt, cách làm hay cũng như những sai phạm, tồn tại, hạn chế trong thực thi chính sách, pháp luật.
Tìm Giải Pháp Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ
Theo đánh giá của Bộ Công thương, dù năng lực sản xuất các sản phẩm hỗ trợ trong nước trong những năm vừa qua đã dần được cải thiện, nhưng khả năng cung ứng thực tế vẫn còn nhiều bất cập, nhập siêu linh kiện, phụ tùng còn rất lớn, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp rất thấp. Thí dụ, tỷ lệ này của các ngành dệt may mới đạt khoảng 40 đến 45%. Ngành vải may hiện đạt sản lượng 2,3 tỷ m2/năm, mới đáp ứng khoảng 25% nhu cầu trong nước. Ðiểm nghẽn chủ yếu của CNHT ngành dệt may là công nghệ nhuộm vải cũng như công tác xử lý môi trường cho công nghệ này chưa được quan tâm đúng mức, đã hạn chế các doanh nghiệp đầu tư sản xuất dệt vải.
Hay đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân dưới 9 chỗ mới đạt 7 đến 10%, trong khi mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005 và 60% vào năm 2010. Ðáng chú ý là ngành điện tử cũng đang phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%; điện tử chuyên dụng hay công nghiệp công nghệ cao là 5%. Tuy nhiên, hầu hết các linh kiện nội địa hóa lại đều do các công ty FDI cung cấp, còn doanh nghiệp Việt Nam chỉ chủ yếu cung cấp vật tư tiêu hao, bao bì, in ấn,… với giá trị rất nhỏ so với nhu cầu của thị trường.
Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho rằng nguyên nhân của tình trạng này một phần là do nguồn lực đầu tư cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước cho các ngành công nghiệp ưu tiên, CNHT còn khiêm tốn, chưa đủ mạnh và hiệu quả, chưa tương xứng với quy mô và vai trò vốn có. Các chính sách phát triển CNHT còn chậm ban hành và thiếu đồng bộ, nhất quán mặc dù quan điểm của Ðảng, Nhà nước đã xác định rất rõ vai trò của ngành này trong phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng nhận định năng lực tổ chức sản xuất và công nghệ kỹ thuật của phần lớn doanh nghiệp CNHT trong nước rất yếu. Ðến nay, các doanh nghiệp nội địa mới chỉ cung ứng khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm CNHT. Việc phần lớn linh kiện và phụ tùng phải nhập khẩu đã làm cho giá trị gia tăng tạo ra do ngành công nghiệp chế biến – chế tạo của Việt Nam rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Mặc dù chiếm đến gần 90% doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, nhưng năm 2017, công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đóng góp gần 15% GDP so với mức hơn 20% của phần lớn các quốc gia trong ASEAN và khu vực Ðông Á.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Báo cáo tại Hội nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT Việt Nam cho thấy, từ năm 1949, Nhật Bản đã ban hành Luật về hợp tác với doanh nghiệp nhằm xúc tiến các hoạt động “thầu phụ”, cũng chính là hoạt động sản xuất CNHT. Trong những năm tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục ban hành hàng loạt bộ luật cũng như danh sách những sản phẩm được ưu tiên hỗ trợ rất chi tiết và cụ thể, trong đó chú trọng đến CNHT. Ðến nay, nước này đã có hàng triệu doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chỉ có quy mô dưới 50 người, nhưng tham gia rất sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, thậm chí các ngành công nghệ cao như hàng không, vũ trụ.
Ma-lai-xi-a cũng bắt đầu áp dụng chính sách ưu đãi các ngành công nghiệp tiên phong từ năm 1958. Mặt khác, Ma-lai-xi-a rất nỗ lực trong việc phát triển và tăng cường kết nối công nghiệp giữa các doanh nghiệp lớn với các nhà cung cấp phụ kiện trong nước. Không những vậy, doanh nghiệp CNHT của nước này còn được hỗ trợ, ưu đãi thông qua các tổ chức, chương trình, dự án,… rất hiệu quả của Nhà nước. Nhờ đó, CNHT ở Ma-lai-xi-a đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực gia công, chế tạo linh kiện cơ khí và điện tử. Từ những thí dụ nêu trên, bài học kinh nghiệm mà Việt Nam cần rút ra là phải đánh giá đúng vai trò của CNHT trong phát triển kinh tế đất nước. Từ đó, có chính sách đồng bộ, kiên trì, dài hạn, đầu tư nguồn lực thích đáng nhằm gấp rút nâng cao năng lực của các doanh nghiệp CNHT thông qua các chương trình mục tiêu cụ thể.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, đã đến lúc cần xem xét, đánh giá khả năng xây dựng chính sách đặc thù để phát triển CNHT. Thêm nữa, do phần lớn các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, có trình độ hạn chế về nhiều mặt. Vì vậy, ngoài sự cố gắng của doanh nghiệp, cần sự hỗ trợ quyết liệt, đồng bộ và dài hạn của Nhà nước. Nhà nước phải đứng cạnh, đồng hành cùng doanh nghiệp để giúp họ nâng cao năng lực để đạt tới trình độ khu vực và toàn cầu trong quá trình phát triển.
Thực tế, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng và dưới tác động cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nhiều hạn chế về chất lượng của nền kinh tế đang dần lộ diện. Vấn đề cấu trúc lại nền kinh tế, lựa chọn mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại các ngành công nghiệp,… đang trở nên cấp bách nhằm phát huy cao nhất lợi thế của Việt Nam, hướng tới phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Trong đó, vai trò của các ngành công nghiệp và nhất là CNHT được xác định là những trụ cột quan trọng nhất. Tuy nhiên, phát triển CNHT cần quá trình tích lũy kỹ năng quản lý và sản xuất lâu dài, không thể có bước nhảy vọt nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước. Nhà nước cần có chủ trương nhất quán, dài hạn, phân bổ nguồn lực đủ lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến, chế tạo đạt tới trình độ khu vực và quốc tế.
Cùng với đó, về phía các doanh nghiệp, không thể chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà phải chủ động trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và sản xuất để từng bước giành được chỗ đứng trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Ðây mới là những giải pháp căn cơ để bảo đảm sự phát triển ổn định của ngành CNHT, từ đó tạo nền tảng quan trọng giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững trong dài hạn…/.
Bạn đang xem bài viết Ngành Ngân Hàng Triển Khai Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Bị Ảnh Hưởng Dịch Covid trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!