Xem Nhiều 6/2023 #️ Nhà Nước Việt Nam Đối Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế Hiện Nay # Top 11 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Nhà Nước Việt Nam Đối Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế Hiện Nay # Top 11 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Nước Việt Nam Đối Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế Hiện Nay mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

                                                                                    TRẦN THỊ HÒE*

 

1. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế

Thứ nhất, xây dựng Hiến pháp, pháp luật, chính sách về quyền con người

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền con người (QCN), tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người đặt con người vào “vị trí trung tâm”, “mọi mục tiêu, động lực của sự phát triển là vì con người, do con người”, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con người đã trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách, pháp luật của nhà nước. Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ QCN, minh bạch hóa trách nhiệm nhà nước đã được thẩm thấu vào trong quy trình xây dựng luật pháp và chính sách về QCN, góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.

Việc ghi nhận các quyền mới của con người trong Hiến pháp năm 1992 và năm 2013 đã phản ánh xu thế hội nhập của đất nước, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm QCN ở Việt Nam. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thừa nhận QCN phổ biến được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, là sự năng động, nhạy bén của Nhà nước trong việc xử lý mối quan hệ biện chứng giữa QCN phổ biến với đặc thù về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của các quốc gia, giữa luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, Hiến pháp năm  1992 và sau này là Hiến pháp năm 2013 quy định về bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, trách nhiệm của Nhà nước là phải “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,…” (Điều 3, Hiến pháp năm 2013). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Vì vậy, nghĩa vụ của Nhà nước là: tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28); tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội (Điều 59),… Các quy định trên một lần nữa khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước không chỉ là ghi nhận QCN mà còn có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để bảo đảm QCN đã được ghi nhận.

 Bên cạnh việc nâng cao số lượng và chất lượng QCN trong Hiến pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với các quy định cụ thể, dễ thực hiện, giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở các nguyên tắc chung nhằm giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhiều bộ luật được sửa đổi và ban hành mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật về Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Người cao tuổi,…

Những kết quả đạt được trong việc ban hành chính sách, pháp luật về QCN của Nhà nước ta những năm qua là một bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi trong nước cũng như đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN trong luật Nhân quyền quốc tế đã được quán triệt và trở thành nội dung quan trọng của văn bản pháp luật Việt Nam về QCN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động bảo vệ và thực thi QCN.

Thứ hai, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và chính sách bảo đảm quyền con người

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc bảo đảm QCN trong hoạt động thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương các cấp đã áp dụng một số biện pháp chủ yếu sau:

– Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương về những vấn đề chung, có ý nghĩa chiến lược về bảo đảm QCN. Nổi bật nhất trong hoạt động này là Quyết định số 366/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/3/2011) Ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới.

Với mục tiêu tạo sự chuyển biến tích cực về bảo đảm QCN, Quyết định số 366/QĐ-TTg đã cụ thể hóa một bước quan trọng nghĩa vụ bảo đảm QCN đối với một số bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đóng vai trò kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực, tăng cường năng lực bảo đảm QCN trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.

– Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện pháp luật của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm bảo đảm các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp như: quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tiếp cận giáo dục, y tế; các quyền về lao động, việc làm, an sinh xã hội;…

Đây là hoạt động có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gắn với quá trình cung cấp các biện pháp cụ thể và hành chính, kinh tế, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ xã hội cho việc bảo đảm QCN và ngăn chặn các hành vi vi phạm QCN theo pháp luật. Do vậy, nó thường có tác động nhanh và sâu sắc đến thực tiễn bảo đảm QCN của các cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương.

– Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển. Hoạt động này phản ánh những đổi mới trong tư duy phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều chương trình, chính sách phát triển của Việt Nam đã có những quy định tác động đến bảo đảm QCN như: Chương trình Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và 2011 – 2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005, 2006 – 2010, 2012 – 2015; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010; Chương trình Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo (Chương trình 134); Chương trình Phát triển kinh tế – xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương trình xây dựng nông thôn mới,…

Nhìn tổng thể, những chương trình, chính sách nêu trên đã hỗ trợ tích cực cho người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận thuận lợi hơn với các dịch vụ về việc làm; đào tạo nghề; trợ giúp pháp lý; y tế, giáo dục, an sinh xã hội;… hạn chế gia tăng phân hóa giàu nghèo và góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển.

– Trực tiếp áp dụng các biện pháp mang tính sáng tạo, phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương nhằm nâng cao năng lực hưởng thụ các quyền của người dân, đặc biệt là của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Hoạt động này gắn với những sáng kiến đa dạng của các ngành, các địa phương như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN cho cán bộ, công chức, viên chức, các tầng lớp nhân dân; xây dựng các dịch vụ xã hội thân thiện, dễ tiếp cận; đào tạo nguồn nhân lực cho những vùng khó khăn; hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm dễ bị tổn thương trước những hiểm họa như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,…

Thứ ba, xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm quyền con người

Không chỉ hoàn thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, Nhà nước ta còn đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về QCN như: Ban chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên.

Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức của Ban chỉ đạo về Nhân quyền, Chính phủ, Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện Báo cáo Nhân quyền trong khuôn khổ Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc cũng như các hoạt động hợp tác quốc tế khác trên lĩnh vực.

 Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước, Việt Nam đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi QCN trên các lĩnh vực: ban hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về QCN;…

Thứ tư, huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào quá trình bảo vệ, thúc đẩy quyền con người

Phù hợp với quy định về quyền lập hội trong Tuyên ngôn thế giới về QCN (1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966), Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới đã tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức này trong quá trình bảo vệ QCN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như công đoàn, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh; các cơ quan báo chí, truyền thông; các tổ chức xã hội, nghề nghiệp;… đã đóng vai trò ngày càng tích cực trong những hoạt động: giám sát và phản biện xã hội; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN; thúc đẩy bình đẳng giới; trợ giúp pháp lý, nâng cao năng lực cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; xóa đói giảm nghèo; tham gia các hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,… nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội.

Thứ năm, tuyên truyền, giáo dục về quyền con người

Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ sau khi có Chỉ thị 12-CT/TW (1992) của Ban Bí thư, hoạt động tuyên truyền, giáo dục QCN đã được tích cực triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn từ năm học 1998 – 1999, môn học Lý luận về QCN đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tiếp đó, nhiều chương trình nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền được triển khai thực hiện tại các trường chính trị, hành chính, Ban Chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ, các trường đại học, các viện nghiên cứu,… Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền, tập huấn về nhân quyền còn được thực hiện thông qua một số dự án hợp tác quốc tế của Quốc hội, Chính phủ; của các ngành, các cơ quan như: ngoại giao, tư pháp, công an, báo chí, tôn giáo, dân tộc và của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong những năm gần đây, hoạt động tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền liên tục được mở rộng, được lồng ghép vào nhiều môn học và một số chương trình đào tạo sau đại học. Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép đào tạo Thạc sĩ về QCN ở ba cơ sở đào tạo là: Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Khoa học Xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Những hoạt động tuyên truyền, giáo dục nêu trên đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức về QCN cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước; cán bộ thực thi pháp luật; sinh viên các trường đại học; thành viên một số tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp.

Thứ sáu, hợp tác và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quyền con người

Để phát huy tốt vai trò, nâng cao uy tín quốc tế và hội nhập vào đời sống chính trị – xã hội quốc tế, Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế chủ chốt về QCN. Từ những năm 1980, Nhà nước đã thực hiện tương đối đầy đủ và bảo đảm thời gian hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ các Báo cáo quốc gia của các Công ước Nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 – 2016). Trong việc thực hiện QCN theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR), Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, cũng như tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia khác về tình hình thực hiện QCN tại các chu kỳ này.

Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trả lời và giải quyết kháng thư của Liên hợp quốc. Trong việc thực thi nghĩa vụ thực hiện các Thủ tục đặc biệt (Special Procedures – SP) cho đến nay, Việt Nam đã đón các chuyên gia về các vấn đề người thiểu số; đói nghèo cùng cực và nhân quyền; tác động của nợ nước ngoài đối với nhân quyền, quyền được chăm sóc y tế; Báo cáo viên đặc biệt về quyền văn hóa và tôn giáo. Việt Nam đăng cai tổ chức nhiều hội thảo quốc tế về QCN như: Hội thảo về Công ước quốc tế chống tra tấn và đối xử vô nhân đạo (tháng 12/2003); Hội thảo Việt Nam – EU về Án tử hình (tháng 11/2004), Hội thảo về QCN lần thứ 6 (tháng 12/2004),… Tại các hội thảo này, Việt Nam đã tạo cơ hội để các đại biểu quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Việt Nam về QCN. Đây thực sự là diễn đàn trao đổi cởi mở, thẳng thắn, công khai nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực vào việc thành lập Ủy ban Liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tháng 11/2012). Qua đó thể hiện cam kết và quyết tâm cao của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thúc đẩy các QCN  cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về QCN.

2. Những thách thức, khó khăn của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Thành tựu của thời kỳ hội nhập quốc tế đã giúp chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân; tuy nhiên, đây là quá trình có nhiều thách thức và khó khăn đan xen:

– Hệ thống pháp luật về QCN ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số yếu tố bất hợp lý, mâu thuẫn, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh sự phức tạp, chồng chéo, pháp luật Việt Nam vẫn chưa thể chế hóa kịp thời một số quyền hợp hiến, tạo nên hiện tượng gọi là quyền “treo”, ít có hiệu lực thực tế, như: quyền lập hội, biểu tình, tiếp cận thông tin. Quy trình xây dựng pháp luật còn lạc hậu, chưa coi trọng sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền với nguyên tắc cơ bản là công dân có quyền tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Trong một số lĩnh vực, pháp luật còn có những quy định gây trở ngại cho việc bảo vệ các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp, như quyền có luật sư, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ. Ngoài ra là tình trạng kém hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; bảo vệ các quyền về kinh tế, xã hội của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp;…

– Hoạt động giám sát việc bảo đảm QCN còn có biểu hiện hình thức, thiếu hiệu quả trong việc phát hiện, khắc phục kịp thời những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện QCN theo quy định của pháp luật. Một trong những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là Việt Nam đang thiếu một cơ quan quốc gia có địa vị pháp lý đầy đủ, hoạt động chuyên trách, đủ khả năng chủ trì, phối hợp, giám sát, hướng dẫn các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội trong việc bảo đảm các QCN.

– Sự hình thành những yêu cầu mới, đa dạng về QCN trong bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Một mặt hiện nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn đang phát triển, có mức thu nhập trung bình, cùng với sự tăng lên của nguồn lực kinh tế và trình độ dân trí trong xã hội sẽ xuất hiện yêu cầu cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền đã được pháp luật quốc tế công nhận. Các hình thức lao động, sản xuất, kinh doanh; sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm QCN. Do những thay đổi đó nên trong các hoạt động xã hội, bên cạnh những quyền căn bản (quyền sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe,…) cũng xuất hiện những đòi hỏi cho các quyền mới, như quyền về môi trường trong lành, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền sở hữu tư nhân, quyền của giới tính “thứ ba”, quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều,…

Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân hóa – phân tầng xã hội không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và hội nhập quốc tế. Sự phân hóa – phân tầng xã hội đã và sẽ dẫn đến sự đa dạng hóa mạnh mẽ hơn các nhu cầu về QCN giữa các giai tầng xã hội. Nhà nước vừa phải có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về QCN cho các nhóm dân cư tại các khu đô thị, vừa phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo đảm các quyền rất thiết yếu, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm dễ bị tổn thương. Sự đa dạng đó đã và sẽ tạo ra những thách thức mới đối với chính sách, pháp luật không chỉ trên lĩnh vực nhân quyền.             

3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Để khắc phục những thách thức đang đặt ra, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả nghĩa vụ bảo đảm QCN của các cơ quan nhà nước Việt Nam hiện nay, cần chú trọng thực hiện một số phương hướng cơ bản sau:

Một là, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QCN. Quá trình này cần chú ý:

– Thể chế hóa các QCN, quyền công dân đã được chế định trong Hiến pháp năm 2013 thành các tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, nhất quán về cách hiểu và cách thực hiện. Không để tình trạng quyền bị “treo”. Sớm có hướng dẫn thống nhất về phương thức hạn chế quyền phù hợp với quy định của Điều 14(2) Hiến pháp năm 2013.

– Xây dựng khuôn khổ pháp luật về dân chủ, pháp quyền, quản trị xã hội cho việc bảo đảm QCN. Thí dụ xây dựng và triển khai thực hiện các luật về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa như: Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Lập hội, Luật Biểu tình, Luật Tiếp cận thông tin,…; thể chế hóa việc tổ chức, vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế (cơ chế tổ chức, hoạt động của Hội đồng bầu cử và kiểm toán quốc gia, cơ chế bảo hiến,…); thể chế hóa trách nhiệm quản trị quốc gia của Nhà nước (xây dựng luật giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, quản lý an ninh quốc gia,…). Trên cơ sở đó, Nhà nước Việt Nam mới tạo ra một khuôn khổ pháp luật đủ mạnh để bảo đảm quyền cho mọi người, mọi nhóm xã hội trên thực tế.

Hai là, tiếp tục chú trọng xây dựng, củng cố các thiết chế nhà nước trong bảo vệ, giám sát việc thực hiện QCN. Hiện nay cần quan tâm củng cố, hoàn thiện cơ chế khắc phục và bồi thường thiệt hại do vi phạm QCN gây ra; cơ chế phát hiện và ngăn chặn vi phạm QCN trên các lĩnh vực; cơ chế bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tiếp đó, cần xúc tiến thiết lập cơ quan chuyên trách nhân quyền quốc gia bên cạnh các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Muốn vậy cần đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn diện, khoa học một số phương án cho việc hình thành cơ quan này phù hợp với chuẩn mực quốc tế, với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Bốn phương án để lựa chọn có thể là: 1) Thanh tra Quốc hội (ombusman) hay Hội đồng Nhân quyền của Quốc hội với tính cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo; 2) Ủy ban về Quyền con người trực thuộc Chính phủ; 3) Hội bảo vệ Quyền con người Việt Nam với tính cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 4) Viện Nghiên cứu Quyền con người quốc gia.

Ba là, coi trọng áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên QCN trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội. Việc sử dụng phương pháp này cần tập trung xây dựng các biện pháp nâng cao năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong bảo đảm các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm người nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nhiễm HIV/AIDS,…

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục về QCN. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp giáo dục nhân quyền cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cán bộ thực thi pháp luật và sinh viên các trường đại học. Tiếp đó cần thể chế hóa vững chắc việc đưa giáo dục QCN vào các trường chính trị, hành chính, các trường đại học, các trường của các tổ chức đoàn thể. Giáo dục phải hướng đến nâng cao nhận thức, tôn trọng và tuân thủ các QCN trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, của các cán bộ công chức, viên chức; các tổ chức kinh tế, xã hội; các chương trình và chính sách phát triển.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thực thi pháp luật, năng lực bảo vệ và giám sát việc bảo đảm QCN. Hiện nay cần quan tâm nâng cao chất lượng các Báo cáo theo cơ chế của Công ước và cơ chế của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc; chủ động hơn về chiến lược trong quá trình tham gia vào một số cơ chế, thủ tục nhân quyền của Liên hợp quốc, khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đối thoại về QCN, phát triển các hình thức hợp tác quốc tế đa dạng về giáo dục nhân quyền.

 

Ghi chú:

(*) ThS.; Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

 

Tài liệu tham khảo

1.      Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

2.      Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

3.      Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946,1959,1980,1992) và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

4.      Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5.      Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

6.      Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Việc Thực Hiện Công Bằng Xã Hội Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Ở Nước Ta Hiện Nay

Tác giả: TS. Võ Thị Hòa

Số trang: 292 trang

Giá tiền: 49.000đ

Công bằng xã hội là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh của con người. Ở nước ta hiện nay, công bằng xã hội là nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới đất nước. Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và dân tộc ta càng khẳng định vai trò to lớn của công bằng xã hội đối với sự nghiệp phát triển đất nước.

Nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và bạn đọc có tài liệu tìm hiểu về những vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản cuốn sách Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Nội dung cuốn sách phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước; từ đó đề xuất những giải pháp có tính định hướng nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.

Để nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tác giả cuốn sách cho rằng, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về phát triển kinh tế; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả đảm bảo thực hiện công bằng xã hội; kết hợp chặt chẽ việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện hệ thống chính sách kinh tế và chính sách xã hội đảm bảo thực hiện công bằng xã hội; nâng cao vai trò lãnh đạo cảu Đảng đối với Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức kinh tế, xã hội tham gia giám sát và cùng Nhà nước thực hiện công bằng xã hội.

Thực Hiện Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Trong Quá Trình Hội Nhập Quốc Tế

Ngày đăng: 27/10/2017 02:50

1. Vai trò của chức năng xã hội

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước tiếp cận dưới góc độ triết học có hai chức năng là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai cấp là chức năng bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Chức năng xã hội là chức năng đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Là những nhà duy vật biện chứng nên trong khi nhấn mạnh chức năng giai cấp của nhà nước, Mác và Ăngghen không hề coi nhẹ chức năng xã hội của nhà nước.

Theo các ông, xét từ cội nguồn quyền lực, nhà nước là một công quyền “nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp”(1), “có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”(2); là một bộ máy quản lý xã hội, có chức năng bảo đảm lợi ích chung của cả cộng đồng, xã hội(3). Những nhiệm vụ đó của nhà nước thuộc phạm vi chức năng xã hội – chức năng yêu cầu nhà nước phải thực hiện những nhiệm vụ vì sự tồn tại của cả xã hội.

Chức năng xã hội của nhà nước là tất yếu, khách quan, mức độ thực hiện chức năng này phụ thuộc vào tính tiến bộ hay phản động của giai cấp cầm quyền. “Các giai cấp thống trị ở thời điểm phát triển đi lên của mình, đã thực hiện chức năng xã hội hoàn toàn xác định và chính nhờ điều đó họ mới trở thành giai cấp thống trị”(4). Ngược lại, các giai cấp cầm quyền khi trở nên lỗi thời, phản động thì thường quá coi trọng chức năng giai cấp, coi nhẹ chức năng xã hội, không quan tâm đến đời sống của người dân, đẩy người dân đến cảnh khốn cùng, đó là thời điểm báo hiệu địa vị thống trị bị lung lay và sắp sụp đổ, bởi “Sự thống trị giai cấp chỉ có thể tồn tại với điều kiện là nó đảm bảo cho được những người bị áp bức không bị nghèo túng đến cùng cực”(5). Khi “những người bị áp bức nghèo túng đến cùng cực” thì họ sẽ nổi dậy đấu tranh nhằm lật đổ nhà nước hiện tồn, thiết lập một nhà nước mới, có thể thực hiện chức năng xã hội tốt hơn.

Từ đó có thể thấy, thực hiện tốt chức năng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong việc củng cố địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền, của lực lượng cầm quyền. Chính chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện và phương thức thực hiện chức năng giai cấp như C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”(6).

Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở hai nhóm nhiệm vụ cụ thể sau:

Một là, nhà nước phải chăm lo những công việc chung của toàn xã hội, tất cả các giai cấp trong xã hội đều được hưởng lợi khi nhà nước thực hiện những công việc đó, thí dụ như: nhà nước bảo đảm trật tự an toàn xã hội; chống ô nhiễm môi trường, sinh thái; phòng chống lây lan dịch bệnh; xây dựng các công trình phúc lợi, công cộng…

Hai là, nhà nước phải thỏa mãn ở mức độ nào đó nhu cầu của các giai tầng khác trong xã hội, tức là phải thực hiện những chính sách đem lại lợi ích cho các giai tầng bị trị ở mức độ nhất định, dù cho những chính sách đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của giai cấp cầm quyền. Thí dụ như nhà nước phong kiến giảm tô, giảm thuế, mở kho lương cứu đói cho nông dân; nhà nước tư sản thực hiện chính sách “tăng lương giảm giờ làm” đối với giai cấp công nhân… Như vậy, chức năng xã hội là đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của tất cả các thành phần trong xã hội ở một mức độ nhất định nào đó.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác về chức năng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc thực hiện chức năng xã hội. Người nêu rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân”(7) và “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(8). Khái niệm “dân” ở đây là tất cả mọi người dân sống trong đất nước Việt Nam, là toàn thể nhân dân Việt Nam.

2. Yêu cầu thực hiện chức năng xã hội trong hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nước nào đứng ngoài xu thế này sẽ khó có thể phát triển được. Đối với những nước đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu thì hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một cơ hội tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi trình độ quản lý hiện đại,… nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta chủ trương chủ động tham gia vào quá trình này.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều thành phần xã hội, tức cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa dạng của các thành phần trong xã hội thuộc về chức năng xã hội của nhà nước.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã nảy sinh những vấn đề xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh chân chính; các tệ nạn xã hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng, ảnh hưởng môi trường xã hội; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi,v.v.. Những vấn đề đó đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa sẽ làm gia tăng việc hợp tác quốc tế, đầu tư sản xuất, kinh doanh, thương mại, học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm,v.v.. Có nghĩa là, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi giai tầng của các nước trên thế giới sẽ đến nước ta nhiều hơn. Bởi vậy, chức năng xã hội của Nhà nước trong hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa không chỉ là đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của các cá nhân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam, mà còn phải đáp ứng những lợi ích và nhu cầu hợp pháp của cả những tổ chức, cá nhân mang quốc tịch nước ngoài ở Việt Nam. Các cá nhân và tổ chức nước ngoài thuộc nhiều giai tầng khác nhau, đến từ nhiều nước khác nhau, do đó họ có lợi ích và nhu cầu rất đa dạng. Để đáp ứng những nhu cầu, lợi ích đa dạng của các tổ chức cá nhân nước ngoài, thu hút họ đến Việt Nam hợp tác đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao năng lực thực hiện chức năng xã hội của mình; cũng là đáp ứng ở mức độ nhất định nào đó nhu cầu chính đáng của tất cả các giai tầng, thành phần trong xã hội.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các tổ chức, cá nhân người Việt Nam ra nước ngoài hợp tác, đầu tư, học tập, nghiên cứu, tham quan du lịch,… Do đó, chức năng xã hội của Nhà nước không chỉ đáp ứng những nhu cầu chính đáng của những giai tầng trong nước mà còn phải mở rộng đến việc đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các tổ chức, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam nhưng ở nước ngoài.

3. Thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước ta hiện nay

Trước đổi mới, Nhà nước ta quan tâm thực hiện cả chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đấu tranh giành, giữ chính quyền của giai cấp công nhân nên cũng có lúc chúng ta nhấn mạnh về chức năng giai cấp, từ đó chức năng xã hội có phần bị coi nhẹ. Biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là Nhà nước chỉ xác lập lợi ích của giai cấp cầm quyền thông qua hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể, còn lợi ích của các giai tầng trong thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nước ngoài bị coi nhẹ và không được thừa nhận, nên Nhà nước chưa phát huy hết vai trò, năng lực của toàn xã hội cho phát triển kinh tế. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho nền kinh tế trì trệ và khủng hoảng.

Nhận thức sâu sắc thực tế đó, thực hiện đổi mới, Nhà nước đã có những điều chỉnh trong thực hiện chức năng của mình.

Về kinh tế, Nhà nước thực hiện kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở đa hình thức sở hữu. Với kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã thừa nhận lợi ích, nhu cầu chính đáng về sản xuất – kinh doanh của mọi cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời hướng tới tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thực hiện lợi ích, nhu cầu của mình một cách thuận tiện, dễ dàng hơn. Nhờ đó đã phát huy được mọi nguồn lực của xã hội vào sản xuất – kinh doanh, góp phần quan trọng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Từ việc quan tâm thực hiện chức năng xã hội trên lĩnh vực kinh tế, Nhà nước đã quan tâm thực hiện chức năng xã hội trên các lĩnh vực khác và đều thu được những thành tựu quan trọng.

Tuy vậy, khi đổi mới và hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước có lúc, có nơi chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra và còn bộc lộ những hạn chế như: Nhà nước chưa phản ứng kịp thời trước những hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường ổn định của xã hội; Do chưa có một cơ chế hữu hiệu nhằm nắm bắt nhu cầu, lợi ích của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, nên Nhà nước chưa thật sự đáp ứng kịp thời lợi ích, nhu cầu chính đáng của xã hội; Phương thức thực hiện chức năng xã hội, sản phẩm dịch vụ công chưa đa dạng, chưa chuẩn hóa nên chưa thật sự thỏa mãn được nhu cầu, lợi ích đa dạng của mọi cá nhân, tổ chức; Hợp tác quốc tế để thực hiện chức năng xã hội chưa thật chặt chẽ và hiệu quả…

Trước yêu cầu thực tế hiện nay, việc xác định phương hướng, thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa là cần thiết.

Thứ nhất, giữ vững chức năng giai cấp trong khi nâng cao năng lực thực hiện chức năng xã hội

Hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa mà trong đócác nước tư bản chủ nghĩa làmchủ đạo, chứ không phải do các nước xã hộichủ nghĩa làmchủ đạo, tức là hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa mà “luật chơi” của nó do chủ nghĩa tư bản đặt ra. Đối với một nước định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, khi tham gia vào “cuộc chơi” này nếu không thực hiện chức năng giai cấp sẽ đối mặt với nguy cơ bị “hòa tan”, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, đồng thời với việc nâng cao năng lực thực hiện chức năng xã hội nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng cho các thành phần xã hội, Nhà nước phải giữ vững chức năng giai cấp, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng đấu tranh có hiệu quả những hành vi lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa để chống phá Đảng, Nhà nước, làm chệnh định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, xây dựng cơ chế nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu xã hội

Trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, những nhu cầu trong xã hội hết sức đa dạng và phong phú, các nhu cầu đó không phải là “nhất thành bất biến”, mà luôn trong trạng thái vận động biến đổi theo sự vận động biến đổi của kinh tế – xã hội, sẽ có những nhu cầu mất đi, nhưng đồng thời nảy sinh những nhu cầu mới. Để thực hiện tốt chức năng xã hội trong điều kiện như vậy, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng được cơ chế nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu xã hội, trên cơ sở đó có phản ứng kịp thời với những biến đổi của nhu cầu xã hội, đưa ra được những chính sách phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội đặt ra, nhằm thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển bền vững.

Thứ ba, đa dạng hóa phương thức thực hiện chức năng xã hội

Việc đa dạng hóa nhu cầu, lợi ích đòi hỏi đa dạng hóa phương thức thực hiện chức năng xã hội. Trong thời kỳ bao cấp trước đổi mới, nhu cầu xã hội không đa dạng như hiện nay, Nhà nước thực hiện chức năng xã hội chủ yếu thông qua các cơ quan của Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, nhu cầu xã hội đa dạng hơn rất nhiều, Nhà nước khó có thể đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng của xã hội, do đó Nhà nước cần kết hợp với mọi lực lượng, mọi tổ chức phi nhà nước để thực hiện chức năng xã hội. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị – xã hội và người dân tích cực tham gia cùng Nhà nước để thực hiện chức năng xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của xã hội. Đặc biệt là trong những vấn đề an sinh xã hội như: xóa đói giảm nghèo, giải quyết thất nghiệp, phòng chống bệnh dịch, vệ sinh môi trường, khắc phục thiên tai,v.v..

Thứ tư, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ xã hội

Phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu sẽ dẫn tới phân hóa cơ cấu giai cấp. Nếu như trước đổi mới, trong xã hội chủ yếu là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, thì nay cơ cấu giai cấp – xã hội đa dạng hơn nhiều, ngoài những giai tầng kể trên có có tầng lớp doanh nhân, tiểu chủ,… Thậm chí, ngay trong một giai cấp cũng phân hóa thành nhiều tầng lớp giàu, nghèo, nghề nghiệp khác nhau với những nhu cầu và lợi ích khác nhau(9). Hơn nữa, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa còn thu hút các tổ chức, cá nhân thuộc mọi giai tầng của các nước đến nước ta hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết,… Các tổ chức, cá nhân nước ngoài xuất phát từ nhiều giai tầng khác nhau, từ nhiều nước khác nhau, năng lực, nhu cầu và lợi ích của họ cũng khác nhau. Tất cả những điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ công cộng, dịch vụ xã hội.

Thứ năm, chuẩn hóadịch vụ xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa có nghĩa là sẽ có nhiều tổ chức, cá nhân đến nước ta hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh, học tập nghiên cứu, tham quan du lịch,v.v.. Bên cạnh đa dạng hóa cần phải nâng cao chất lượng các dịch vụ xã hội nhằm đạt chuẩn quốc tế. Có như vậy mới thỏa mãn nhu cầu của các cá nhân, tổ chức quốc tế, thu hút được đông đảo các tổ chức, cá nhân nước ngoài đến Việt Nam hợp tác làm ăn.

Thứ sáu, nâng cao hợp tác quốc tế trong việc thực hiện chức năng xã hội

Chức năng xã hội của Nhà nước tronghội nhập quốc tế,toàn cầu hóa còn phải bảo đảm lợi ích, nhu cầu chính đáng của các tổ chức, cá nhân của Việt Nam ở nước ngoài. Để làm được điều đó, Nhà nước phải nâng cao hợp tác quốc tế trong việc thực hiện chức năng xã hội; phát huy vai trò cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài như Đại sứ quán, Lãnh sự quán,… trong việc bảo đảm nhu cầu và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài.

Mặt khác, toàn cầu hóa sẽ nảy sinh những vấn đề mang tính quốc tế mà một quốc gia đơn lẻ không thể giải quyết, thí dụ như vấn đề tội phạm quốc tế, vấn đề lây lan bệnh dịch,ô nhiễm môi trường (nguồn nước, không khí…),v.v.. Để giải quyết những vấn đề đó, đòi hỏi các nhà nước trong khu vực và trên thế giới phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện chức năng xã hội.

Như vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, Nhà nước cần phải coi trọng và thực hiện tốt hơn nữa chức năng xã hội. Việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa diễn ra thuận lợi hơn, cũng cố địa vị lãnh đạo của Đảng, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.

TS. Võ Thị Hoa – Học viện Báo chí và Tuyên truyền

TS. Đinh Văn Thụy – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(1), (2), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.255, 253, 700.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.288.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.779.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.253.

(7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.572, 572.

(9) Nguyễn Đăng Thông: Nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000, tr.119.

Theo: lyluanchinhtri.vn

Tiếp Tục Thực Hiện Cách Ly Y Tế Đối Với Các Trường Hợp Người Nước Ngoài Nhập Cảnh Vào Việt Nam Làm Việc Tại Đà Nẵng

Đồng thời, phối hợp với Sở Du lịch tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho các cơ sở lưu trú về các điều kiện để thiết lập và triển khai cách ly tập trung, khử khuẩn môi trường, phòng chống lây nhiễm cho nhân viên…, bố trí nhân lực y tế phục vụ cho công tác y tế, kiểm tra, giám sát các đơn vị y tế trên địa bàn tham gia thực hiện công tác y tế tại các cơ sở lưu trú. Ban Chỉ đạo thành phố yêu cầu Sở Y tế cùng với Cảng vụ Hàng không miền Trung và các cơ quan có thẩm quyền tại cửa khẩu, Sở Du lịch, Sở Ngoại vụ, Công an thành phố, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố, UBND các quận, huyện và các cơ quan thành viên Ban Chỉ đạo kịp thời báo cáo, đề xuất Ban Chỉ đạo thành phố các vấn đề vướng mắc trong quá trình phối hợp, thực hiện để xử lý kịp thời.

Sở Giao thông vận tải có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất, báo cáo Ban Chỉ đạo thành phố phương án về bố trí phương tiện và người điều khiển phương tiện, đề xuất vấn đề thu phí dịch vụ vận chuyển người nước ngoài nhập cảnh đến bàn giao và thực hiện cách ly y tế tại cơ sở lưu trú. Sở Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo thực hiện hằng ngày việc vận chuyển và xử lý chất thải lây nhiễm của cơ sở lưu trú thực hiện cách ly y tế. Đồng thời, Công an thành phố có trách nhiệm phối hợp với cơ sở lưu trú bố trí trạm gác ở cổng và các lối ra vào cơ sở lưu trú; đảm bảo công tác an ninh trật tự tại cơ sở lưu trú thực hiện cách ly y tế; thực hiện biện pháp cưỡng chế cách ly y tế đối với các đối tượng thuộc diện phải áp dụng biện pháp cách ly y tế nhưng không tuân thủ.

Ban Chỉ đạo thành phố giao UBND các quận, huyện tham gia làm Trưởng ban điều hành cách ly tại cơ sở lưu trú thực hiện cách ly y tế theo sự phân công của Ban Chỉ đạo thành phố; ban hành Quyết định áp dụng biện pháp cách ly, cấp giấy xác nhận hoàn thành cách ly y tế đối với các trường hợp cách ly y tế tại cơ sở lưu trú đóng trên địa bàn. Đồng thời, chỉ đạo, tổ chức việc thực hiện cách ly tập trung tại cơ sở lưu trú và đảm bảo các nguồn lực để thực hiện việc cách ly phòng chống dịch COVID-19; tạo điều kiện, hỗ trợ để người được cách ly tập trung yên tâm thực hiện việc cách ly trong suốt thời gian theo dõi; chỉ đạo lực lượng dân phòng địa phương tham gia thực hiện nhiệm vụ giám sát việc cách ly 24/24 giờ tại cơ sở lưu trú. Bên cạnh đó, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện cách ly y tế và chỉ đạo cưỡng chế nếu người được cách ly y tế không tuân thủ yêu cầu cách ly tại cơ sở lưu trú.

Theo chúng tôi

Bạn đang xem bài viết Nhà Nước Việt Nam Đối Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế Hiện Nay trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!