Cập nhật thông tin chi tiết về Nhân Tố Tạo Sự Đoàn Kết, Thống Nhất Trong Toàn Đảng Bộ mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
BHG – Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh là một trong những mục tiêu được Đại hội Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra. Với sự chỉ đạo sát sao, cách làm linh hoạt và giải pháp đồng bộ, đến nay, công tác xây dựng Đảng đạt được những kết quả quan trọng.
Thị trấn Đồng Văn hôm nay.
Đảng bộ huyện Đồng Văn hiện có 64 TCCSĐ với 4.700 đảng viên. Trong nhiệm kỳ qua, BCH Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các cấp ủy từ huyện tới cơ sở chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, ngăn ngừa, đẩy lùi sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tạo sự đoàn kết, thống nhất. Việc nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được đổi mới, phù hợp với từng đơn vị, địa phương; trong đó, chú trọng xây dựng và nhân rộng các tập thể, cá nhân điển hình; hằng năm thực hiện nghiêm túc việc đánh giá cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Việc thực hiện các quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là các đồng chí ủy viên BTV, BCH Đảng bộ huyện, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị được triển khai nghiêm túc; chương trình công tác trọng tâm của tập thể, cá nhân đều gắn với đăng ký thực hiện nêu gương, “nói đi đôi với làm”. Qua đánh giá xếp loại hằng năm, 100% TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ, có trên 95% TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có tổ chức Đảng yếu kém. Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ đảng viên mới có trình độ chuyên môn ngày càng tăng.
Xác định “cán bộ là cái gốc của mọi sự thành công”, Đảng bộ huyện luôn quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và luân chuyển cán bộ được thực hiện hiệu quả. Cán bộ được điều động, luân chuyển phát huy được năng lực, có phẩm chất đạo đức và nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt tình hình, thường xuyên có mặt tại cơ sở, “cầm tay chỉ việc” cho người dân.
Cùng đó, các cấp ủy, chính quyền huyện thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, chỉ ra các hạn chế, khuyết điểm, làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân, có giải pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời. Vì vậy, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy được nâng lên, đoàn kết, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được tăng cường, tính dân chủ được phát huy, qua đó góp phần quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên…
Đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Bí thư Huyện ủy khẳng định: “Chuyển biến tích cực trong công tác cán bộ, xây dựng Đảng của huyện những năm qua như luồng gió mới, tạo sự thay đổi lớn trong cách nghĩ, việc làm – đây là thuận lợi, yếu tố quan trọng để Đảng bộ, chính quyền huyện tiếp tục lãnh, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, từng bước đưa huyện thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn”.
Bài, ảnh: MINH KHAI
Xây Dựng Khối Đoàn Kết Thống Nhất Trong Đảng
Đảng luôn nhắc nhở các cấp ủy Đảng, toàn thể đảng viên phải hết sức quan tâm xây dựng, giữ gìn sự thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ý thức xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất. Người là hiện thân của khối đoàn kết thống nhất toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam. Người dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lê-nin, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và các Nghị quyết hội nghị Trung ương tiếp theo của Đảng đã tổng kết những bài học kinh nghiệm lớn về vấn đề xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất.
Thứ nhất, sự đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng.
Thứ hai, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ ba, thường xuyên bồi dưỡng tình đồng chí thân ái cho cán bộ, đảng viên, luôn chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, khiêm tốn, biết thông cảm, hết lòng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ là những nét tiêu biểu của tình đoàn kết cộng sản.
Thứ tư, thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình là phương pháp căn bản để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thứ năm, xây dựng và bảo vệ hạt nhân lãnh đạo thật sự là trung tâm khối đoàn kết thống nhất của Đảng.
Tóm lại, xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc là quy luật trưởng thành của Đảng Cộng sản chân chính. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã chỉ ra rằng, đoàn kết là truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, là di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, là nguồn gốc sức mạnh tất thắng của cách mạng Việt Nam.
Thanh QuýSở Nội vụ
Cách Tốt Nhất Để Củng Cố Và Phát Triển Sự Đoàn Kết, Thống Nhất Của Đảng
Tự phê bình và phê bình – cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, trước hết, mỗi tổ chức đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(1).
* “Tự phê bình và phê bình – “vũ khí sắc bén” trong xây dựng Đảng Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng. Bởi theo Người cùng với việc thực hành dân chủ thì “tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (2). Như vậy, tự phê bình và phê bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh không những là vũ khí sắc bén trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ thuật trong công tác xây dựng Đảng, đồng thời chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc: tự phê bình và phê bình để hướng mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng tới giá trị hoàn mỹ, “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân” (3). Theo Bác mục đích của tự phê bình và phê bình là “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ” (4); mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết của Đảng: “Muốn đoàn kết chặt chẽ phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến đoàn kết” (5). Để tự phê bình và phê bình thực sự phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải thực hành thường xuyên, nghiêm chỉnh; tự phê bình mình cũng như phê bình người khác một cách “triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người” (6). Đây chính là nghệ thuật phê bình để người nghe không bị nản chí, mà sẽ tiếp thu để sửa đổi. Phương pháp và nghệ thuật ở đây còn thể hiện trong việc tác động vào ý thức tự giác của con người để bản thân họ tự nhận thấy khuyết điểm mà tự giác sửa chữa như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa” (7). Điều này biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học trong quan niệm về tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong mọi giai đoạn cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta, góp phần làm cho cán bộ, đảng viên thấy được những ưu, khuyết điểm của mình, tìm ra các phương pháp, cách thức để khắc phục. Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động của Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Phương pháp tự phê bình và phê bình cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành. Trong quá trình cách mạng, không phải Đảng Cộng sản Việt Nam không mắc phải những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên, Đảng đã luôn nhận ra và dũng cảm đối mặt với những sai lầm ấy. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đại hội VI của Đảng mở đầu cho một thời kỳ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế-xã hội và những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Trong hoạt động của các tổ chức Đảng, tự phê bình và phê bình đã được coi trọng, duy trì đều đặn, thực hiện nghiêm túc. Trong những năm đổi mới, vấn đề tự phê bình và phê bình luôn luôn được đặt ra trong các nghị quyết của Đảng. Tính từ Đại hội VI, Đại hội ghi dấu ấn đổi mới toàn diện, đến nay, Trung ương Đảng đã có các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VI ngày 20/6/1988 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, khóa VII ngày 29/6/1992 “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII ngày 2/2/1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI ngày 16/1/2012 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII ngày 30/10/2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Các nghị quyết này đều đặt vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng. Thông qua tự phê bình và phê bình mà sửa chữa những khuyết điểm, phát huy ưu điểm, làm cho công việc tiến nhanh và có hiệu quả. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng 10/2012), các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trước hết là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước đã cam kết với Ban Chấp hành Trung ương: “Luôn thực sự gương mẫu, thực sự đoàn kết, thống nhất, đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, hết lòng, hết sức vì Đảng, vì dân… Thực hành tự phê bình, phê bình thẳng thắn, thương yêu đồng chí, khắc phục ngay tình trạng nể nang, né tránh. Gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (8).
* Tự phê bình và phê bình phải thực sự cầu thị, tự giác, chân thành, khách quan Hiện nay, công tác tự phê bình và phê bình ở mỗi Đảng viên luôn được các cấp ủy, tổ chức Đảng quan tâm. Nhiều tổ chức Đảng thường xuyên giáo dục cho đảng viên thấy rõ sự cần thiết phải tăng cường tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt để các đảng viên thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục những biểu hiện buông lỏng sinh hoạt Đảng, coi nhẹ tự phê bình và phê bình. Qua công tác tự phê bình và phê bình, các đảng viên đã thấy được những điểm mạnh để phát huy, những điểm hạn chế để sửa chữa khắc phục. Từng cá nhân đảng viên qua công tác phê bình còn có thể khắc phục khuyết điểm trên từng công việc và lĩnh vực được giao. Tuy nhiên, công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng vẫn tồn tại hạn chế. Bên cạnh các cán bộ đảng viên mạnh dạn tự phê bình và phê bình thì một số Đảng viên còn nể nang, ngại va chạm, ít phát biểu ý kiến. Nhiều chi bộ né tránh hoặc làm qua loa, hình thức và có xu hướng đổ lỗi cho sự hạn chế về nhận thức, dẫn đến nhiều vi phạm. Qua đó cho thấy tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, tinh thần tự phê bình và phê bình của một số đảng viên chưa cao… Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm, hạn chế của công tác này, đó là: “Việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn là khâu yếu trong sinh hoạt Đảng; chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một số nơi bị buông lỏng trong thực hiện, chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Ở nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng, tự phê bình và phê bình chủ yếu được thực hiện vào dịp kiểm điểm cuối năm, chưa trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày. Nhiều đảng viên, nhất là các đảng viên trẻ, đảng viên mới kết nạp ít thể hiện quan điểm, chính kiến. Nội dung, hình thức tự phê bình và phê bình nhiều khi chưa đúng thực chất, thường vòng vo, né tránh, thậm chí ở một số nơi còn có sự nể nang, hoặc “dĩ hoà vi quý”, làm cho uy tín, sức chiến đấu của tổ chức Đảng bị giảm sút, vừa làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân, vừa làm sai lệch trong nhận xét, đánh giá cán bộ, dẫn đến những hệ lụy, sai phạm khác trong công tác cán bộ và trong xây dựng tổ chức Đảng. Cũng từ những hạn chế đó, một số cấp ủy, tổ chức Đảng chưa chủ động phát hiện, phòng ngừa và hạn chế các vụ việc tiêu cực, sai phạm của đảng viên” (9). Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55, ngày 19/12/2016 về một số vấn đề cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong đó tự phê bình và phê bình là nhóm nội dung quan trọng được đưa vào quy định. Theo đó, các đồng chí lãnh đạo phải là tấm gương trong thực hiện tự phê bình và phê bình để cấp dưới làm theo. Trong tự phê bình và phê bình phải thực sự cầu thị, tự giác, chân thành, khách quan; khi có khuyết điểm phải nhận khuyết điểm và phải có kế hoạch sửa chữa. Để thực sự nêu gương tự phê bình và phê bình, đòi hỏi mỗi tổ chức cũng như mỗi cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ cấp cao, chủ chốt đứng đầu cần tự giác, trung thực, tự phê bình thật nghiêm túc, khách quan có lý có tình, mang tính xây dựng; đồng thời, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau; phải thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”; khi có bệnh thì phải kiên quyết “trị bệnh cứu người”, không được có tư tưởng dễ dãi, bao che, hoặc tranh công, đổ tội. Cùng với đó, cần xử lý nghiêm minh những biểu hiện thành kiến, trù dập người dám phê bình và có những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người lợi dụng phê bình để đạt mục đích tự tư tự lợi, gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ, để phá hoại Đảng./.
Theo TTXVN
(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611 (2): Sđd, t.5, tr.301 (3): Sđd, t.15, tr.672 (4): (6): Sđd, t. 5, tr. 272 (5): Sđd, t. 10, tr 584 (7): Sđd, t.5, tr.284 (8): Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (9): Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.336, 337
Đoàn Kết, Thống Nhất Về Ý Chí Và Hành Động Trong Đảng Ta Hiện Nay
1. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy tính tất yếu tổ chức ra chính Đảng của giai cấp công nhân để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã cho rằng, cách mệnh phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Do đó, Người đã tích cực hoạt động chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức, cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản nên ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự đặc sắc, sáng tạo của Người là đưa ra quy luật hình thành đảng đặc thù ở Việt Nam, đã khai thác có hiệu quả giá trị tốt đẹp của dân tộc có truyền thống yêu nước và đoàn kết toàn dân tộc trở thành một nội dung yêu cầu quan trọng để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là phải “đoàn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động” trong Đảng.
2. Tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động. Xuất phát từ vai trò của việc tăng cường đoàn kết thống nhất sẽ nhân lên sức mạnh, là vấn đề sống còn của cách mạng và là nền tảng cho mọi thành công của Đảng. Đây là sự kế thừa phát triển sáng tạo nguyên lý tập hợp lực lượng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, truyền thống của dân tộc vào công tác xây dựng Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng là nền tảng để mở rộng đoàn kết, là tập hợp lực lượng cách mạng của toàn dân tộc, để đấu tranh chống lại kẻ thù dân tộc và giai cấp nhằm phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Ở mỗi giai đoạn của cách mạng, Người đều nhắc nhở phải làm cho Đảng đoàn kết, thống nhất, vững mạnh đáp ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ mới. Vì mỗi giai đoạn của của cách mạng có những đối tượng, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau thì phải có đường lối chiến lược, sách lược mới nên cần có sự đoàn kết và thống nhất ý chí trong toàn Đảng thì mới hoàn thành sứ mệnh. Đoàn kết thống nhất trong Đảng, có nghĩa là không có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; không có tình trạng kèn cựa địa vị, nói xấu lẫn nhau. Đoàn kết thống nhất là Đảng tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người. Đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được xem là một chiến lược lâu dài, là nhân tố cần thiết để bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người coi việc giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực thể hiện tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong chính phủ, với nhân dân trong nước và với bầu bạn quốc tế. Khi sinh thời Bác rất coi trọng “đoàn kết” trong hành động thực tế, khi có biểu hiện chưa đoàn kết trong một bộ phận cán bộ chủ chốt của Đảng, Bác bảo phục vụ làm những chiếc bánh mang tên “đoàn kết” để sau bữa ăn tặng cho cán bộ mang về làm quà. Những buổi gặp các cháu thiếu nhi, nhi đồng, đoàn viên, thanh niên, Bác bắt nhịp bài ca “kết đoàn”. Người đã thấy vai trò chiến lược và sức mạnh đoàn kết là: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công. Trước lúc đi xa, trong Bản Di chúc thiêng liêng với dung lượng không dài, nhưng Người đã chú trọng căn dặn phải đoàn kết trong Đảng: ” Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Thực tế hiện nay, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thực hiện chưa tốt yêu cầu đoàn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động. Nói chưa đi đôi với làm, miệng nói dân chủ nhưng làm thì quan chủ. Miệng nói phục vụ lợi ích Tổ quốc, lợi ích của nhân dân, nhưng lại vun vén cá nhân và lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng tài sản của đất nước gây bất bình trong nhân dân… Nguyên nhân của những biểu hiện suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là do thiếu tu dưỡng trong học tập, rèn luyện; chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình…
3. Ý nghĩa đối với củng cố, tăng cường đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động ở cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về xây dựng tổ chức cơ sở đảng mà trực tiếp là cấp ủy, chi bộ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng. Chi bộ tốt thì mọi việc tốt”. Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng, là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở”. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí… Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được lực lượng vĩ đại của quần chúng”. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải đoàn kết bằng công việc, nói đi đôi với làm, đoàn kết thực sự, thống nhất ý chí, hành động và kỷ luật. Muốn đoàn kết tốt thì phải phê bình và tự phê bình tốt, nghĩa là xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê bình. Tự phê bình và phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa.
Thực tế cho thấy, nếu cấp ủy, tổ chức đảng mà đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động thì sẽ lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ, sự gắn kết và tình yêu thương giữa cán bộ, đảng viên sẽ tăng cường. Ngược lại, cấp ủy, tổ chức đảng mà không đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động thì sẽ không hoàn thành tốt nhiệm vụ, sẽ không có sự gắn kết và tình yêu thương giữa cán bộ, đảng viên. Vì thế, xây dựng và bồi đắp đoàn kết thống nhất trong Đảng từ hạt nhân chính trị ở cơ sở là cấp ủy, chi bộ phải tiến hành thường xuyên mà trước hết là người đứng đầu. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng…”. Để tăng cường sự đoàn kết thống nhất ở cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở cần thực hiện một số yêu cầu, giải pháp sau đây:
Một là, đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm, Điều lệ của Đảng. Đây là cơ sở tạo sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức, từ đó thống nhất về hành động của mỗi đảng viên, tổ chức đảng. Sự chuyển biến nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghệ thông tin, mọi đảng viên phải tích cực học tập, cập nhật thông tin, bằng nhiều hình thức để nắm vững đường lối của Đảng.
Hai là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Dân chủ là một điều kiện quan trọng để có đường lối, nghị quyết đúng. Đó là phương pháp căn bản khắc phục những bất đồng về tư tưởng. Dân chủ rộng rãi không tách rời tập trung nghiêm ngặt. Tập trung bảo đảm thống nhất về ý chí và hành động, bảo đảm cho kỷ luật Đảng được chấp hành triệt để.
Ba là, xây dựng tình đồng chí thương yêu lẫn nhau trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng. Người cán bộ, đảng viên trước hết phải có tâm trong sáng, có văn hóa, khiêm tốn, cầu thị, khoan dung, độ lượng, bình tĩnh trong xử sự công việc, ân tình trong ứng xử, vì sự tiến bộ của mỗi người và tập thể. Tình thương yêu, tôn trọng nhau, tôn vinh những thành công, những mặt tích cực của người khác là chìa khóa để phát huy dân chủ rộng rãi, nguyên tắc tập trung dân chủ được đề cao, kỷ cương, kỷ luật được thực hiện tốt nhất.
Bốn là, thường xuyên thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình ở mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật do quần chúng nhân dân và truyền thông phát hiện chứ không phải chủ yếu do tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng. Điều đó cho thấy tinh thần đấu tranh, thái độ phê bình tự phê bình của cán bộ, đảng viên thường xuyên và bảo đảm chất lượng cao hơn nữa.
Năm là, kiên quyết chống lại những biểu hiện quan liêu, độc đoán, chuyên quyền ở cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng. Người cán bộ, đảng viên cần thật sự sát dân, gần dân, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là chủ, là gốc, là nguồn sinh lực vô tận cho Đảng, nên phải thường xuyên chăm lo, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Người cán bộ, đảng viên ở cơ sở mà có biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng thì sẽ làm suy yếu Đảng, không còn là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đại hội đảng các cấp đang diễn ra, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vấn đề giữ gìn đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có đoàn kết thống nhất, đại hội mới sáng suốt đưa ra quyết định đúng và trúng những vấn đề trọng yếu, mới chọn ra được đội ngũ cán bộ lãnh đạo có tâm, có tài phụng sự cho lợi ích của tập thể, cho cách mạng và vì nhân dân.
Nguyên Trưởng khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị
Bạn đang xem bài viết Nhân Tố Tạo Sự Đoàn Kết, Thống Nhất Trong Toàn Đảng Bộ trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!