Cập nhật thông tin chi tiết về Những Nhận Thức Mới, Tư Duy Mới Về An Ninh Quốc Gia mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an quán triệt chuyên đề: “Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia”.
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng diễn ra vào chiều 28/3, đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã quán triệt chuyên đề: “Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia”.
Theo đó, an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mọi quốc gia, dân tộc. Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo duy trì an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh quốc gia. Qua 13 kỳ Đại hội Đảng, nhiệm vụ “Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia luôn được đề cập và được bổ sung, phát triển từ nhận thức, tư duy đến đánh giá, dự báo tình hình, xác định mục tiêu, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện.
Đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động
Đồng chí Tô Lâm cho biết, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Vấn đề an ninh quốc gia cần được hiểu một cách toàn diện hơn, rộng hơn, sâu hơn, không chỉ có các vấn đề an ninh chính trị, quân sự truyền thống, mà còn bao quát cả những vấn đề an ninh phi truyền thống, như: An ninh mạng; khủng bố, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia; an ninh tài chính – tiền tệ; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; an ninh môi trường (thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước…), dịch bệnh; thậm chí cũng cần phải bàn đến “an ninh chính quyền”, “an ninh chế độ”… Đây là, những vấn đề an ninh nổi lên bắt nguồn từ những nguy cơ mới, tác động đa chiều của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển.
Theo đó, an ninh quốc gia bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh quân sự, an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh đối ngoại, an ninh tư tưởng – văn hóa, an ninh xã hội, an ninh thông tin, an ninh kết nối, an ninh mạng, an ninh doanh nghiệp, an ninh tài chính – tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh dân cư, an ninh dân số, an ninh cơ sở dữ liệu, an ninh môi trường, an ninh con người…
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhất là Báo cáo chính trị đã nêu những nhận thức mới, tư duy mới về an ninh quốc gia so với Đại hội XII, đó là: Lần đầu tiên xác định “an ninh con người”, bảo vệ “an ninh con người” nhằm cụ thể hóa các tư tưởng lập hiến đã nêu trong Hiến pháp 2013 và trở thành các mục tiêu, định hướng phát triển đất nước từ năm 2021 đến 2025, 2030 (100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến năm 2045 (100 năm thành lập nước).
Như vậy, Đại hội XIII của Đảng đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động, bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và xây dựng, phát triển đất nước trường tồn, thịnh vượng. Đại hội XIII xác định: “Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân”, do vậy bảo vệ an ninh quốc gia cũng chính là bảo vệ cuộc sống của người dân.
Theo Bộ trưởng Tô Lâm, như vậy, có thể khái quát: “An ninh con người là trạng thái người dân được sống ổn định, an toàn, không bị đe dọa bởi các nguy cơ xâm hại; bảo vệ an ninh con người là bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một môi trường xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh”.
Các đại biểu dự Hội nghị.
Đồng chí Tô Lâm cũng phân tích, trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Trong nước, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vừa có nhiều thuận lợi rất cơ bản, nhưng 04 nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại và có mặt còn gay gắt hơn. Dưới góc độ thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc gia, đất nước ta đang đứng trước 03 thách thức lớn đe dọa trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Trong đó, nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm thế trận lòng dân, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong là nguy hiểm nhất.
Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại (Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư) đã tác động sâu sắc đến tư duy về sức mạnh, nguồn lực bảo vệ an ninh quốc gia, nhất là sức mạnh tổng hợp quốc gia gồm 09 yếu tố cấu thành: Vị trí địa lý; nguồn tài nguyên thiên nhiên; khả năng sản xuất công nghiệp; dân số; lực lượng vũ trang; chí khí dân tộc; khả năng ngoại giao; năng lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ. Vì thế, “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia” phải được xem như một bộ phận quan trọng của “Chiến lược phát triển quốc gia” nằm trong tổng thể của “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.
Trong sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia, cùng với những diễn biến phức tạp của nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đã làm nảy sinh những nguy cơ chung đe dọa an ninh của tất cả các quốc gia trên thế giới như: khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, khủng hoảng kinh tế, tài chính, năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên như động đất, sóng thần, dịch bệnh… làm phát sinh những nội dung mới trong bảo vệ an ninh quốc gia.
Nhất quán quan điểm giữ nước từ khi nước chưa nguy
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng phát triển nhận thức, tư duy mới về bảo vệ an ninh quốc gia: lần đầu tiên đưa ra tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), trong đó có định hướng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đến năm 2030.
Điểm mới về mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia ở đây là: “bảo vệ con người, an ninh con người” và “xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh” bằng các biện pháp mới hơn, mạnh hơn đó là: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại” để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia. Đại hội XIII đã bổ sung nội dung “Kết hợp với sức mạnh thời đại” để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp nhằm bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia.
Về quan điểm, để thực hiện được mục tiêu và tầm nhìn đã được Đảng nêu ra, Đại hội XIII xác định 05 quan điểm chỉ đạo đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó có quan điểm: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi… xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Đây là sự kế thừa nội dung “Bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc” đã được Đảng nêu ở các kỳ Đại hội trước. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh nhiều vấn đề khu vực, quốc tế diễn biến phức tạp, khó dự báo, lợi ích đan xen nhau, nên Đại hội XIII đã nhấn mạnh “Bảo đảm cao nhất” để thống nhất trong tư duy nhận thức và hành động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.
Trong nội dung phương hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Đại hội XIII xác định phương hướng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.
Điều này khẳng định tư duy và định hướng xa hơn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó cũng nhấn mạnh nội dung “an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương” cho phù hợp với bối cảnh hiện nay đó là: Coi việc giữ vững an ninh quốc gia vừa là mục tiêu, giải pháp để phát triển bền vững đất nước; đồng thời thể hiện tư tưởng chỉ đạo phát triển để giữ vững an ninh, an ninh để phát triển, an ninh trong phát triển.
Hình ảnh tại Hội trường Diên Hồng.
Về phạm vi bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, Đại hội XIII phát triển tư duy mới về phạm vi bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi biên giới hành chính quốc gia, mà cần phải mở rộng nhằm bảo vệ lợi ích, an ninh quốc gia ở cả bên ngoài biên giới hành chính quốc gia. Phải chuyển từ tư duy thụ động, bó hẹp, khép kín, biệt lập sang tư duy chủ động, hợp tác và phát triển. Phải bảo vệ an ninh quốc gia từ xa, từ sớm, tạo vành đai an ninh từ ngoài lãnh thổ, biên giới hành chính quốc gia (an ninh đối ngoại…); bảo vệ an ninh không gian, vùng trời quốc gia (an ninh mạng, an ninh không gian mạng, an ninh hàng không…); bảo vệ an ninh dưới lòng đất quốc gia (an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước…).
Đại hội XIII xác định: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”.
Văn kiện Đại hội XIII bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vấn đề: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”, đồng thời nhấn mạnh: “Xác định chủ động phòng ngừa là chính”. Vì vậy, bảo vệ an ninh quốc gia mang “tính phòng ngừa” rất cao; là sự kế thừa truyền thống, nghệ thuật cách mạng của dân tộc, của cha ông ta “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, “khó dự báo”, nên để bảo đảm các mục tiêu phát triển, Đại hội XIII đã xác định phương hướng “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống”.
Trong bảo vệ an ninh quốc gia, cần luôn chủ nắm chắc tình hình từ sớm, từ xa, từ cơ sở trong mọi tình huống; nắm tình hình từ khi mới khởi nguồn các vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự để kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước những chủ trương, giải pháp, cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, chủ quyền và an ninh của đất nước.
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”. Đồng thời, tiếp tục kế thừa và phát triển tư duy về nguồn lực quốc phòng, an ninh trong Văn kiện Đại hội XII với phương châm: “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”, “Phát huy sức mạnh và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn dân, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng”.
Văn kiện Đại hội XIII đã phát triển toàn diện nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, xã hội, đối ngoại. Trong đó, nội dung “đối ngoại” được đặt cùng với “kinh tế, văn hóa, xã hội” khi kết hợp đã thể hiện được tư duy, yêu cầu đòi hỏi hiện nay để phù hợp với vị thế của Việt Nam, cũng như xu thế hợp tác quốc tế.
Đại hội XIII cũng đặt ra yêu cầu cao hơn, không chỉ kết hợp chặt chẽ mà còn phải “kết hợp hiệu quả”. Đại hội XIII khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”.
Xây dựng lực lượng công an, quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Theo Bộ trưởng Tô Lâm, tư duy về xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong các Văn kiện Đại hội XIII đã định hướng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
So với Đại hội XII, Đảng ta xác định chuyển từ trạng thái “từng bước hiện đại” sang “một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”. Đồng thời xác định mục tiêu phấn đấu: “đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Đây là tư duy rất mới trong việc định hướng xây dựng lực lượng Công an nhân dân phù hợp với xu thế, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia cũng như tiềm lực của đất nước hiện nay.
Đồng thời, để cụ thể hóa định hướng đó, Đại hội XIII cũng xác định lộ trình cụ thể: “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”.
Hội nghị đã nghe 5 chuyên đề chính với 5 Báo cáo viên là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị trực tiếp quán triệt.
Đại hội XIII còn xác định: “Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đủ mạnh, đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở”, đây là căn cứ, tiền đề quan trọng để Đảng ủy CATW, Bộ Công an thực hiện chủ trương “tăng cường cơ sở”, xây dựng Công an xã chính quy.
Ngoài ra, Đại hội XIII cũng thể hiện tư duy mới của Đảng trong xây dựng lực lượng Công an, Quân đội rất toàn diện, thực hiện “Quan tâm chăm lo thực thiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang và chính sách hậu phương quân đội, công an”. Để xây dựng Công an, Quân đội hiện đại, Đại hội XIII xác định: “Tăng cường, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội”, trong đó nhấn mạnh yếu tố hiện đại, xác định rõ công nghiệp an ninh hiện đại. Như vậy, tư duy về xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được xác định với yêu cầu cao hơn.
Đồng chí Tô Lâm cũng cho biết, tư duy mới về nghiên cứu, phát triển lý luận an ninh tại Đại hội XIII được xác định rõ hơn, Đảng đã khẳng định vị trí của lý luận “nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay.
Đồng chí Tô Lâm khẳng định, những tư duy mới về quốc phòng, an ninh thể hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh phải phù hợp và gắn bó chặt chẽ với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước; đồng thời, sự khẳng định này cũng thể hiện tư duy, định hướng phát triển lĩnh vực quốc phòng, an ninh, vừa khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế vừa phát huy được sức mạnh thời đại trong bảo vệ an ninh quốc gia./.
Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhận Thức Mới, Tư Duy Mới Về Quốc Phòng Việt Nam
(Chinhphu.vn) – Những nhận thức và tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là những chủ trương lớn, đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược; là kết quả của việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; là “kim chỉ nam” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang trình bày chuyên đề: “Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam”.
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 28/3, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang truyền đạt chuyên về “Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam”.
Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra.
Quan điểm về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng, là “kim chỉ nam” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình lãnh đạo, nhận thức, tư duy của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc không ngừng được phát triển, đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực, quốc tế và xu thế của thời đại, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Những yếu tố tác động đến quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc
Hai nội dung lớn trong chuyên đề này, bao gồm: Tình hình thế giới, khu vực, trong nước tác động đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam đã được đồng chí Phan Văn Giang trình bày, làm rõ.
Về tình hình thế giới, khu vực, trong những năm tới, dự báo môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Tăng ngân sách quốc phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt và trở thành xu thế phổ biến. Đặc biệt một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự với những thế hệ vũ khí mới.
Chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia; sự can dự, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; chạy đua vũ trang; không gian chiến lược mới; các loại hình tác chiến mới đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trên thế giới, khu vực và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước, nhất là nước nhỏ đang phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nhất là công nghiệp số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ, thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược. Sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Sự ra đời của chiến tranh mạng tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh thế giới, khu vực và của mỗi quốc gia. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp diễn phức tạp.
Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, trên biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Về tình hình trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức đặt ra đối với quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt được những kết quả quan trọng nhưng vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, việc kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh ở một số lĩnh vực, một số địa phương, đơn vị cần phải nghiên cứu triển khai chặt chẽ hiệu quả hơn. Những vấn đề phức tạp về quốc phòng ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Theo đồng chí Phan Văn Giang, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy mới của Ðảng đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, là định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”, hoàn toàn thống nhất mục tiêu phát triển “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Về nhiệm vụ quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó quân đội nhân dân là nòng cốt”.
Khẳng định củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, nhưng không coi nhẹ nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Củng cố quốc phòng là cơ sở tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; kinh tế phát triển, đất nước mạnh lên sẽ là phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đồng chí Phan Văn Giang nêu rõ, nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường. Nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm: xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân.
Trong xây dựng tiềm lực quốc phòng, tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tiềm lực quốc phòng của đất nước là vấn đề quan trọng, tạo nền tảng cho việc củng cố, nâng cao sức mạnh, đáp ứng được yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng là một trong những đột phá về tư duy và tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng, nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp đảm bảo tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”.
Về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đồng chí Phan Văn Giang đã nêu lên các nhiệm vụ cụ thể về xây dựng quân đội nhân dân; xây dựng lực lượng dự bị động viên; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ.
Về xây dựng thế trận quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia – dân tộc, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gồm: Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế – xã hội và kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ quân khu vững mạnh toàn diện, hợp thành hệ thống phòng thủ đất nước; xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Đồng chí Phan Văn Giang nêu rõ những nhận thức và tư duy mới về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là những chủ trương lớn, đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược; là kết quả của việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; nhằm thực hiện kế sách giữ nước từ từ sớm, từ xa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền hoà bình bền vững của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; tích cực tham gia bảo vệ hoà bình ổn định trong khu vực và trên thế giới; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước./.
Hải Liên
Từ khóa: Bảo vệ Tổ quốc , kim chỉ nam , quân sự , quốc phòng , Đại hội XIII của Đảng
Bảo Vệ Vững Chắc An Ninh Quốc Gia Trong Tình Hình Mới
(Chinhphu.vn) – Các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW; cần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình hình, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và nêu cao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm an ninh kinh tế.
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 51-NQ/TW và sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW. Ảnh VGP/Lê Sơn
Sáng 9/7, tại Hà Nội, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG) và sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 5/01/2017 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế (ANKT) trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tham dự và chỉ đạo Hội nghị có các đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng; Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương đồng chủ trì Hội nghị.
Tham dự Hội nghị có hơn 500 đại biểu là các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đại diện các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Đảng ủy trực thuộc Trung ương; Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội; các Ủy ban của Quốc hội; Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cán bộ chủ chốt của lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, công tác bảo vệ ANQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Năm 1998, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Nghị quyết về Chiến lược ANQG, lần đầu tiên Đảng ta hệ thống nhận diện những nguy cơ đe dọa ANQG và đề ra các chủ trương, giải pháp cơ bản chỉ đạo về bảo vệ ANQG.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết về Chiến lược ANQG cho thấy: Dưới sự lãnh đạo thường xuyên, sát sao của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, ANQG được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững độc lập, tự chủ, đảm bảo toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ của đất nước. Ổn định chính trị và môi trường an ninh, an toàn đã trở thành một trong những lợi thế, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, tạo lập vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, trong ANQG, ANKT được xác định là nền tảng, là nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội. Để tăng cường bảo đảm ANKT, Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành Chỉ thị số 12 ngày 05/01/2017 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANKT trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Qua 03 năm triển khai thực hiện chủ trương đặc biệt quan trọng của Đảng về bảo vệ ANKT, có nhiều vấn đề cần đánh giá, sơ kết để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Thượng tướng Bùi Văn Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an quán triệt những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW; trình bày Báo cáo tóm tắt sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị…
Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng phát biểu tại hội nghị. Ảnh VGP/Lê Sơn
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ ANQG và Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo đảm ANKT, các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách; cần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình hình, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và nêu cao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm ANKT. Cụ thể hóa nội dung Nghị quyết số 51-NQ/TW, Chỉ thị số 12-CT/TW thành các chương trình, kế hoạch, nghị quyết chuyên đề phù hợp với đặc điểm, tình hình cơ quan, đơn vị, địa bàn và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội gắn với công tác bảo đảm ANQG, chủ động ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống… Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ ANQG, bảo vệ ANKT; chịu trách nhiệm chính và trước hết xử lý vấn đề an ninh ở lĩnh vực, địa phương mình. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu và các loại tội phạm.
Đồng chí Trần Quốc Vượng cũng lưu ý việc nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả hệ thống chính trị trong bảo vệ ANQG, bảo đảm ANKT… Xây dựng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bảo vệ ANQG, bảo vệ ANKT đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tập trung xây dựng lực lượng Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, phấn đấu xây dựng lực lượng Công an nhân dân chuyên nghiệp, hiện đại, thực sự trong sạch, liêm chính, bố trí hợp lý trên các địa bàn…
Lê Sơn
Từ khóa: Bộ Chính trị , Ban Bí thư , Trần Quốc Vượng , Tô Lâm , an ninh , kinh tế , quốc gia , Phan Đình Trạc , Ngô Xuân Lịch
Năm Học Mới Và Giải Pháp Duy Trì Trường Học Đạt Chuẩn Quốc Gia
GD&TĐ – Đến nay, toàn tỉnh Phú Thọ có 630 trường đạt chuẩn quốc gia (tỷ lệ 68,6%); tỉ lệ kiên cố hóa trường lớp học là 85,6 % (mầm non 64,1%, tiểu học 83,1%, THCS 95,9%, THPT 98%), cao hơn mức bình quân chung của cả nước.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Hà Kế San, lãnh đạo Sở GD&ĐT cùng các sở, ngành kiểm tra thực tế xây dựng trường chuẩn quốc gia tại huyện Tam Nông (Ảnh:phutho.vn)
Với một tỉnh miền núi, trung du còn nhiều khó khăn, con số trên thể hiện nỗ lực không nhỏ của ngành Giáo dục địa phương này.
Thực hiện xã hội hóa, huy động tối đa nguồn lực
Nói về giải pháp duy trì trường học đạt chuẩn quốc gia, việc đầu tiên ông Nguyễn Minh Tường – Giám đốc Sở GD&ĐT Phú Thọ – chia sẻ là đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục tại các địa phương có điều kiện.
Thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để khắc phục tình trạng trường, lớp học chưa được kiên cố hóa ở khu vực có điều kiện KT-XH khó khăn; đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học; mở rộng quy mô lớp học để giảm sĩ số học sinh ở khu vực thành thị.
Cùng với đó, tiến hành kiểm tra, rà soát, đánh giá nghiêm túc thực trạng các tiêu chuẩn của trường học đạt chuẩn quốc gia (định kỳ 2,5 năm và 5 năm) theo quy định, lập hồ sơ trình đoàn kiểm tra của UBND tỉnh.
“Hiện nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh tiếp tục rà soát, quy hoạch, tạo quỹ đất đáp ứng yêu cầu tối thiểu về diện tích cho mỗi cơ sở giáo dục theo quy định.
Bên cạnh đó, tôi cho rằng, các cấp, ngành cần tập trung bố trí, huy động, lồng ghép các nguồn lực, tận dụng tối đa việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động nguồn vốn ngân sách cấp huyện, xã và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo tiêu chuẩn của trường học đạt chuẩn quốc gia ở mỗi cấp học, quan tâm tới giáo dục miền núi” – ông Nguyễn Minh Tường chia sẻ thêm.
Gắn trách nhiệm với người đứng đầu mỗi cơ sở giáo dục
Nhấn mạnh giải pháp này, ông Nguyễn Minh Tường đồng thời cho biết, cần triển khai đồng bộ các giải pháp để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn,…tạo điều kiện cho các đối tượng (học sinh, giáo viên) được thụ hưởng các điều kiện của một trường chuẩn quốc gia ở mức độ cao nhất.
Địa phương, ngành Giáo dục, các cơ sở giáo dục thường xuyên rà soát, đánh giá số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ, có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn đảm bảo đáp ứng yêu cầu và tương xứng với vị thế trường học đạt chuẩn quốc gia; thực hiện triệt để phân cấp quản lí theo quy định.
“Năm học mới 2017 – 2018, Phú Thọ tiếp tục thực hiện rà soát hệ thống trường lớp, xây dựng kế hoạch duy tu, bảo dưỡng, đảm bảo cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đối với các trường thực hiện dạy học 2 buổi/ngày. Tiếp tục thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2014 – 2015, lộ trình đến năm 2020.
Trong thời gian tới tiến hành xác định thực trạng và nhu cầu về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho từng đơn vị; xây dựng kế hoạch tổng thể chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị trường học đồng bộ với lộ trình đổi mới chương trình giáo dục phổ thông” – Giám đốc Sở GD&ĐT chia sẻ.
Bạn đang xem bài viết Những Nhận Thức Mới, Tư Duy Mới Về An Ninh Quốc Gia trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!