Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết) mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Một trong những bài thơ được yêu thích và đặc sắc nhất của Tố Hữu, chính là bài thơ Việt Bắc. Qua việc phân tích từng khổ thơ, cho ta cái nhìn cụ thể hơn về tác phẩm. Đặc biệt ở hai khổ thơ đầu.
Giới thiệu về , tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời và dẫn dắt đến hai khổ thơ đầu: Tố Hữu là lá cờ đầu cho nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, là tác gia văn học lớn của dân tộc. Trong đó đặc sắc nhất là bài thơ Việt Bắc, bài thơ ra đời khi chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi, khi những người chiến sĩ cách mạng về xuôi, chia tay với đồng bào Việt Bắc. Hai khổ thơ đầu đã tái hiện niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trăn trở chung của đồng bào ta khi ấy.
1: Khổ 1: Nỗi nhớ của người ở lại dành cho người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn?
– cặp đại từ xưng hô quen thuộc trong ca dao “mình – ta” thể hiện giọng điệu gần gũi, tâm tình, thương mến.
– lặp cấu trúc “mình về có nhớ..” diễn tả nỗi nhớ da diết của người ở lại.
– câu hỏi tu từ: “có nhớ không” “có nhớ ta” bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, như tự giãi bày tấm lòng mình.
2: Khổ 2: Sự đồng vọng của người ra đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– từ láy “tha thiết” “bâng khuâng” “bồn chồn” thể hiện tâm trạng lưu luyến của người ra đi
– hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chỉ những người dân Việt Bắc.
– cụm từ ‘biết nói gì” nói lên tất cả sự nhwos người của người đi kẻ ở.
3: Nghệ thuật:
– thể thơ lục bát truyền thống
– sử dụng hình ảnh đối đáp quen thuộc ca dao, hình ảnh hoán dụ, tư láy, câu hỏi tu từ, lặp cấu trúc.
– giọng thơ trữ tình, đằm thắm
– ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu
– Nêu cảm nghĩ khổ thơ, khẳng định ý nghĩa giá trị và tác dụng của khổ thơ đối với toàn bài.
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đời tro bón đất
Sống là cho mà chết cũng là cho
Chặng đường trường kì lịch sử đã đi qua, để lại những đau thương và mất mát vô hạn trong lòng người, nhưng cũng khắc ghi biết bao ơn nghĩa không thể nói hết bằng lời. Tố Hữu, người “thư kí trung thành của thời đại” đã ra đi, ông khép lại đời thơ của mình bằng một bài thơ nhỏ. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, tiếng thơ Tố Hữu đã hóa thân vào hồn thiêng sông núi, dưới những thanh âm của tháng năm hòa bình. Tôi vẫn nghe thấy tiếng thơ anh qua những giọng em nhỏ, vẫn nghe thấy những người từng đi qua chiến tranh nhắc thơ anh bằng niềm xúc động sâu xa. Cuộc đời không cho ta mãi mãi, nhưng có thể khẳng định tiếng thơ anh mãi mãi bất tử cùng tháng năm, của hôm qua, hôm nay và mai sau. Tiếng thơ anh không chỉ nói mãi về đau thương, mà còn lấy đau thương làm đòn bẩy nổi bật lên ân tình cách mạng, đoàn kết dân tộc, trong đó không thể không nhắc tới tác phẩm thơ Việt Bắc, đặc biệt hơn cả là tám khổ thơ đầu, những dòng thơ ấy trong Việt bắc đã gọi về trong ta bao niềm thương, niềm nhớ, tự hào dẫn tộc trong những tháng năm làm nên lịch sử vàng của dân tộc.
Là một nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu đi đầu trong phong trào cách mạng Việt Nam, Tố Hữu là tiếng thơ mà muôn thế hệ còn sống mãi. Cho tôi được gọi Tố Hữu là anh, bởi mỗi vần thơ Tố Hữu vang lên, ta đều cảm nhận được một mạch nguồn sống trẻ chảy rạo rực trong lòng, và cũng bởi vì thế tôi luôn cảm thấy mình chính là đứa em trong “vạn đầu em nhỏ” mà Tố Hữu đã nguyện làm người anh cả cùng sẻ chia, gắn bó. Người ta thích đọc Tố Hữu cũng bởi lẽ thơ Tố Hữu trẻ, thơ anh trẻ không chỉ bởi chân lí sống “từ ấy” của anh:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Mà còn bởi sự ân tình, đằm thắm, chất ngọt như chảy từ mạnh nguồn Huế rất riêng, một xứ Huế cứ mãi đằm thằm, tâm tình, thương yêu trong giọng thơ ấy. Nhớ lắm những vần thơ mở đầu:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn?
Tố Hữu quả không nói quá khi người ta đặt tên cho anh bằng cái danh: “người thư kí trung thành của thời đại” không chỉ bởi đường cách mạng gắn với đường thơ, mà còn bởi thơ Tố Hữu luôn chứa đựng nghệ thuật của thơ ca truyền thống. Lấy cặp đại từ ca dao “mình..ta” đầy quen thuộc mà ta đã nằm lòng những năm mẹ còn cất lên tiếng ru từng ngày:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
Văn học dân gian, nền tảng của văn học viết, vận dụng nhuần nhuyễn truyền thống, chính là cách tốt nhất để sáng tạo nên những vần thơ hiện đại, khiến chúng không bao giờ cũ. Tố Hữu đã tạo ra điều này trong bài thơ của mình, lời thơ vì thế mà cứ bổi hổi bồi hồi, làm cho người đọc tựa như người bên kia, nghe câu nói tự giãi bày của người ở lại dành cho người ra đi, là của người dân việt bắc dành cho cán bộ cách mạng, trong lòng cũng tự nhiên gợi về bao trăn trở, lo âu, đó là mười lăm năm “thiết tha mặn nồng”, đó là ân tình cách mạng chia nhau những đói cơm rét mướt những ngày đất nước còn chìm trong đau thương, liệu người ra đi, về với hòa bình với an yên, có còn nhớ tới người ở lại hay không? Vì thế, lời thơ Tố Hữu lần nữa bộc bạch lên những câu thơ:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn
Tố Hữu hơn một lần vận dụng rất sáng tạo và nhuần nhuyễn văn học dân gian, làm nền tảng tạo nên giọng điệu tâm tình, tự nhiên, chân thành rất hiện đại, rất riêng của mình. Dân gian ta vẫn từng có câu nằm lòng:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
“Uống nước nhớ nguồn”
Việt Bắc đã chịu nhiều đau thương, đã cùng gánh trên vai như một “Việt Nam” thu nhỏ của cuộc kháng chiến cứu quốc, vì vậy dù có đi xa, nhưng người ở lại vẫn nhẹ nhàng nói với người ở lại một ân tình cách mạng, mà nơi ấy, “cây” là ẩn dụ cho người ra đi, “núi” và “nguồn” chính là chiến khu miền núi.
Nếu như ở bốn khổ thơ mở đầu, ta cảm nhận rõ nét một sự thiết tha tự giãi bày của người ở lại, như muốn nhắn nhủ những hẹn ước, tấm lòng son sắt của mình. Thì ở khổ thứ hai, chính là tiếng lòng đồng vọng trìu mến của người ra đi, đáp lại những trăn trở của người ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Tố Hữu sử dụng từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đã thể hiện rõ nét tâm tình của người chiến sĩ cách mạng lúc về xuôi. Chỉ khi trong lòng còn vương vấn, nhớ nhung, mới có thể nghe thấy, cảm thấu được “tiếng ai” còn đang “tha thiết” và khi ấy, bước chân người lính như bồn chồn, không yên, lúc nào cũng lưu luyến, lúc nào cũng vấn vương, thương nhớ đến nao lòng.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Sử dụng biện pháp hoán dụ, như để tăng sức gợi hình, gợi tả cho sự diễn đạt, áo chàm là áo rất đặc trưng mà chỉ có ở người dân Việt Bắc, nơi mà núi cao rừng thiêng, họ đã lấy cây chàm để nhuộm màu cho sắc áo của mình. Người dân Việt Bắc thân thương, chính là hình ảnh hoán dụ “áo chàm”. Lần chia tay có ý nghĩa lịch sử ấy, được ghi lại với niềm xúc động sâu xa, họ cầm tay nhau, vấn vương, bịn rịn, mười lăm năm ấy đã là quá dài? Vì thế cầm tay nhau, “không nói gì” cũng chính là nói ra rất nhiều. Hẳn vì thế mà khổ thơ thứ hai, được xem như một lời đồng vọng đầy thương mến.
Tố Hữu từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến thơ anh, ta luôn một lòng nhớ tới người đã ghi lại những dấu ấn, những trang sử không bao giờ quên, mà điều đó cũng chính là thứ mang lại một phong cách trữ tình, chính trị mà không ai có thể dễ dàng có được. Tác gia Tố Hữu, ẩn mình phía sau sự đối đáp của người ở lại và người ra đi, cũng đã chính mình bộc lộ tình yêu quê hương, yêu đất nước, trái tim không lúc nào vơi cạn khi hướng về tổ quốc, dân tộc. Vận dụng ca dao dân ca một cách nhuần nhuyễn, kết hợp cùng các từ láy độc đáo, những câu hỏi tu từ như để tự giãi bày tâm tư, cùng một giọng thơ luôn tâm tình, đằm thắm và tha thiết, một giọng Huế mượt mà rất riêng… khép lại hai khổ thơ đầu, cũng chính là mở ra một dòng chảy tiếp theo trong Việt Bắc, mà nơi ấy cuộc sống của cán bộ với người dân Việt Bắc được bộc lộ rõ hơn không chỉ còn là những nỗi nhớ, là lời đáp hỏi đầy vấn vương sâu đậm. Ta yêu Tố Hữu chính vì vậy, ta cảm mến, và ngưỡng mộ anh cũng bởi một trái tim lớn lao, dành trọn cuộc đời, là đường cách mạng, cũng là đường thơ mà anh đã lựa chọn.
Hiểu về Tố Hữu, hiểu tiếng thơ anh mà ta thấy thương yêu anh nhiều lắm, Tố Hữu không cùng ta chứng kiến những tháng năm hòa bình ngày hôm nay, nhưng chính anh đã gọi về trong ta tình yêu đất nước thiêng liêng, là tiếng đồng vọng tới muôn thế hệ, về một quá khứ oanh liệt, hào hùng, không ngại hi sinh, gian khổ ngày trước. Để chúng ta ngày hôm nay, thêm vững vàng, thêm tự tin, hăng say cống hiến và bảo vệ như chính anh ngày trước đã một lòng tin tưởng, một lòng đi theo chân lí của đảng và cách mạng.
Nguyễn Bích Ngọc
Lớp 12A1 – Trường THPT thị xã Nghĩa Lộ, Yên Bái
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã làm nổi bật sự đưa tiễn, luyến lưu, bịn rịn của người ra đi và người ở lại ở chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp.
Từ đó, chúng ta đã thấy rõ tình cảm đoàn kết, tình yêu thương của quân và dân ta như những người thân trong gia đình, đó là gia đình đại dân tộc Việt Nam.
Bài 1. Bài văn của em Trần Thị Kim Xuyễn đã phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Một trong những điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu là chất thơ trữ tình chính trị. Thơ Tố Hữu gắn bó một cách sâu sắc với mọi biến chuyển trong đời sống cách mạng, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng miền nam thống nhất giang sơn và từng bước đi lên cuộc CM DT DC do Đảng cộng sản lãnh đạo… Nhưng thơ Tố Hữu vô cùng tha thiết đằm thắm đem đến cho người đọc xúc cảm tinh tế và lớn lao. Tố Hữu đã trữ tình hoá mọi vấn đề chính trị – xã hội để làm nên chất “trữ tình chính trị”.
Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp và cũng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách này. Bằng cấu từ đầy màu sắc trữ tình dân gian, 1 thứ ngôn ngữ ngọt ngào tha thiết, những hình ảnh rất giàu chất thơ Tố Hữu đã từ cuộc chia tay giữa những người kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc mà tái hiện lại một Việt Bắc trong kháng chiến đầy gian khổ hy sinh nhưng thấm đẫm nghĩa tình quần chúng giữa cách mạng với nhân dân, lãnh tụ với dân tộc, miền ngược với miền xuôi, quá khứ, hiện tại, tương lai như hoà quyện vào nhau. Điều đó dã được thể hiện ngay trong 8 câu thơ mở đầu bài thơ.
Vì là 1 phong cách trữ tình chính trị nên thơ Tố Hữu luôn gắn liền với những vấn đề thời sự, luôn kết tinh trong tác phẩm hơi thở của cuộc sống. Nhờ thế Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Đó là vào tháng 10/ 1954, sau khi kháng chiến vĩ đại của dtộc ta kết thúc bằng một chiến thắng rạng rỡ khắp 5 châu 4 biển, làm chấn động địa cầu, đất nước đã hoà bình, Bác Hồ và các cơ quan trung ương Đảng, cùng với phần lớn các tổ chức kháng chiến, những người kháng chiến đã hồ hởi trở về tiếp quản thủ đô. 1 cuộc chia tay lớn mang tính chất lịch sử đã diễn ra trên khắp vùng quê nẻo đường. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu muốn làm một cuộc tổng kết về quá trình chiến thắng, VB- thủ đô của kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không thể hiện nó như bản tổng kết quân sự hay những trang sử về kháng chiến hoặc một báo cáo chính trị thông thường. Tố Hữu đã trữ tình hoá cuộc chia tay lớn này bằng việc thể hiện nó như một cuộc chia tay của đôi lứa, của “mình với ta”, “ta với mình” trong ca dao dân ca của mọi miền đất nước đặc biệt trong ca dao dân ca của đồng bằng Bắc Bộ.
Hoàn cảnh đã tạo nên cấu trúc trữ tình tác phẩm, cái âm hưởng dìu dặt, lưu luyến, bịn rịn bao trùm bài thơ đó là cái âm hưởng của những câu thơ lục bát đều đặn nhịp nhàng và những thanh bằng thanh trắc đắp đổi cho nhau như trong câu thơ lục bát truyền thống. Cấu trúc trữ tình tạo nên cái tứ trữ tình, uốn vào nó thiên nhiên rất giàu giá trị biểu cảm, trực tiếp bày tỏ cảm xúc với rất nhiều chữ “nhớ” lan toả khắp bài thơ rồi những từ “tha thiết”, “bâng khuâng” với hình ảnh người yêu. Có thể nói hoàn cảnh ra đời chính là sự khơi gợi cảm hứng, từ cảm hứng khơi gợi giọng điệu, từ giọng điệu như một thanh nam châm hút vào tác phẩm những từ ngữ cùng một trường biểu cảm.
Việt Bắc là một những hoài niệm lớn của những ngày kháng chiến, những hoài niệm được đặt trong không gian thấm đẫm chất trữ tình. Cho nên ngay từ những dòng thơ mở đầu, Việt Bắc mở ra khung cảnh chia tay giữa núi rừng, trong đó 4 dòng thơ đầu là tiếng nói Việt Bắc với người miền xuôi, và cũng 4 câu thơ như vậy viết về cảm xúc của người miền xuôi như để đáp lại người Việt Bắc. Kết cấu đối đáp đã tạo nên những suy nghĩ về tấm lòng người ở, người đi thuỷ chung son sắt.
Việt Bắc là tiếng nói trữ tình giữa khung cảnh chia tay của những người kháng chiến với đồng bào vùng cao, nhưng lại được mở đầu bằng tiếng nói của người miền ngược, Tố Hữu như muốn nói cái tình của đồng bào Việt Bắc với Bác Hồ, Trung ương Đảng, những người kháng chiến thật sâu sắc biết bao nhiêu, thuỷ chung đến chừng nào. Tiếng nói của người tiễn đưa đã thấm đấm nhớ thương, ngay từ những từ ngữ xưng hô: “Mình về mình có nhớ ta”. Chữ “mình” vốn để chỉ những người nói, nhưng VB lại dành để chỉ những người về xuôi, gọi người đối thoại với mình là mình, hay đúng hơn là phần thương nhớ của chính mình, hoặc sự phân thân của chính mình. Cho nên mình và ta tuy hai mà một, cứ quấn quýt bên nhau, thậm chí nhớ thương dành cho người về xuôi nhiều hơn, cho nên 4 dòng thơ mà “mình” trở đi trở lại bốn lần: “mình về mình có nhớ ta”; “mình về mình có nhớ không”. Người viết đã biến cuộc chia tay lớn thành cuộc chia tay “mình” và “ta” giống như đôi lứa yêu nhau, đầy bịn rịn lưu luyến.
Lời chia tay lại có kết cấu của hai câu hỏi. Một câu hỏi bao trùm cả thời gian: có nhớ “muời lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Một câu hỏi bao trùm cả không gian : có nhớ “Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là những câu hỏi rất giàu giá trị tu từ, nó như xoáy sâu vào kí ức của người miền xuôi, nó như dồn nén bao nhiêu kỉ niệm của muời lăm năm sâu nặng nghĩa tình với những buồn vui, những gian khổ mà gắn bó từ những ngày ngọn lửa hồng của cách mạng được chính chủ tịch Hồ Chí Minh khơi lên từ Pắc Bó, cho tới những ngày độc lập rồi kháng chiến thành công. Đó cũng là 15 năm với bao nhiêu thiết tha mặn nồng. Trong khi đó câu hỏi:
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
lại bao trùm cả không gian, không phải gợi nhớ kỉ niệm mà làm cho khoảng cách không gian giữa miền xuôi và Việt Bắc như xích lại nhau trong một chữ nhớ “nhìn cây nhớ núi”; “nhìn sông nhớ nguồn”. “Cây” và “sông” là biểu tượng của không gian miền xuôi vời vợi, với vùng cao trong biểu tượng “núi” “nguồn”. Chữ “nhớ” đặt giữa “cây” và ” núi”; “sông” và ” nguồn” như có sự kết nối không gian cách trở vời vợi ấy trong tâm tưởng, như xoá nhoà sự chia li. Cũng giống như ở câu thơ mở đầu “mình” và “ta” trong cuộc chia li này không hề có sự xa cách trong tình cảm, bởi một chữ “nhớ” đã gắn liền họ với nhau.
Ngôn ngữ của đoạn thơ không chỉ đằm thắm trong những từ xưng hô đầy sáng tạo mà còn ở những từ ngữ khơi gợi bao nhiêu nỗi nhớ. 4 chữ “mình” gắn liền cới 4 chữ “nhớ” trong một đoạn thơ. Nỗi nhớ ấy chẳng phải nồng nàn tha thiết lắm sao! Nỗi nhớ như một dòng chảy xuyên suốt 4 câu thơ, đồng thời tác giả trực tiếp sử dụng những từ ngữ biểu hiện trạng thái cảm xúc như “thiết tha”, “mặn nồng”. Thậm chí có những từ tưởng như chỉ là một hư từ, rỗng về nghĩa như chữ “ấy” nhưng nó thật có giá trị, nó làm cho khái niệm thời gian 15 năm trở thành 15 năm kỉ niệm, gợi nhớ tới câu thơ của Lưu Trọng Lư:
Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy Nghìn năm hồ dễ ai quên
Cho nên “15 năm ấy” cũng là 15 năm sâu nặng tình yêu của đồng bào Việt Bắc.
Không chỉ có cách nói tràn đầy cảm hứng lãng mạn như trong những câu thơ viết về tình yêu đôi lứa mà những hình ảnh, cách phô diễn còn có sự cộng hưởng của ca dao, như trong câu: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là một câu thơ được viết theo thể phú, thể tỉ, vốn rất quen thuộc trong ca dao :
“Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói nghĩa tình bấy nhiêu” “Qua cầu ngả nón trông cầu Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”.
Tố Hữu sử dụng thể phú để viết “nhìn A nhớ B, nhìn C nhớ D” như trong một công thức ca dao.
Cái trữ tình không chỉ dào dạt ở lời thơ, cấu trúc câu hỏi hay nhưng từ ngữ giàu sức biểu cảm mà còn là âm hưởng của câu thơ nói chung, dìu dặt, da diết như âm hưởng của tiếng hát ru trong dân ca vùng đồng bằng bắc bộ, dễ thấm vào tâm hồn người đọc lúc bấy giờ.
Nằm trong kết cấu của mạch đối đáp, sau tiếng hát đưa tiễn của người Việt Bắc đầy nhớ thương, mặn nồng là lời đáp của người về xuôi:
” Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bồi hổi bồi hồi” hay như Tú Xương một nhà thơ trào phúng bậc nhất của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX cũng rất trữ tình, tha thiết trong chữ “ai” như vậy: “Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”, “Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô”. Đó là những chữ “ai” đầy yêu thương. Dẫu không phải không biết áo bông của ai, khăn đầu của ai nhưng người nói vẫn sử dụng chữ “ai” mà không gọi tên cụ thể chính là tạo nên một khoảng trống của không gian để yêu thương chứa đầy trong nó. Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn.
Còn người về xuôi trước những tiếng tha thiết của người đưa tiễn đã xúc động ra sao? Tố Hữu đã diễn tả một cách hết sức chính xác tâm trạng của người về xuôi qua những chữ “bâng khuâng”, “bồn chồn”. “Bâng khuâng” là tâm trạng chất chứa những nhớ thương bao trùm cả không gian với bao nhiêu kỉ niệm, không dừng lại một kỉ niệm nào. Còn “bồn chồn” cũng là từ chỉ tâm trạng nhớ thương, những đó là tâm trạng không thể kìm nén bên trong mà biểu hiện qua bên ngoài như nét mặt bồn chồn mong đợi. Ở đây cái tâm trạng ấy lại hiện ra trong bước đi của người về xuôi thành “bồn chồn bước đi”. Nghĩa là những người kháng chiến về tiếp quản thủ đô cũng như bao nhiêu thành phố, thị xã khác thì việc về đã đành phải về nhưng lòng lại không muốn chia xa. Cho nên mỗi bước đi đều bồn chồn không muốn rời chân. Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện một cách hết sức tinh tế qua nhịp điệu 2 câu thơ tiếp theo:
Áo chàm /đưa buổi/ phân li Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay
Câu thơ lục bát vốn có nhịp chẵn như nhịp thơ đều đặn của ca dao Việt Nam, nhưng với 2 câu thơ này tác giả đã tạo nên những đột biến trong nhịp điệu như một đảo phách trong âm nhạc, đột ngột chuyển sang những nhịp lẻ, như ta đã phân tích. Đó chính là nhịp bồn chồn của bước đi. Đoàn Thị Điểm trong “Chinh phụ ngâm khúc” đã tả cái bồn chồn ấy bằng một câu thơ rất giàu hình ảnh:
Bước đi/ một bước/ dây dây/ lại dừng
Tố Hữu không tả mà dùng nhạc tính của câu thơ với nhịp lẻ liên tiếp nhau để diễn tả trạng thái bồn chồn ấy. Ta như thấy người đi và người ở dùng dằng bên nhau không nỡđứt, như thế đôi bàn tay của người ở kẻ đi bịn rịn, không muốn rời xa.
Về phương diện nghệ thuật còn phải thấy t/giả đã sử dụng những hình ảnh hoán dụ ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Dùng “áo chàm” để nói người VB, cũng để nói cả Việt Bắc đang tiễn đưa người kháng chiến về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết về bàn tay của những người yêu nhau:
Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình Điều chưa nói bàn tay đã nói Mình đi rồi hơi ấm còn để lại Còn bồi hồi trong những ngón tay ta
Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.
Bài 2. Bài văn của em Thái Kim Nhàn đã phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc có nhiều đoạn thơ hay mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta … Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
1. Khái quát: – Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).
– Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.
2. Nội dung cảm nhận
a. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
– Mở đầu là câu hỏi tu từ. Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ người ở lại.
+ “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
– Hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu thơ có hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là lời nhắc nhở, dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên.
b. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn:
– “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa .
– Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly”. “Áo chàm” là màu áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng son” thủy chung, mặn nồng.
– Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì hôm nay…” không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời. Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.
3. Nghệ thuật: Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình)
– Đánh giá chung.
Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.
Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:
Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để bụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà Hắt hưu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào, Đồng Thái mái đình cây đa?
Chân bước đi mà lòng còn ở lại…trái tim gắn bó hơn mười năm giờ đây một phần đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây giờ phải chia xa làm sao cho nỡ. Người chiến sĩ bước đi trong ngậm ngùi thương nhớ. Những câu hỏi của đồng bào Việt Bắc không chỉ thể hiện được sự lưu luyến nuối tiếc mà còn như muốn khắc sâu hơn nữa những ngày tháng kỉ niệm đó.
Cách xưng hô “mình – ta” cũng là cách xưng hô rất gần gũi thân mật thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời thơ như lời tâm tình thủ thỉ, giọng thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng mà đằm thắm thiết tha. Hình ảnh áo chàm trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi phân li…” là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc đang bịn rịn trong chia li. Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:
Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…
Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm nồng thắm quân dân.
Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:
Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ lien hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chin, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.
Anh còn thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn dân quân… Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.
Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa đông trước phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và cũng ra đi vào mùa đông, mùa đông là mùa của gặp gỡ và chia phôi cho nên nó khắc sâu vào trong lòng người nhất. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt ngàn màu xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ tươi. Con người hiện lên trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế sẵn sằng chinh phục tự nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, con người trong lao động hết sức cần cù miệt mài. Thu về là những cánh rừng trắng xóa màu hoa mơ chuyển sang màu hổ phách cùng tiếng ve kêu như thúc giục lòng người. Hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm thủy chung.
Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm trong bức tranh bốn mùa đó. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.
Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên người chiến sĩ nhắc đến những hoạt đọng cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quan thù
Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những kí ức ùa về trong tâm trí là khi bộ đội đánh giặc. Khi quân giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những tán lá rừng xanh mát như một thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng lại như một vùng địa thế hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy. Khi ấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh “đêm đêm rầm rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh ao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc. Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.
Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.
Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào hùng ca ngợi tổ quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:
Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Ngày hôn qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần kí ức không thể nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.
Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi ta hỏi thăm chừng Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Lời thơ như lời băn khoăn day dứt khôn nguôi của người dân Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng trong giờ phút chia tay. Các hình ảnh hoán dụ như nhà cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng giữa rừng là các hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống nơi thành thị và nơi núi rừng. Đối lập giữa một bên là cuộc sống sung túc và đủ đầy và một bên là cuộc sống dân dã nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã diễn tả sự băn khoăn trong lòng người dân rằng liệu hoàn cảnh sống thay đổi, những người cán bộ có thay lòng đổi dạ, có lãng quên quá khứ, lãng quên đi những con người đã cùng kề vai sát cánh trong những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm nhớ nhung và mong chờ họ trở về thăm. Đáp lại, người cán bộ bày tỏ:
Đường về đây đó gần thôi Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất núi xanh Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…
Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù hoàn cảnh sống có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát. Vào một ngày không xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở ban đầu.
Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:
Mình về với Bác đường xuôi Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người.
Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên không phải như một biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí và niền tin, không phải là một biểu tượng cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh sương. Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.
Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:
Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về cảnh chia tay nhưng không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng, mở ra một tương lai huy hoàng, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc ca cuối bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin tưởng.
Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Mai Chi
Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Đạt 9.5 Điểm
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu trong Văn mẫu THPT để thấy được vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng gắn với 1 thời kháng chiến gian khổ nhưng đằm thắm tình người được tái hiện trong không gian và thời gian qua bài thơ Việt Bắc.
Bài làm phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Mở bài phân tích bài thơ Việt Bắc
Đất nước Việt Nam đã trãi qua những năm đấu tranh kháng chiến để giử gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.
Thân bài phân tích bài thơ Việt Bắc
Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.
Tố Hữu một nhà thơ được sinh ra ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ ông đã được học và tập làm thơ.
Tố Hữu được giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc). Giải thưởng Văn học ASEAN (1996). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – nghệ thuật (đợt 1 năm 1996).
Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng.
Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội.
Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ ” Việt Bắc “.
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội.
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca tháng chiến chống Pháp.
Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân nhân Việt Bắc.
Bài thơ là khúc tình ca cũng như là một khúc hùng ca về cội nguồn tình yêu quê hương đất nước và thể hiện đạo lí truyền thống ching của toàn dân tộc.
Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
Tác giả cho chúng ta thấy được hình ảnh Việt Bắc với cảnh đẹp và người
Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.
Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu.
Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”…tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang đạm nghĩa tình nhất.
Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”. ” ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.
Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.
Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mai nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.
Qua bài thơ ta cũng thấy được Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu
Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.
Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.
Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:
Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:
Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.
Hình ảnh phân tích bài thơ Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai
Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:
Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.
Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.
Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.
Kết bài phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.
Các bạn lưu ý vì 1 số lý do có thể trùng ý tưởng cho nhiều bạn sao chép bài viết trong làm bài thi ( Một số đơn vị giáo dục đã gọi và yêu cầu thây đổi thành tóm tắt ý chính ), nên Sahara buộc phải chỉnh sửa và tóm tắt lại rất nhiều ý chính để các bạn có thể tư duy và viết thêm ý hay hơn, đầy đủ hơn.
Do đó, có thể các bạn đọc thấy đoạn phân tích tương đối ngắn và có thể chưa làm các bạn hài lòng. Chúng tôi rất tiếc vì điều này. Mong các bạn thông cảm và lượng thứ.
Nguồn: Internet
Bạn đang xem bài viết Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết) trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!