Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Chức Năng Của Tiền Tệ. Trong Quá Trình Tổ Chức Và Quản Lý Nền Kinh Tế Ở Vn, Các Chức Năng Đó Đã Được Nhận Thức Và Vận Dụng Như Thế Nào ? mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Câu 1: Phân tích chức năng của tiền tệ. Trong quá trình tổ chức và quản lý nềnkinh tế ở VN, các chức năng đó đã được nhận thức và vận dụng như thế nào ?1. Các chức năng của tiền tệ:Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay thì tiền tệ có 4 chức năng cơ bản:a) Chức năng đo lường giá trị:Trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, mọi hàng hóa đều được đổi ra tiền tệ, cho nên để thuận tiện cho việc tính toán hay so sánh giá trị các hàng hóa với nhau người taquy giá trị của các hàng hóa ra tiền tệ, tức là tính xem một đơn vị hàng hóa đổi được bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Khi đó tiền tệ đã trở thành phương tiện để biểu hiện, đo lường giá trị của các hàng hóa đem ra trao đổi. Biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa gọi là giá cả hàng hóa.Để chấp hành được chức năng thước đo giá trị, tiền tệ bản thân nó phải có giá trị. Cũng giống như khi dùng quả cân để đo trọng lượng một vật thì bản thân quả cân đó phải có trọng lượng. Như đã biết giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ tức là khả năng đổi được nhiều hay ít hàng hóa khác trong trao đổi. Khi tiền tệ còn tồn tại dưới dạng hàng hóa (tiền có đầy đủ giá trị) thì sức mua của tiền phụ thuộc vào giá trị trao đổi của hàng hóa dùng làm tiền tệ với các hàng hóa khác. Đến lượt giá trị trao đổi của hàng hóa tiền tệ lại phụ thuộc vào cung cầu hàng hóa đó trên thị trường với tư cách là một hàng hóa. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiền tệ dưới dạng dấu hiệu giá trị (tiền giấy, tiền tín dụng,…) thì giá trị của tiền tệ không còn được đảm bảo bằng giá trị của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so
với giá trị mà nó đại diện) mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị trường,mức độ lạm phát, vào tình trạng hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế và cả niềm tin của người sử dụng vào đồng tiền đó.Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hóa, cần có một đơn vị tiền tệ chuẩn. Đơn vị tiền tệ lúc đầu do dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do chính quyền lựa chọn và quy định trong pháp luật từng nước. Ví dụ đơn vị tiền tệ chuẩn ở Việt Nam là 1VND, ở Mỹ là 1USD,… Người ta cũng quy định cả giá trị của đơn vị tiền tệ chuẩn đó. Giá trị của các đơn vị tiền tệ chuẩn được gọi là tiêu chuẩn giá cả. Khi tiền vàng đúc hoặc tiền giấy có khả năng đổi ra vàng còn được lưu thông, hàmlượng vàng chứa trong 1 đơn vị tiền tệ chuẩn đại diện cho tiêu chuẩn giá cả. Ví dụ: hàm lượng vàng của Bảng Anh năm 1870 là 7,32238 gam vàng nguyên chất, hàm lượng vàng của đô la Mỹ năm 1939 là 0,888671 gam. Ngày nay, khi tiền giấy không còn được đổi ra vàng nữa thì tiêu chuẩn giá cả phụ thuộc vào sức mua của đơn vị tiền tệ chuẩn đối với hàng hóa.Ngày nay, một đồng tiền muốn được sử dụng rộng rãi trong cả nước làm đơn vị tính toán để đo lường giá trị hàng hóa phải được nhà nước chính thức định nghĩa, theo những tiêu chuẩn nhất định. Nói cách khác đồng tiền đó phải được pháp luật quy định và bảo vệ. Nhưng đây chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Điều kiện đủ là phải được dân chúng chấp nhận sử dụng. Song muốn được dân chúng chấp nhận, đơn vị tính toán đó phải có một giá trị ổn định lâu dài. Trong lịch sử tiền tệ của các nước, không thiếu những trường hợp dân chúng lại sử dụng một đơn vị đo lường giá trị khác với đơn vị đo lường giá trị do nhà nước quy định. Chẳng hạn, thời kỳ nội chiến ở Mỹ, chính phủ phát hành tờ dollar xanh là tiền tệ chính thức thay thế cho đồng dollar vàng nhưng các nhà doanh nghiệp vẫn giữ dollar vàng làm đơn vị tính toán. Hay ở trong nước trước đây, mặc dù giấy bạc ngân hàng nhà nước Việt Nam là đồng tiền chính thức nhưng đại bộ phận dân chúng vẫn dùng vàng hay dollar Mỹ làm đơn vị tính toán giá trị khi mua bán các hàng hóa có giá trị lớn như nhà cửa, hàng vi tính.Việc đưa tiền tệ vào để đo giá trị của hàng hóa làm cho việc tính toán giá hànghóa trong trao đổi trở nên đơn giản hơn nhiều so với khi chưa có tiền. Để thấy rõ đượcđiều này, hãy thử hình dung một nền kinh tế không dùng tiền tệ: Nếu nền kinh tế này chỉ có 3 mặt hàng cần trao đổi là gạo, vải và các buổi chiều phim, thì chúng ta chỉ cần biết 3 giá để trao đổi thứ này lấy thứ khác: giá của gạo tính bằng vải, giá của gạo tính bằng buổi chiếu phim và giá của buổi chiếu phim tính bằng vải. Song nếu có 10 mặt hàng cần trao đổi thay vì chỉ có 3 như trên thì chúng ta sẽ cần biết 45 giá để trao đổi một thứ hàng này với 1 thứ hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta cần 4950 giá và cứ như vậy, càng nhiều mặt hàng thì càng nhiều giá. Sẽ thật khó khăn cho bất kỳ ai khi rachợ để quyết định gà hay cá rẻ hơn trong khi 1kg gà được tính bằng 0,7kg chả, 1kg cáchép được định bằng 8kg đỗ. Để chắc chắn rằng người này có thể so sánh giá của tất cả các mặt hàng trong chợ (giả sử có 50 mặt hàng), bảng giá của mỗi mặt hàng sẽ phải
Phân Tích Các Chức Năng Của Tiền Tệ Quá Trình Tổ Chức Và Quản Lý Kinh Tế Ở Việt Nam
Lời mở đầu Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ. 1. Khái quát về sự ra đời của tiền tệ 2. Cơ sở lý luận, đặc điểm chung và chức năng tiền tệ 2.1. Vai trò của tiền tệ 2.2. Các hình thái tiền tệ 2.3. Bản vị tiền tệ 2.4. Khối tiền tệ 2.5 Các chức năng của tiền tệ
Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ. 2.1 Chức năng làm thước đo giá trị. 2.2 Chức năng làm phương tiện lưu thông. 2.3 Chức năng làm phương tiện thanh toán. 2.4 Chức năng làm phương tiện cất trữ. 2.5 Chức năng làm tiền tệ thế giới.
Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam.
Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung – cầu mới về tiền trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi. Xét về toàn cảnh thị trường tài chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh thị trường tài chính khá sáng sủa, các khoảng tối đã bị thu hẹp và nhường chỗ cho những khoảng sáng. Thế giới đã từng chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng của các nền kinh tế từ châu Á, châu Âu và Mỹ sau những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á diễn ra giữa năm 1997 chắc chắn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều người. Bước vào thế kỷ mới, những năm 2000, năm bản lề của sự phát triển và hưng thịnh, Việt Nam – con rồng châu Á xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập. Qua đó tôi xin mạnh dạn trình bày tiểu luận môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài: ” PHÂN TÍCH CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở VIỆT NAM“. Tiểu luận gồm 3 phần: Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ. Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ. Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam.
Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ. 1. Khái quát về sự ra đời của tiền tệ Mọi người đề biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Tiền tệ ra đời là một tất yếu khách quan từ sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá (nềnkinh tế xã hội). Tiền tệ thực hiện các chức năng giúp cho sản xuất tiêu dùng hàng hoá phát triển và vì vậy mà trở thành một trong các các công cụ hữu hiệu để tổ chức và quản lý nền kinh tế.
2. Cơ sở lý luận, đặc điểm chung và chức năng tiền tệ chúng tôi trò của tiền tệ Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở ba mặt: -Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền và sự vận động của nó. Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy. -Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. -Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó. 2.2.Các hình thái tiền tệ 2.2.1.Hóa tệ : Hóa tệ là loại tiền tệ bằng hàng hóa. Đấy chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Trong các loại hàng hóa được dùng làm tiền tệ được chia làm hai loại: hàng hóa không phải kim loại (non metallic commodities) và hàng hóa kim loại (metallic commodities). Do vậy, hóa tệ cũng bao gồm hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại: 2.2.1.1.Hóa tệ không kim loại: Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ. 2.2.1.2.Hóa tệ kim loại Tức là lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc 2.2.2.Tín tệ : Tức là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, song nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dùng. Tín tệ gồm hai loại: Tín tệ kim loại và tiền giấy. 2.2.2.1.Tiền kim loại Tiền kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ: Trong hóa tệ kim loại giá trị của kim loại làm thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền, còn ở tín tệ kim loại, giá trị chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có liên hệ gì với nhau, có thể gắn cho nó một giá trị nào cũng được 2.2.2.2.Tiền giấy: Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán. – Tiền giấy khả hoán: là một mảnh giấy được in thành tiền tiền và lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta không gửi tại ngân hàng. – Tiền giấy bất khả hoán là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đấy là loại tiền giấy mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng. 2.2.3. Bút tệ : Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ được tạo ra khi phát tín dụng thông qua tài khoản tại ngân hàng,do vậy, bút tệ không có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả tiền hay chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất, bút tệ là tiền phi vật chất, nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán qua những công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền 2.2.4. Tiền điện tử : Tiền điện tử là là một hệ thống cho phép người sử dụng có thể thanh toán khi mua hàng hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ truyền đi các con số từ máy tính này tới máy tính khác. Tiền điện tử tồn tại dưới hình thức tài khoản trong ngân hàng, và do ngân hàng thương mại tạo nên. Tiền điện tử ra đời với các phương tiện thanh toán như séc, lệnh chuyển tiền. 2.3. Bản vị tiền tệ Khi nói đến chế độ tiền tệ tức là nói đến hệ thống tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước do pháp luật quy định, trong đó các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ được kết hợp thành một khối thống nhất. Chế độ tiền tệ được cấu thành bởi các yếu tố sau: -Bản vị tiền tệ: chính là cái được sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể chọn một kim loại nào đó hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nước để làm bản vị tiền tệ. -Đơn vị tiền tệ: mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau, ví dụ ở Việt Nam là “đông”, ở Mỹ là “dollar” -Công cụ lưu thông tiền tệ: là những phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán được sử dụng, chẳng hạn như: tiền giấy, tiền tín dụng, tiền xu Trong lịch sử tiền tệ, kể từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các nước đã trãi qua nhiều chế độ bản vị tiền tệ khác nhau, cụ thể là: 2.3.1. Chế độ đơn kim bản vị Là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim khí, vàng hoặc bạc, được tự do đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Tự do đúc thành tiền nghĩa là mọi người dân có thể biến đổi những thỏi kim khí thành những đồng tiền bằng cách đem đến nơi đúc tiền. Khả năng miễn trái vô hạn, nghĩa là bắt buộc mọi người phải nhận tiền kim khí pháp định, mặc dù số lượng là bao nhiêu. Ở nước nào sử dụng bạc làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị bạc, nước nào sử dụng vàng làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị vàng. 2.3.2. Chế độ lưỡng kim bản vị Là chế độ tiền tệ trong đó có hai loại kim khí vàng và bạc được đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Có một giá trị pháp định giữa giá trị tiền tệ của vàng và bạc. 2.3.3. Các chế độ vàng biến thể Kể từ khi tiền giấy trở nên thôg dụng, chủ yếu là tiền giấy khả hoán, còn đồng tiền vàng ngày càng ít lại. Thì kim bản vị vàng nguyên thủy biến thể qua một vài hình thái: chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thoi, chế độ bản vị hối đoái vàng. -Chế độ bản vị tiền vàng: là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức. -Chế độ bản vị vàng thoi hay hay là chế độ kim định bản vị, theo chế độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng. -Chế độ bản vị hối đoái vàng hay là chế độ kim hoàn bản vị. Đấy là chế độ trong đó tiền giấy không được đổi trực tiếp ra vàng, muốn chuển đổi ra vàng phải thông qua một đồng tiền trung gian khác. 2.3.4. Chế độ ngoại tệ bản vị Chế độ ngoại tệ bản vị là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một nước được định nghĩa theo một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh. Khác với chế độ bản vị hối đoái vàng, ngoại tệ bản vị không có liên hệ gì với vàng. Ngoại tệ mạnh được dùng làm bản vị có thể không chuyển đổi ra vàng theo một giá cố định như trong bản vị hối đoái vàng. Ở chế độ ngoại tệ bản vị, chỉ có sự liên hệ giữa đơn vị tiền tệ này với đơn vị tiền tệ khác được dùng làm bản vị tiền tệ theo một giá trị chính thức cố định. Đơn vị ngoại tệ mạnh được chọn là để làm phương tiện thanh toán trong các cuộc giao dịch quốc tế. *Bản vị dollar: Nền tảng vật chất của đồng dollar là nền kinh tế của Mỹ. Giá trị của dollar được chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hang trung ương Mỹ điều tiết và duy trì ổn định. Đồng dollar là đồng tiền mạnh, có giá trị ổn định, thuận tiền trong thanh toán quốc tế, do vậy nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nhiều nước đã gắn đồng tiền nước mình với dollar, còn được coi là theo bản vị dollar. 2.3.5. Bản vị lương thực Theo quan điểm bản vị lương thực thì giá trị đồng tiền sẽ được đảm bảo nếu giá lương thực ổn định. 2.3.6. Bản vị hàng hóa Nếu như bản vị vàng gắn đơn vị tiền tệ với một lượng vàng nhất định, thì bản vị hang hóa lại gắn tiền với hàng hóa. Bản vị hàng hóa hay đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa đã xuất hiện và được áp dụng tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thông qua hệ thống thương nghiệp nhà nước và hệ thống giá nhà nước, đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa cung cấp, thậm chí theo nhiều nhóm hàng. Bạn đường của hệ thống này là chế độ tem phiếu. 2.4. Khối tiền tệ Khối tiền tệ M1: Tiền mặt, Tiền gửi không kỳ hạn Khối tiền tệ M2: M1, Tiền gửi tiết kiệm, Tiền gửi định kỳ tại ngân hàng Khối tiền tệ M3: M2, Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác Khối tiền tệ L: M3, Trái phiếu kho bạc ngắn hạn, Trái phiếu tiết kiệm dài hạn của kho bạc, Thương phiếu, Các thuận nhận của ngân hàng. Từ khối tiền tệ M1 đến khối tiền tệ L số lượng các thành phần tăng dần, tuy nhiên tính lỏng (khả năng thanh khoản) của các yếu tố này giảm dần. Đối với Việt Nam hiện nay ta có sơ đồ sau: M1 M2 M3 L – Tiền mặt – Tiền gửi không kỳ hạn M1 + – Tiền gửi tiết kiệm – Tiền gửi có kỳ hạn – Kỳ phiếu – Trái phiếu do Ngân hàng phát hành M2 + Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác L=M2
* Chức năng làm tiền tệ thế giới.
Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ. 2.1.Chức năng thước đo giá trị Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi tiền tệ đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Chúng ta đo lường các giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng bằng kg hoặc đo khoảng cách bằng km. Để thấy vì sao chức năng này lại quan trọng, chúng ta nhìn vào nền kinh tế đổi chác, trong đó tiền không thực hiện chức năng này. Nếu nền kinh tế chỉ có ba mặt hàng, ví dụ: vải, gạo, muối thì chỉ có ba giá để có thể trao đổi thứ này với thứ khác: giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kiliogram gạo, giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kilogram muối và giá của một kilogram gạo tính bằng bao nhiêu kilogram muối. Nếu có mười mặt hàng, chúng ta sẽ có 45 giá để trao đổi mặt hàng này với mặt hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta có đến 4950 giá, với 1.000 mặt hàng có 499.500 giá. Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng: N(N -1)/2 Hãy tưởng tượng ra sự khó khăn đến thế nào nếu ta đi mua sắm trong một siêu thị với 1000 mặt hàng khác nhau. Khi quyết định giá của vật này rẻ hay đắt hơn giá cuả cái kia rất khó khăn vì giá của 1 kilogam gà được đo bằng 5 kilogam thóc, trong khi 1 kilogam cá được định giá băng 3 kilogam cà chua. Chắc chắn rằng bạn có thể so sánh giá của tất cả các mặt hàng, bảng giá của một mặt hàng sẽ phải kê ra 999 giá khác nhau và thời gian dung để đọc chúng rất lâu làm cho chi phí giao dịch tăng đáng kể. Giải pháp cho vấn đề này là đưa tiền vào nền kinh tế và dùng tiền để thể hiện giá ch tất cả các mặt hàng, như vậy chúng ta có thể dễ dàng so sánh được giá gạo, vải hay muối. Nếu chỉ có 3 mặt hàng trong nền kinh tế thì điều này sẽ không có nghĩa lớn so với nền kinh tế đổi chác vì chúng ta chỉ có 3 giá khi giao dịch. Tuy nhiên, với số lượng hàng hóa lớn hơn thì tầm quan trọng của tiền lúc này sẽ rất lớn, với 10 mặt hàng bây giờ chúng ta chỉ cần 10 giá, 100 mặt hàng chỉ cần 100 giá. Tại siêu thị có 1000 mặt hàng thì nay chỉ cần 1000 giá để xem chứ không phải 499.500 giá. Số lượng giá trong một nền kinh tế đổi chác và số lượng giá trong một nền kinh tế dùng tiền tệ được thể hiên qua bảng sau: SỐ LƯỢNG MẶT HÀNG SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỔI CHÁC SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN KINH TẾ SỬ DỤNG TIỀN TỆ 3 3 3 10 45 10 100 4950 100 1.000 499.500 1.000 10.000 49.995.000 10.000
Chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền để đo lường làm giảm hẳn chi phí thời gian để giao dịch trong một nền kinh tế, nhất là giảm hẳn số giá cần phải xem xét. Cái lợi của chức năng này của tiền tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp hơn. C.Mác đã cho rằng để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ phải là tiền thực – tiền có đủ giá trị nội tại. Để đo lường và biểu hiện giá trị các hàng hóa, có thể sử dụng tiền trong niệm và cần phải có tiêu chuẩn giá cả, tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của mỗi quốc gia bao gồm hai yếu tố: tên gọi của đơn vị tiền tệ và hàm lượng kim loại qu trong một đơn vị tiền tệ. Với việc đảm nhận chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã giúp cho mọi việc tính toán trong nền kinh tế trở nên đơn giản như tính GNP, thu nhập, thuế khóa, chi phí sản xuất, vay nợ, trả nợ, giá trị hàng hóa, dịch vụ 2.2.Chức năng phương tiện lưu thông Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có thể ví tiền tệ như một chất nhớt bôi trơn guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi mức dộ tiền tệ hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn ra thuận lợi, trôi chảy. Nghiệp vụ trao đổi gián tiếp thực hiện qua trung gian của tiền tệ, gồm: – Thứ nhất: bán hàng để lấy tiền:H-T – Thứ hai : dùng tiền để mua hàng T – H
Hay H – T – H Hàng hóa – Tiền – Hàng hóa Nhưng thỉnh thoảng hai vế này không di liền với nhau. Tiền tệ là phương tiện làm trung gian trao đổi dần dần trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được ưa chuộng. Chính sức mua của tiền tệ đã quyết định điều này. Do vậy muốn tiền thực hiện tốt chức năng phương tiện trao đổi đòi hỏi hệ thống tiền tệ của một quốc gia phải có sức mua ổn định, số lượng tiền tệ phải đủ liều lượng đáp ứng nhu cầu trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế, hệ thống tiền tệ phải có đủ các loại tiền, đáp ứng kịp thời, nhanh chóng nhu cầu giao dịch của dân chúng. 2.3.Chức năng phương tiện thanh toán Quá trình lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa-tìền tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán. Như vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa, mà là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa. Tiền tệ khi thực hiện chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau. Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền phải là tiền mặt – vận động từ người mua chịu hay đi vay sang người bán chịu hay cho vay; tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ. 2.4.Chức năng phương tiện cất trữ Tiền tệ chấp hành chức năng phương tiện tích lũy khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai. Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, hình thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và ít sinh lời. Khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện tích lũy đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua. Chính vì thế bản thân đồng tiền phải có giá trị tức là tiền vàng. 2.5.Chức năng tiền tệ thế giới Tiền tệ thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy ở phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước họ. Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất để cho một vật được sử dụng làm tiền tệ thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy, tiền tệ thế giới là chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm của dân chúng. Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam. 1. phải dựa trên các chức năng đã trình bày, 2. nêu thực trạng của Vn hiện nay 3. qua đó nêu giải pháp hiệu quả Trước dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi kinh tế thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải như lạm phát, nhập siêu ở mức cao, tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế, một số bộ phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối .) diễn biến còn phức tạp . , NHNN xác định mục tiêu định hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và các biện pháp điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính – tiền tệ. NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và linh hoạt để ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.
Mặc dù diễn biến thị trường ngoại hối là ổn định nhưng để tăng cường tính chủ động trong công tác điều hành chính sách tỷ giá trong điều kiện nhập siêu còn lớn, lạm phát gia tăng, vốn FDI có xu hướng giảm, NHNN phải ban hành những chính sách mới với kỳ vọng là sẽ hỗ trợ tốt cho công tác điều hành CSTT để kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô theo chủ trương của Chính phủ, tiếp tục duy trì được sự ổn định cho tỷ giá, tăng cường dự trữ ngoại hối, giảm mức độ đô-la hóa. Ba là, Quyết tâm thực hiện hiệu quả công cụ hạn mức tín dụng, hạn chế cung tiền thông qua kênh tín dụng, kết hợp hài hòa với công cụ lãi suất nhằm thực hiện giảm tổng cầu – Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng – Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ mục tiêu tập trung vốn vay cho phát triển sản xuất kinh doanh và nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Đồng thời để hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ quá nóng. Những mối lo về việc tạo lập được một mặt bằng lãi suất phù hợp (không quá cao, đảm bảo cho các doanh nghiệp tiếp cận được vốn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh), đảm bảo tính thanh khoản hệ thống, duy trì sự ổn định bền vững của thị trường ngoại hối vẫn còn là những thách thức của NHNN. Các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần nhận thức rõ trách nhiệm và chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp, đất nước và tập trung thực hiện một số giải pháp sau: – Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng dưới 20% ở mọi thời điểm; giảm dần tốc độ và tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đánh giá lại các khoản cấp tín dụng đối với khách hàng; – Chấp hành nghiêm quy định về lãi suất huy động tối đa bằng đồng Việt Nam; – Xem xét, đánh giá lại rủi ro, giảm dần quy mô hoạt động trên thị trường 2 ở mức hợp lý nhằm đảm bảo phù hợp với quy mô của TCTD trên thị trường 1 và khả năng quản trị rủi ro của đơn vị; – Thực hiện các giải pháp tiết kiệm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, tránh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Các đơn vị chức năng thuộc NHNN tập trung thực hiện các giải pháp sau: – Tiếp tục điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng; sử dụng linh hoạt các loại lãi suất thuộc công cụ điều hành của NHNN để điều tiết và tác động ổn định thị trường tiền tệ; – Tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường ngoại tệ, vàng, đặc biệt là những tháng cuối năm để có giải pháp điều hành thích hợp; thực hiện các biện pháp để tăng dự trữ ngoại tệ; – Tăng cường thanh tra, kiểm tra tính tuân thủ, chấp hành kỷ cương, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của các TCTD; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn, quy định về trần lãi suất huy động và các quy định khác; phối hợp với các cơ quan truyền thông để thông tin hành vi vi phạm và kết quả xử lý đối với TCTD; đảm bảo an toàn hệ thống tránh rủi ro và giảm nợ xấu, ổn định và lành mạnh hóa thị trường tiền tệ, trước hết là thị trường liên ngân hàng, kể cả nội ngoại tệ, thị trường vàng – Xây dựng đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để nâng cao chất lượng, hiệu quả và an toàn hệ thống; Triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo Đề án được Chính phủ phê duyệt với nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát, từng bước nâng cao tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Kiên quyết xử lý dứt điểm những ngân hàng yếu kém, tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả phát triển. Nghiên cứu, sớm ban hành một số văn bản hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng như: vay vốn giữa các TCTD, đầu tư tài chính, trong đó có hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác, nhận ủy thác đầu tư. Bên cạnh đó, Ngoài ra sẽ không ngừng nâng cao chất lượng thống kê, dự báo phục vụ cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, làm tốt công tác thông tin truyền thông, đưa thông tin đầy đủ, kịp thời về các giải pháp điều hành và hoạt động ngân hàng
Nêu Và Phân Tích Các Cách Thức Tổ Chức Của Một Nền Kinh Tế.so Sánh Và Phân Tích Vai Trò Của Thị Trường Và Chính Phủ Trong Việc Thực Hiện Các Chức Năng Cơ Bản Của Một Nền Kinh Tế
I.
Các cách thức tổ chức nền kinh tế
Nền kinh tế
Nền kinh tế thị
Nền kinh tế
truyền
hành
trường tự
hỗn
thống
chính –
do
hợp
Khái – Một hệ thống
– Trong nền kinh tế
kinhtếtru – Là nền kinh tế
– Là nền kinh tế
yềnthống mà Chính phủ đề
tự do, các
kết hợp cả yếu
làmột
ra mọi quyết định
đơn vị cá
tố thị trường tự
nền kinh
về sản xuất và
biệt được
do lẫn yếu tố
tế được
tiêu dùng, tư nhân
tự do tác
vai trò của
xây
không có vai trò
động lẫn
chính phủ. Hầu
dựng
gì. Cơ quan quản
nhau trên
hết các quốc
trên hình lý nhà nước sẽ
thị
gia hiện nay
thứcnôn
quyết định sẽ sản
trường.
đều sử dụng
g nghiệp
xuất cái gì, sản
Các đơn
cách thức này,
vàtrao
xuất như thế nào
vị kinh tế
khác nhau chỉ ở
đổitrựcti
và sản xuất cho
có thể
mức độ thể
ếpvới
ai. Sau đó các
mua sản
hiện vai trò của
các
hướng dẫn cụ thể
phẩm từ
hai yếu tố kể
thành
sẽ được phổ biến
đơn vị
trên
viêntron
tới các hộ sản
kinh tế
– Ở trường phái
g
xuất gia đình, các
này hoặc
kinh tế chính
cộngđồn
doanh nghiệp.
bán sản
hiện đại,
gvà hàng
phẩm cho
Samuelson đã
xóm,
đơn vị
cho rằng, “điều
kiểu tự
kinh tế
hành một nền
cung tự
khác.
kinh tế không
cấp.
Trong
có chính phủ
Vídụnhữ
một thị
hoặc thị trường
ng
trường,
thì cũng như vỗ
ngườiInu
các giao
tay bằng một
ithoặcnh
dịch có
bàn tay”. Để
ững
thể thông
đối phó với
ngườitrồ
qua trao
những khuyết
ng chèở
đổi bằng
tật của thị
Dựa vào phong
Tận dụng được
Trong nền kinh tế
tục tập
tối đa
thị
Trong một nền
quán nên
các
trường,
kinh tế hỗn
được các
nguồn
nếu lượng hợp, khu vực
thành
lực kinh
cầu hàng
nhà nước và
viên
tế khi
hóa cao
khu vực tư
trong
các
hơn lượng nhân tương tác
nền kinh
nguồn
cung, thì
với nhau trong
tế tự giác
lực khan
giá cả
việc giải quyết
chấp
hiếm.
hàng hóa
các vấn đề cơ
hành,
Bên
sẽ tăng
bản của nền
làm theo.
cạnh đó
lên, mức
kinh tế. Chính
Mô hình
là có sự
lợi nhuận
phủ kiểm soát
đơn
chỉ đạo
cũng tăng
một phần đáng
giản, dễ
của
khuyến
kể của sản
quản lí
chính
khích
lượng thông
phủ, có
người sản
qua việc đánh
kế hoạch
xuất tăng
thuế, thanh
về sản
lượng
toán chuyển
xuất và
cung.
giao cung cấp
tiêu
Người sản các hàng hóa
dùng –
xuất nào
và dịch vụ như
các cơ
có cơ chế
lực lượng vũ
quan
sản xuất
trang, cảnh sát.
chính
hiệu quả
Chính phủ
phủ lập
hơn, thì
cũng điều tiết
kế hoạch
cũng có tỷ mức độ theo
về việc
suất lợi
sản xuất
nhuận cao nhân. Ngoài ra,
cái gì
hơn cho
Chính phủ
sẩn xuất
phép tăng
cũng có thể
đuổi lợi ích cá
Khó có thể phát
Rất khó tồn tại
Các vấn đề ô
Do kết hợp hai
triển và
một nền
nhiễm môi trường
yếu tố
tăng
kinh tế
mà doanh nghiệp
thị
trưởng
mệnh
không phải trả giá
trường
kinh tế,
lệnh
cho sự hủy hoại
và
dựa quá
hoàn
đó, tình trạng độc
chính
nhiều
chỉnh mà quyền phá hoại cơ
phủ
vào thiên
trong đó
nên
nhiên
tất cả các tranh. Cơ chế phân
hạn
nên bấp
quyết
bổ nguồn lực trong
chế
bênh
định về
nền kinh tế thị
của
phân bổ
trường có thể dẫn
cách
nguồn
tới bất bình đẳng.
thức
lực đều
Chưa kể vấn đề
tổ
được
thông tin không
chức
chế tự do cạnh
tiến hành hoàn hảo có thể
kinh tế
theo
dẫn tới việc phân
này là
phương
bổ nguồn lực
rất ít.
pháp
không hiệu quả.
Chủ
này. Tất
Do một số nguyên
yếu
nhiên
nhân, giá cả có thể
nhược
việc xây
không linh hoạt
điểm
dựng
trong các khoảng
nằm ở
một kế
thời gian ngắn hạn
quá
hoạch
khiến cho việc điều
trình
như vậy,
chỉnh cung cầu
triển
trong đó
không suôn sẻ, dẫn
khai
không
tới khoảng cách
và
chỉ xác
giữa tổng cung và
thực
định
tổng cầu. Đây là
hiện
chính
nguyên nhân của
trong
So sánh và phân tích vai trò của thị trường và chính phủ trong thực hiện chức năng cơ bảncủa một nền kinh tế
Ưu điểm
Thị trường– Thị trường là nơi kết nối
Chính phủ– Kích thích sự phát triển
giữa các chủ thể trong nền
của thị trường thông qua
kinh tế, tạo ra môi trường
việc ban hành các chính
thuận lợi cho sản xuất hàng
sách công phù hợp với quy
hóa phát triển cũng như giúp
luật kinh tế khách quan,
phân bố nguồn lực hiệu quả,
tạo hành lang pháp lí cho
giải quyết 3 câu hỏi mà kinh tế sự phát triển kinh tế theohọc đặt ra: sản xuất cái gì?
hướng tự do cạnh tranh,
Cho ai? Như thế nào?
xây dựng cơ sở hạ tầng,
– Thị trường tác động lên các
phát triển giáo dục nền
chức năng cơ bản của nền
tảng, đảm bảo an ninh trật
kinh tế thông qua hệ thống các tự xã hội cho các hoạtquy luật kinh tế khách quan,độc lập với suy nghĩ chủ quancủa con người do đó vừa đápứng được nhu cầu xã hội, vừatránh con người sa vào lợi íchcá nhân– Nhờ đặc trưng cạnh tranh màthị trường được coi là độnglực phát triển của nền kinh tếnói riêng và cả xã hội nói
động kinh tế diễn ra– Giám sát sự vận hành củacác quy luật kinh tế thịtrường. Chính phủ lànhững người trực tiếpthẩm địch, đánh giá vàhoạch định xem quy luậtkinh tế nào phù hợp với xãhội nào để áp dụng phùhợp
chung– Sửa chữa các thất bại củathị trường như phân bố củacải xã hội đồng đều, côngbằng hơn, giảm thiểu ô
nhiễm, vực dậy nền kinh tếtrong khủng hoảng bằngchính sách tài khóa, tiềnNhược điểm
– Thị trường được coi là
tệ, thuế…– Công cụ tác động của
xương sống của nền kinh tế
chính phủ tới các chức
nhưng nếu để nó vận hành đơn năng chính của nền kinh tếđộc thì dễ dẫn đến các hệ quả
đó chính là chính sách
gọi là thất bại thị trường như ô công và pháp luật. Vì vậynhiễm, khủng hoảng, bất bình
khi khả năng của chính
đẳng, ảnh hưởng lớn tới toàn
phủ hạn chế (do chỉ là con
xã hội.
người), các chính sách đi
– Các quy luật kinh tế được
ngược lại với các quy luật
đưa ra trong lịch sử luôn có sự kinh tế sẽ kìm hãm sự phátmâu thuẫn, nếu không được
triển kinh tế nói chung,
thẩm định thì khó áp dụng
thậm chí gây tác hại ngược
trong thực tiễn.
lại, tạo sự bất ổn.
-Yếu tố cạnh tranh của thịtrường nếu không được giámsát có thể dẫn đến gian lận,thâm hụt thương mại, ảnhhưởng tới quyền lợi trực tiếpcủa người tiêu dùng.
– Khi chính phủ can thiệpquá sâu vào nền kinh tế, sẽgián tiếp làm hạn chế quátrình vận động của thịtrường, yếu tố cạnh tranhbị giảm sút. Đồng thời,bản thân chính phủ cũng làtập hợp các cá nhân nênkhông tránh được hànhđộng vì lợi ích cá nhântheo lí thuyết hành vi, dễdẫn đến hiện tượng thamnhũng, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới nền kinhtế.Kết luận: Chính phủ và thị trường đều có những mặt mạnh, mặt yếu trongviệc thực hiện chức năng cơ bản của nền kinh tế. Vận dụng các yếu tổ nàycùng một lúc thích hợp sẽ phát huy được tối đa năng lực thực chất của mộtnền kinh tế, đưa tới sự phát triển toàn diện.III.
Liên hệ thực tiễn với Việt Nam
Cách thức tổ chức của nền kinh tế:Nền kinh tế Việt Nam lấy năm 1986 làm mốc để nghiên cứu thì có thể chia làm 2giai đoạn.Giai đoạn trước 1986, trong và sau cuộc chiến tranh chống Mĩ, cách thứctổ chức của nền kinh tế là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (hành chính-mệnhlệnh), đi lên từ nền kinh tế truyền thống tự cung tự cấp lấy nông nghiệp làm chủđạo.Cách thức tổ chức này chỉ phù hợp vào thời kì chiến tranh cần thiết quốc hữuhóa nền kinh tế, nhưng đến giai đoạn hòa bình thì bộc lộ nhiều thiếu sót bởi cáchthức tổ chức quan liêu bao cấp.Sau 1986, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, cụ thể là kinh tế thị trườngnhưng định hướng xã hội chủ nghĩa, tự do cạnh tranh và doanh nghiệp nhà nướcđóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Việc chuyển sang cách thức tổ chức mớinày đem lại nhiều thuận lợi và kết quả trông thấy cho sự phát triển của đất nước,song cũng vạch ra rất nhiều thử thách mới với nhà nước, chính phủ.Vai trò của thị trường (công cụ tác động là các quy luật kinh tế)– Với những chức năng đã đề cập ở phần trên, soi vào thực tiễn Việt Nam tathấy rất đúng đắn. Minh chứng rõ nhất về vai trò của thị trường đó là vàothời kì những năm 1986. Trước 1986, Việt Nam thi hành chính sách kinh tếkế hoạch hóa tập trung, vai trò của thị trường gần như không có mà tất cả donhà nước điều hành. Thế nhưng sau 1986, đất nước mở cửa, thị trường với líthuyết bàn tay vô hình của nó đã thực sự phát huy rất nhiều tác dụng: tăngtrưởng kinh tế, phát triển xã hội, tăng phúc lợi, mức sống của nhân dân, khảnăng sản xuất và cạnh tranh của doanh nghiệp tăng.
– Chứng minh bằng các bảng số liệu sau: (đính kèm file excel)Vai trò của chính phủ (công cụ tác động là hệ thống pháp luật, chính sáchcông)– Lấy mốc là năm 1986, ta lại thấy trước 1986, nhược điểm của chính phủ rấtrõ ràng: can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến trì trệ, kém phát triển.Nhưng kể từ khi đổi mới, tiến hành mở cửa, những chính sách đưa ra đã tạođược cơ hội phát triển cho nền kinh tế phát triển. Đây là sự kết hợp tuyệt vờicủa “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình”– Trong nền kinh tế Việt Nam, sự định hướng của chính phủ thể hiện rất rõ:nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là có 3 hình thứcsở hữu: nhà nước, tập thể, tư nhân trong đó nhà nước chiếm chủ đạo.– Chính phủ tạo mọi điều kiện cho sự phát triển hợp lí của nền kinh tế thịtrường: hệ thống hành lang pháp lí, các chính sách tài khóa, tiền tệ, tàichính… Nhà nước cũng gia nhập thêm các tổ chức kinh tế lớn trên thế giớinhằm mở rộng thị trường, để phát huy tốt nhất khả năng của thị trường nhưASEAN, AFTA, WTO,… Chính phủ cũng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cáckhu công nghiệp tập trung, đảm bảo an ninh xã hội…– Chính phủ duy trì sự ổn định và phát triển lâu dài. Điều này thị trườngkhông làm được mà cụ thể biểu hiện chính là nếu để thị trường tự vận hành,thì khủng hoảng sẽ khiến cho tình trạng xã hội trở nên bất ổn. Vì thế chínhphủ bằng hệ thống pháp luật, chính sách thuế, tài khóa… đảm bảo cho sựphát triển bền vững trong thời gian dài, lái nền kinh tế đi theo đinh hướngXHCN– Chính phủ cũng đảm bảo cho sự phân bố nguồn lực trong xã hội công bằnghơn, giảm phần nào sự phân hóa giàu nghèo do bàn tay vô hình gây ra: điềuchỉnh mức lương tối thiểu, thuế thu nhập cá nhân,…Với một trong nhữngthất bại thị trường gây ra như là ô nhiễm môi trường, chính phủ đóng cũngđóng vai trò là người phân xử. VD: vụ án VEDAN năm 2008–
Chính phủ phát triển giáo dục, làm nền tảng cho sau này
nước; cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián tiếp cho 2,5triệu người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ kỹ thuật. Năm2007, nguồn vốn ODA từ các nước, các tổ chức tài chính quốc tế cấp cho ViệtNam đạt hơn 40 tỉ USD, trong đó, 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Năm 2008, dùkinh tế thế giới suy thoái, nhưng nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lại tăngkỷ lục: vốn đăng ký 64 tỉ USD, trong đó các dự án mới chiếm 60,2 tỉ USD.Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện đáng kể.Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD;năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000USD. Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)…Nhà nước đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc tổ chức thực hiện cóhiệu quả các giải pháp đó, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạmphát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%, tháng 10giảm 0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn định:thu chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cảnăm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kếhoạch đề ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm 2007.Những thành tựu này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môitrường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Tiểu Luận Môn Kinh Tế Chính Trị Phân Tích Chức Năng Của Tiền Tệ Và Lạm Phát
Đơn vị đánh giá 10Phương tiện dự trữ giá trị 11Ý nghĩa nghiên cứu 13Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế 14Mở rộng phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa 14Biểu hiện trị giá quan hệ xã hội 14Phục vụ mục đích của người sở hữu 14Lạm phát 15Khái niệm và các chỉ số 15Nguyên nhân 16Tác động của lạm phát 17Tác động tích cực 17Tác động tiêu cực 17Các biện pháp ổn định thị trường 19Ảnh hưởng của lạm phát tại Việt Nam 21Nhóm 3 2Nguồn gốc và bản chất tiền tệI. Nguồn gốc xuất hiện:Theo Mác, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và các hình thái giátrị. Quá trình phát triển của các hình thái giá trị để đi đến hình thái giá trị diễn ra như sau:− Hình thái trao đổi đơn giản hay ngẫu nhiên: 1 tấm bò = 2 cái rìuHình thái giá trị tương đối vật ngang giá chungGiá trị của bò được biểu hiện ở rìu, còn rìu là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trịcủa bò. Hàng hoá (bò) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (rìu) thì gọi là hìnhthái giá trị tương đối. Còn hàng hoá rìu mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoákhác (bò) gọi là hình thái vật ngang giá chung.− Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất– bộ lạc du mục tách rời khỏi toàn bộ lạc đòi hỏi có sự trao đổi bằng nhiều hàng hoá khác nhưngvẫn trực tiếp. Lúc này giá trị của vật không chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vậtmà còn biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc / 1 cái rìu/1 m vải / 0,1 chỉ vàng (chưa cố định)− Hình thái giá trị chung khi sự phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rờikhỏi nông nghiệp Sản xuất hàng hóa phát triển thì hình thức trao đổi trực tiếp bộc lộ nhữngnhược điểm của nó , đòi hỏi phải có một loại hàng hoá đặc biệt giữ vai trò vật ngang giá chungcủa quá trình trao đổi Ví dụ: 10 kg thóc 2 con gà = 1 m vải (vật ngang giá nhưng chưa cố định) 0,1 chỉ vàng − Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá, đó là kim loại
Bạn đang xem bài viết Phân Tích Chức Năng Của Tiền Tệ. Trong Quá Trình Tổ Chức Và Quản Lý Nền Kinh Tế Ở Vn, Các Chức Năng Đó Đã Được Nhận Thức Và Vận Dụng Như Thế Nào ? trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!