Xem 16,434
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Chức Năng Của Tiền Tệ. Trong Quá Trình Tổ Chức Và Quản Lý Nền Kinh Tế Ở Vn, Các Chức Năng Đó Đã Được Nhận Thức Và Vận Dụng Như Thế Nào ? mới nhất ngày 22/05/2022 trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến thời điểm hiện tại, bài viết này đã đạt được 16,434 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
Câu 1: Phân tích chức năng của tiền tệ. Trong quá trình tổ chức và quản lý nền
kinh tế ở VN, các chức năng đó đã được nhận thức và vận dụng như thế nào ?
1. Các chức năng của tiền tệ:
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay thì tiền tệ có 4 chức năng cơ bản:
a) Chức năng đo lường giá trị:
Trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, mọi hàng hóa đều được đổi ra tiền tệ, cho
nên để thuận tiện cho việc tính toán hay so sánh giá trị các hàng hóa với nhau người ta
quy giá trị của các hàng hóa ra tiền tệ, tức là tính xem một đơn vị hàng hóa đổi được
bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Khi đó tiền tệ đã trở thành phương tiện để biểu hiện, đo
lường giá trị của các hàng hóa đem ra trao đổi. Biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa gọi là giá cả hàng hóa.
Để chấp hành được chức năng thước đo giá trị, tiền tệ bản thân nó phải có giá
trị. Cũng giống như khi dùng quả cân để đo trọng lượng một vật thì bản thân quả cân
đó phải có trọng lượng. Như đã biết giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm
sức mua tiền tệ tức là khả năng đổi được nhiều hay ít hàng hóa khác trong trao đổi.
Khi tiền tệ còn tồn tại dưới dạng hàng hóa (tiền có đầy đủ giá trị) thì sức mua của tiền
phụ thuộc vào giá trị trao đổi của hàng hóa dùng làm tiền tệ với các hàng hóa khác.
Đến lượt giá trị trao đổi của hàng hóa tiền tệ lại phụ thuộc vào cung cầu hàng hóa đó
trên thị trường với tư cách là một hàng hóa. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiền tệ
dưới dạng dấu hiệu giá trị (tiền giấy, tiền tín dụng,…) thì giá trị của tiền tệ không còn
được đảm bảo bằng giá trị của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so
với giá trị mà nó đại diện) mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị trường,
mức độ lạm phát, vào tình trạng hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế và cả niềm
tin của người sử dụng vào đồng tiền đó.
Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hóa, cần có một đơn vị tiền tệ
chuẩn. Đơn vị tiền tệ lúc đầu do dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do
chính quyền lựa chọn và quy định trong pháp luật từng nước. Ví dụ đơn vị tiền tệ
chuẩn ở Việt Nam là 1VND, ở Mỹ là 1USD,… Người ta cũng quy định cả giá trị của
đơn vị tiền tệ chuẩn đó. Giá trị của các đơn vị tiền tệ chuẩn được gọi là tiêu chuẩn giá
cả. Khi tiền vàng đúc hoặc tiền giấy có khả năng đổi ra vàng còn được lưu thông, hàm
lượng vàng chứa trong 1 đơn vị tiền tệ chuẩn đại diện cho tiêu chuẩn giá cả. Ví dụ:
hàm lượng vàng của Bảng Anh năm 1870 là 7,32238 gam vàng nguyên chất, hàm
lượng vàng của đô la Mỹ năm 1939 là 0,888671 gam. Ngày nay, khi tiền giấy không
còn được đổi ra vàng nữa thì tiêu chuẩn giá cả phụ thuộc vào sức mua của đơn vị tiền
tệ chuẩn đối với hàng hóa.
Ngày nay, một đồng tiền muốn được sử dụng rộng rãi trong cả nước làm đơn
vị tính toán để đo lường giá trị hàng hóa phải được nhà nước chính thức định nghĩa,
theo những tiêu chuẩn nhất định. Nói cách khác đồng tiền đó phải được pháp luật quy
định và bảo vệ. Nhưng đây chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Điều kiện
đủ là phải được dân chúng chấp nhận sử dụng. Song muốn được dân chúng chấp
nhận, đơn vị tính toán đó phải có một giá trị ổn định lâu dài. Trong lịch sử tiền tệ của
các nước, không thiếu những trường hợp dân chúng lại sử dụng một đơn vị đo lường
giá trị khác với đơn vị đo lường giá trị do nhà nước quy định. Chẳng hạn, thời kỳ nội
chiến ở Mỹ, chính phủ phát hành tờ dollar xanh là tiền tệ chính thức thay thế cho
đồng dollar vàng nhưng các nhà doanh nghiệp vẫn giữ dollar vàng làm đơn vị tính
toán. Hay ở trong nước trước đây, mặc dù giấy bạc ngân hàng nhà nước Việt Nam là
đồng tiền chính thức nhưng đại bộ phận dân chúng vẫn dùng vàng hay dollar Mỹ làm
đơn vị tính toán giá trị khi mua bán các hàng hóa có giá trị lớn như nhà cửa, hàng vi
tính.
Việc đưa tiền tệ vào để đo giá trị của hàng hóa làm cho việc tính toán giá hàng
hóa trong trao đổi trở nên đơn giản hơn nhiều so với khi chưa có tiền. Để thấy rõ được
điều này, hãy thử hình dung một nền kinh tế không dùng tiền tệ: Nếu nền kinh tế này
chỉ có 3 mặt hàng cần trao đổi là gạo, vải và các buổi chiều phim, thì chúng ta chỉ cần
biết 3 giá để trao đổi thứ này lấy thứ khác: giá của gạo tính bằng vải, giá của gạo tính
bằng buổi chiếu phim và giá của buổi chiếu phim tính bằng vải. Song nếu có 10 mặt
hàng cần trao đổi thay vì chỉ có 3 như trên thì chúng ta sẽ cần biết 45 giá để trao đổi
một thứ hàng này với 1 thứ hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta cần 4950 giá và cứ
như vậy, càng nhiều mặt hàng thì càng nhiều giá. Sẽ thật khó khăn cho bất kỳ ai khi ra
chợ để quyết định gà hay cá rẻ hơn trong khi 1kg gà được tính bằng 0,7kg chả, 1kg cá
chép được định bằng 8kg đỗ. Để chắc chắn rằng người này có thể so sánh giá của tất
cả các mặt hàng trong chợ (giả sử có 50 mặt hàng), bảng giá của mỗi mặt hàng sẽ phải
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang xem bài viết Phân Tích Chức Năng Của Tiền Tệ. Trong Quá Trình Tổ Chức Và Quản Lý Nền Kinh Tế Ở Vn, Các Chức Năng Đó Đã Được Nhận Thức Và Vận Dụng Như Thế Nào ? trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!