Xem Nhiều 3/2023 #️ Phát Hiện Biện Pháp Tu Từ Trong Đoạn Dữ Dội Và Dịu Êm… # Top 5 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Phát Hiện Biện Pháp Tu Từ Trong Đoạn Dữ Dội Và Dịu Êm… # Top 5 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Hiện Biện Pháp Tu Từ Trong Đoạn Dữ Dội Và Dịu Êm… mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

– Xuân Quỳnh sinh năm 1942, mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

– Quê quán: La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội)

– Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội.

– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.

– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

– Năm 2007, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

– Tác phẩm chính: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Hoa cỏ may, Bầu trời trong quả trứng, truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn

– Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.

II. Đôi nét về tác phẩm Sóng 1. Hoàn cảnh ra đời

– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh

– Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào

2. Bố cục (4 phần)

– Phần 1 (2 khổ thơ đầu): Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng

– Phần 2 (2 khổ tiếp theo): Suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu

– Phần 3 (3 khổ thơ tiếp theo): Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái trong tình yêu

– Phần 4 (còn lại): Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt

3. Giá trị nội dung

Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.4. Giá trị nghệ thuật

– Hình tượng sóng đôi giúp nhà thơ diễn tả những cảm xúc khó nói trong tình yêu

– Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt phù hợp trong việc diễn tả các cung bậc, sắc thái cảm xúc khác nhau

– Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế

III. Dàn ý phân tích Sóng I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh (tiểu sử, phong cách thơ…)

– Giới thiệu khát quát về bài thơ “Sóng” (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính….)

II. Thân bài 1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng

– Thủ pháp đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ

→ Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữ khi yêu

– Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường

→ Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa

– Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa … Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ

2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu

– Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu.

– Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải.

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu

– Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu

+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”

→ Nỗi nhớ da diết, sâu đậm

+ Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”

→ Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả

+ Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình

– Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:

+ “Em”: phương Bắc phương Nam – “Hướng về anh một phương”

→ Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối

+ “sóng” : ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ”

→ quy luật tất yếu.

+ Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc

⇒ Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu

4. Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt

– Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế … Mây vẫn bay về xa”

– “Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

– Khát khao của người phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với một tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:

+ Nội dung: bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người

+ Nghệ thuật: hình ảnh sóng đôi sóng và em, thể thơ năm chữ, ngôn ngữ dung dị, trong sáng…

– Cảm nhận về bài thơ: bài thơ cho chúng ta thấy rõ những cung bậc cảm xúc sâu lắng, thầm kín trong tình yêu. Đó là tiếng lòng, là nhịp chảy của những trái tim đang khao khát, rạo rực yêu thương.

Biện Pháp Tu Từ: Các Biện Pháp Tu Từ Trong Văn Học

Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ là sử dụng biện pháp ẩn dụ, so sánh, nói quá, chơi chữ,…Trong một câu, một đoạn văn hay một bài thơ để tạo ra một hiệu quả nhất định. Làm cho câu văn trở nên hay hơn sinh động hơn và ấn tượng, biểu cảm, hấp dẫn hơn với người đọc người nghe.

1. Biện pháp tu từ so sánh

Biện pháp tu từ so sánh là sử dụng biện pháp so sánh, đối chiếu sự vật này với sự vật kia có nét tương đồng với nhau.

Cấu trúc của dạng so sánh mà chúng ta thường gặp: …là…; …như…; chúng tôi nhiêu……bấy nhiêu.

Biện pháp tu từ so sánh có tác dụng làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu văn, lời nói. Nếu một bài văn, câu văn có chứa biện pháp tu từ bạn sẽ thấy nó sinh động, hấp dẫn bạn đọc hơn.

Một số ví dụ biện pháp tu từ: Cấu trúc A như B:

Ví dụ 1: “Trẻ em như búp trên cành” – Trích câu nói của Bác Hồ

Ví dụ 2: “Công cha như núi Thái Sơn.

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” – Trích ca dao

Ví dụ 3: Trích tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

Cấu trúc A là B:

Ví dụ 1: Nhà là nơi bình yên nhất, hay nhà là nơi để về

Ví dụ 2: ” Quê hương là chùm khế ngọt” – Quê Hương ( Trung Đỗ Quân)

Cấu trúc bao nhiêu..Bấy nhiêu:

Ví dụ 1:

“Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu” – Trích Ca dao

Ví dụ 2: “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” – Trích Ca dao

Ví dụ 3:

“Ngó lên nuộc lạt mái nhà Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” – Trích Ca dao

Trong pháp tu từ so sánh sẽ có các kiểu so sánh: Ngang bằng, không ngang bằng; theo đối tượng: so sánh theo đối tượng cùng loại, So sánh khác loại,; so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại.

Ví dụ: Trích Sáng tháng năm – Tố Hữu

“Người là cha, là bác, là anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” – Sử dụng so sánh ngang bằng.

” Cô giáo em hiền như cô Tấm”- So sánh đối tượng cùng loại,…

2. Biện pháp tu từ nhân hóa

Biện pháp tu từ nhân hóa là biện pháp sử dụng từ ngữ để chỉ hoạt động, suy nghĩ, tên gọi, tính cách,..vv. vốn chỉ để miêu ta con người lại sử dụng để miêu tả đồ vật, con vật, sự vật, cây cối làm cho câu văn, lời nói, bài thơ,..trở nên sinh động, hấp dẫn, có hồn và thu hút bạn đọc hơn.

Cách nhận biết biện pháp tu từ nhân hóa là: Gọi sự vật, hiện tượng, cây cối , con vật,..bằng tên người như ông mặt trời, chị ong,..

Một số ví dụ về biện pháp tu từ nhân hóa:

Dùng vốn từ để chỉ sự vật: Bác cối xay gió, Chị hoa mặt trời, chị gió, chị ong nâu nâu, Bác xe điện,..

Sử dụng các hoạt đống, tính chất của con người để chỉ sự vật:

Ví dụ:

” Heo hút cồn mây súng ngửi trời”- Trích bài thơ “Tây tiến” – Quang Dũng’

“Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ” – Sang Thu -Hữu Thỉnh

“Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” – Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm

Vốn dĩ con người chỉ nói chuyện được với con người, nhưng thông qua biện pháp nhân hóa con người nói chuyện với con vật, đồ vật,..

Ví dụ:

“Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta” – Trích Ca dao

3. Biện pháp tu từ ẩn dụ

Biện pháp tu từ ẩn dụ là biện pháp dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác dựa trên mỗi quan hệ tương đồng. Sử dụng biện pháp ẩn dụ làm cho bài văn, câu văn, lời nói, bài thơ,..trở nên hấp dẫn, gợi hình gợi cảm hơn cho người đọc.

Có nhiều kiểu ẩn dụ khác nhau: Ẩn dụ hình thức, cách thức , phẩm chất, chuyển đổi cảm giác.

Các kiểu biện pháp và lấy ví dụ:

Ẩn dụ hình thức: Đây là ẩn dụ có sự tương đồng về hình thức

Ví dụ:

” Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”- Truyện Kiều – Nguyễn Du

” Về thăm nhà Bác làng sen Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng” – Về thăm quê Bác

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Truyện Kiều – Nguyễn Du

Ẩn dụ cách thức: Đây là ẩn dụ có sự tương đồng cách thức

Ví dụ:

“Vì lợi ích mười năm trồng cây Vì lợi ích trăm năm trồng người” – Câu nói chủ tịch Hồ Chí Minh

” Về thăm nhà Bác làng sen Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng” – Về thăm quê Bác. Đây là đoạn trích vừa có ẩn dụ hình thức và ẩn dụ cách thức.

” Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

” Không thầy đó mày làm nên”

Ẩn dụ phẩm chất: Đây là ẩn dụ có sự tương đồng phẩm chất

Ví dụ:

“Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” – Câu nói chủ tịch Hồ Chí Minh.

“Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” – Viếng Lăng Bác – Viễn Phương

” Người cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm” – Đêm nay Bác không ngủ – Nguyễn Huệ

“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” – Ca dao

Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác : Đây là ẩn dụ cho người đọc có sự chuyển đổi cảm giá; chuyển từ cảm giác này sang cảm giác khác, cảm nhận bằng giác quan khác.

Vì dụ:

” Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” – Sang Thu – Hữu Thỉnh

” Cát lại vàng giòn Ánh nắng chảy đầy vai” – Những cánh buồm -Hoàng Trung Thông

” Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” – Khương Hữu Dụng

“Ngoài thêm rơi chiếc lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”- Đêm côn Sơn – Trần Đăng Khoa

4. Biện pháp tu từ hoán dụ

Biện pháp tu từ hoán dụ là biện pháp dùng để gọi tên sự vật – hiện tượng này bằng một tên sự vật – hiện tượng khác dựa trên mỗi quan hệ gần gũi, thân thiết để làm cho câu văn, bài thơ, đoạn văn, lời nói trở nên hấp dẫn hơn, tăng sức gợi hình, gợi cảm cho người đọc, người nghe.

Có 4 kiểu biện pháp tu từ hoán dụ mà chúng ta thường gặp: Lấy bộ phận để chỉ toàn thể, lấy vật chứa đựng chỉ vật bị chứa đựng, lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật, lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.

Ví dụ cho 4 kiểu biện pháp tu từ hoán dụ:

Ví dụ lấy bộ phận để chỉ toàn thể:

” Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” – Tục ngữ

“Bàn tay ta làm nên tất cả

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” – Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông

” Một trái tim lớn đã từ giã cuộc đời

Một khối óc lớn đã ngừng sống ” – Xuân Diệu

Ví dụ lấy vật chứa đựng chỉ vật bị chứa đựng:

“Vì sao trái đất nặng ân tình,

Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh” -Tố Hữu

Ví dụ lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật:

” Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” – Việt Bắc – Tố Hữu

” Sen tàn, cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân” – Nguyễn Du

” Áo nâu cùng với áo xanh

Nông thôn cùng với thành thị đứng lên” – Tố Hữu

Ví dụ lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng:

” Một cây làm chẳng nên non

3 cây chụm lại nên hòn núi cao” -Ca dao

” Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về

Tình cờ chú cháu

Gặp nhau hàng bè” – Tố Hữu

5. Biện pháp tu từ nói quá( Phóng đại, cường điệu, khoa trương,..)

Một số ví dụ về biện pháp thu từ nói quá:

” Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm đón chàng sang chơi” – Ca dao

“Độc ác thay, trúc Nam sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi” – Bình ngô đại cáo – Nguyễn Trãi

“Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung Gió lay như sóng biển tung trắng bờ” – Mẹ suốt – Tố Hữu

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”- Việt Bắc – Tố Hữu

6. Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh:

Biện pháp tu từ nói giảm nói tránh là biện pháp sử dụng tu từ dùng trong diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác đau thương,ghê sợ, nặng nề, thô tục, thiếu lịch sự trong một hoàn cảnh nhất định nào đó trong đời sống, trong bài văn, bài thơ.

Một số ví dụ về biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta” – Khóc dương khuê – Nguyễn Khuyến.

Hãy nói ” Anh ấy đã hi sinh anh dũng trên chiến trường” thay vì nói” Anh ấy đã chết trên chiến trường”

“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!”- Bác ơi – Tố Hữu

7. Biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ

Biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ là sử dụng biện pháp nhắc đi nhắc lại nhiều lần 1 cụm từ . Cụm từ này có tác dụng trong việc làm tăng cường điệu, gợi liên tưởng, cảm xúc diễn đạt của người nói, người viết đối với người đọc, người nghe.

Điệp ngữ gồm có nhiều dạng khác nhau: Điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ vòng tròn.

Một số ví dụ về biện pháp tu từ điệp ngữ, điệp từ:

“… Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…” – Việt Bắc – Tố Hữu. Đây là một ví dụ về điệp ngữ ngắt quãng.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu ?

Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” – Truyện kiều – Nguyễn Du. Cũng là 1 ví dụ về điệp ngữ ngắt quãng.

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’ – Trích Chinh phụ ngâm khúc. Sử dụng điệp ngữ vòng

“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” – Điệp ngữ nối tiếp

8. Biện pháp tu từ chơi chữ

Biện pháp tu từ chơi chưa là biện pháp tu từ sử dụng các sắc thái về âm, về nghĩa của từ để tạo cho câu nói, đoạn văn, đoạn thơ trở nên dí dỏm, hấp dẫ và thú vị hơn người đọc, người nghe.

Một số lối chơi chữ mà chúng ta thường gặp: Từ đồng âm, cách điệp âm, lối nói lái, lối nói trại âm, dùng từ trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa.

Một số ví dụ về biện pháp tu từ chơi chữ:

” Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói xem quẻ nói rằng, Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn” – Ca dao

” Không răng đi nữa cũng không răng, Chỉ có thua người một miếng ăn. Miễn được nguyên hàm nhai tóp tép, Không răng đi nữa cũng không răng” – Không răng- Tôn Thất Mỹ

“Em đây là gái năm con, Chồng em rộng lượng, em còn chơi xuân” – Ca dao ( sử dụng lối chơi chữ đồng nghĩa)

” Nắng cực lúa mất mùa, đứng đầu làng xin xỏ, Nở lòng nào chị chẳng cho'” – sử dụng lối chơi chữ nói lái.

9. Biện pháp tu từ liệt kê

Biện pháp tu từ liệt kê là cách sắp xếp các từ, cụm từ cùng loại nối tiếp nhau để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn về tư tưởng, tình cảm trong các đoạn văn, bài thơ, lời nói tạo sự gợi hình, gợi cảm, hấp dẫn cho người đọc, người nghe.

Một số kiểu liệt kê: Liệt kê tăng tiến, liệt kê không tăng tiến, liệt kê theo từng cặp

Một số ví dụ về biện pháp tu từ liệt kê:

“Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng

Em đã sống lại rồi, em đã sống!

Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung

Không giết được em, người con gái anh hùng!” – Người con gái anh hùng – Trần Thị Lý

” Nhà em nuôi rất nhiều con vật: Con mèo, con chó, con trâu, con bò, con lợn, con dê, con gà,..”

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn!” – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu

10. Biện pháp tu từ tương phản

Biện pháp tu từ tương phản là cách cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.

Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu

Ra thế, to gan hơn béo bụng

Anh hùng đâu cứ phải mày râu”.

Nguồn : Nhóm sinh viên trường Cao đẳng Y Dược Sài Gòn năm 2019

Biện Pháp Tu Từ Ngữ Âm Và Biện Pháp Tu Từ Cú Pháp Trong Văn Chính Luận Hồ Chí Minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ THẮM

BIỆN PHÁP TU TỪ NGỮ ÂM VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ CÚ PHÁP TRONG VĂN CHÍNH LUẬN HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ THẮM

BIỆN PHÁP TU TỪ NGỮ ÂM VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ CÚ PHÁP TRONG VĂN CHÍNH LUẬN HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Bùi Minh Toán

HÀ NỘI, 2011

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn ñề tài 1.1. Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn ñề thuộc về từ vựng học, nghiên cứu những vấn ñề về ngữ âm và ngữ pháp có vai trò vô cùng to lớn trong việc nghiên cứu ngôn ngữ học hiện nay. Nghiên cứu về ngữ âm và ngữ pháp góp phần hoàn thiện việc nghiên cứu về hệ thống ngôn ngữ một cách toàn diện, tạo ra diện mạo nhiều chiều với nhiều sắc vẻ của các ñơn vị ngôn ngữ. Ở những phương diện khác nhau, các ñơn vị ngôn ngữ lại hiện lên với những trạng thái sinh ñộng, mới mẻ và chứa ñựng nhiều nội dung thú vị. Trong quá trình nghiên cứu về ngữ âm và ngữ pháp, biện pháp tu từ là một vấn ñề nhận ñược nhiều sự quan tâm. Thông qua việc nghiên cứu các biện pháp tu từ – ñược thể hiện qua vỏ âm thanh và cấu trúc ngữ pháp, chúng ta có thể thấy rõ sự linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ, thấy rõ sự ña dạng trong cách diễn ñạt, cảm nhận rõ vẻ ñẹp của tiếng Việt. Từ ñó, người sử dụng ngôn ngữ có thể vận dụng vào việc phân tích và tạo lập văn bản, tiếp nhận văn bản văn học một cách có hệ thống, toàn vẹn và hoàn chỉnh hơn ở nhiều góc ñộ khác nhau. 1.2. Trong sự nghiệp lớn lao của Hồ Chí Minh – có một di sản ñặc biệt biệt ñể lại cho dân tộc, ñó là sự nghiệp trước tác. Người ñã ñể lại cho chúng ta một sự nghiệp trước tác lớn lao về tầm vóc, phong phú ña dạng về thể loại và ñặc sắc về phong cách sáng tác. [43, 419] Từ những năm 20 của thế kỉ XX, các bài văn chính luận với bút danh Nguyễn Ái Quốc ñăng trên báo Người cùng khổ, Nhân ñạo, Đời sống thợ thuyền ñã tác ñộng và ảnh hưởng lớn ñến quần chúng Pháp và nhân dân những nước thuộc ñịa, kêu gọi thức tỉnh nhân dân nô lệ bị áp bức liên hiệp lại trong mặt trận ñấu tranh chung. “Văn chương Hồ Chí Minh ñã kết hợp ñược sự sâu sắc tự bên trong mối quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện ñại. Mỗi loại hình văn học của người ñều có phong cách riêng, ñộc ñáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững. Hồ Chí Minh là người ñầu tiên sử dụng có hiệu quả

1

cao thể văn chính luận hiện ñại… Văn chính luận của Hồ Chí Minh mang cốt cách, ñặc ñiểm của văn chính luận hiện ñại của giai cấp vô sản”. Vì thế, văn chính luận của Người ñược ñộc giả và giới nghiên cứu quan tâm trên nhiều phương diện khác nhau. 1.3. Nghiên cứu các biện pháp tu từ trên mặt ngữ âm và ngữ pháp trong văn chính luận của Hồ Chí Minh là vấn ñề giúp chúng tôi có thể tiếp cận, tìm hiểu thêm một phương diện mới về phong cách viết văn của Người. Những lí do trên là cơ sở ñể chúng tôi chọn ñề tài “Biện pháp tu từ ngữ âm và biện pháp tu từ cú pháp trong văn chính luận Hồ Chí Minh”. 2. Lịch sử nghiên cứu 2.1. Về biện pháp tu từ Lí thuyết về biện pháp tu từ ñã ñược nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Aristote là một trong các nhà khởi xướng, có công trong việc tạo nên các lời văn hoa mĩ, các thuật hùng biện, hình thành môn “Mĩ từ pháp”. Tu từ học ñã trở thành một bộ môn bắt buộc trong Tam khoa của nhà trường Trung cổ và nhà trường cận ñại ở Châu Âu. Vấn ñề tu từ học ñược tiếp tục phát triển, nâng cao thành hệ thống lí luận ở các tác giả như: Ciceron, Quitilien, Horace, Virgile… Từ thế kỉ XIX, tu từ học – phong cách học ñã trở thành một ngành riêng của ngôn ngữ học. Ở nước ta, tên gọi “Tu từ học” xuất hiện vào thập niên 50 của thế kỉ XX, những công trình nghiên cứu về tu từ học thời kì này có thể kể ñến như: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Việt – Hán văn khảo của Phan Kế Bính, Quốc văn cụ thể của Bùi Kỉ, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Thơ ca Việt Nam – Hình thức và thể loại của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức… Vào khoảng thập niên 60 của thế kỉ XX, tên gọi Phong cách học xuất hiện, Phong cách học chính là Khoa tu từ học ñược hiện ñại hoá có cơ sở lí thuyết nhằm vào ñối tượng cơ bản là các phong cách ngôn ngữ. [37, 238]

2

Cùng với sự ra ñời của lí luận về biện pháp tu từ là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà, Hữu Đạt, Lê Anh Hiền… Có thể kể ñến một số công trình có vai trò nền tảng trong việc trình bày về vấn ñề biện pháp tu từ. Cụ thể: – Tác giả Lê Anh Hiền với cuốn Khái luận tu từ học, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1961. – Tác giả Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Nguyễn Nguyên Trứ, Tu từ học tiếng Việt hiện ñại (sơ thảo), Đại học Sư phạm Việt Bắc, 1975 – Tác giả Cù Đình Tú với cuốn Phong cách học và ñặc ñiểm tu từ tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục, 1983. – Tác giả Hữu Đạt với cuốn Phong cách học tiếng Việt hiện ñại, Nhà xuất bản Đai học quốc gia Hà Nội, 2001. – Tác giả Đinh Trọng Lạc với cuốn Chín mươi chín phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục (tái bản lần thứ bảy), 2003. – Tác giả Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà với cuốn Phong cách học tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục (tái bản lần thứ tám), 2008. Trong những công trình trên, các tác giả ñã ñề cập ñến những vấn ñề cơ bản về lí thuyết biện pháp tu từ như: khái niệm về biện pháp tu từ, ñặc ñiểm tu từ của các loại ñơn vị trong tiếng Việt, các phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt (tu từ từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, ngữ âm của phong cách học)… Đây là những nhận thức lí luận rất cần thiết, có chức năng dẫn ñường cho việc tìm hiểu các vấn ñề về biện pháp tu từ. 2.2. Về văn chính luận Hồ Chí Minh Thơ văn của Hồ Chí Minh luôn là ñối tượng hứng thú của nhiều nhà nghiên cứu. Chính vì vậy, từ trước ñến nay có không ít công trình nghiên cứu về tác phẩm của Người với những tác giả có tên tuổi như: Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phong Lê… Riêng về mặt ngôn ngữ, các tác phẩm văn thơ của Hồ Chí Minh ñã có những công trình khảo cứu về các phương diện sau:

3

– Việc dùng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong văn Hồ Chí Minh. – Phép so sánh trong văn thơ Hồ Chí Minh. – “Tập Kiều” trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh. – Tên các bài báo của Hồ Chí Minh. – Tiếng cười (phong cách hài hước) trong văn Hồ Chí Minh. – Ý kiến của Hồ Chủ Tịch về việc mượn từ gốc Hán. … Có thể kể ra một số công trình, bài viết như sau: Trong bài viết Phương pháp nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh [54, 207], Nguyễn Đăng Mạnh chỉ rõ: “Văn chính luận chủ yếu ñược viết theo tư duy logic. Sức thuyết phục của nó không phải ở chỗ dựng nên những hình tượng, những bức tranh sinh ñộng… mà ở chỗ ñưa ra những lí lẽ ñanh thép, những lập luận chặt chẽ, những luận cứ hùng hồn… Trên cơ sở những ñặc trưng cơ bản của thể loại văn chính luận như thế, nhiều loại văn chính luận ra ñời với những sắc thái khác nhau dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, như tuyên ngôn, lời kêu gọi, báo cáo chính trị, thư từ gửi các ngành các giới, văn bút chiến, văn tiểu phẩm và các thể loại văn báo chí khác…” [54, 217]. Phong Lê với bài viết Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh con người và thơ văn [54, 244] nhận xét: thơ văn Hồ Chí Minh có sự tổng hoà, kết hợp của nhiều âm ñiệu – sự kết hợp ấy làm nên phong cách Hồ Chí Minh. Trong Lời giới thiệu (cho cuốn Văn Hồ Chủ Tịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 1971), Huỳnh Lý nêu lên 4 ñặc ñiểm cơ bản về phong cách văn xuôi Hồ Chí Minh: tư tưởng lớn, hình thức diễn ñạt ngắn gọn, trong sáng, sinh ñộng, ung dung pha chút hóm hỉnh, “viết sâu ngọt, viết có tình”. Nguyễn Thuý Khanh với bài viết Một số ñặc ñiểm trong ngôn ngữ báo chí chính luận của Hồ Chủ Tịch (Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện Ngôn ngữ học, NXB Khoa học Hà Nội, 1980) cho rằng “Người ñã sử dụng lối diễn ñạt quen thuộc của quần chúng, có khả năng tạo ra sức tác ñộng mạnh ñến người ñọc, có khả năng tạo ra sức tác ñộng trong thông tin, báo chí”.

4

Trong bài viết Câu văn của Bác Hồ (Tạp chí ngôn ngữ số 4, 1970), Lê Xuân Thại ñưa ra nhận ñịnh “Trong các bài văn của Bác có nhiều cách biện luận, trong ñó có cách dùng câu hỏi, những câu hỏi loại này của Bác mang ñầy sức mạnh của logic”. Bài viết Bước ñầu tìm hiểu ngôn ngữ của Hồ Chủ Tịch qua Những lời kêu gọi (Tạp chí văn học số 6/1965), Nguyễn Phan Cảnh ñã ñưa ra những nhận ñịnh về phong cách chính luận của Người ở những ñiểm chung nhất. Với bài Tuyên ngôn ñộc lập một nghệ thuật viết văn nghệ thuật mẫu mực, dân tộc và hiện ñại (Tạp chí văn học số 3/1990), Nguyễn Quốc Tuý ñã chú trọng phân tích nghệ thuật viết văn của Hồ Chí Minh: một tác phẩm văn xuôi giàu nhịp ñiệu âm thanh, sử dụng ñiệp ngữ, ñiệp từ rất ñặc sắc, cách sử dụng từ rất chính xác và tinh tế. Tác giả khẳng ñịnh “Tuyên ngôn ñộc lập là áng văn chính luận mẫu mực”. Theo khảo sát, cho ñến nay chưa có công trình nào dành riêng ñể nghiên cứu về vấn ñề biện pháp tu từ ngữ âm và biện pháp tu từ cú pháp trong văn chính luận của Hồ Chí Minh (tuy rải rác trong các sách nghiên cứu và giảng dạy về ngôn ngữ có ñề cập ñến). Vì vậy, luận văn của chúng tôi nghiên cứu ñề tài này với hy vọng hiểu rõ hơn về văn chính luận Hồ Chí Minh từ góc nhìn ngôn ngữ học. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu Luận văn lựa chọn Biện pháp tu từ ngữ âm và biện pháp tu từ cú pháp trong văn chính luận Hồ Chí Minh làm ñối tượng nghiên cứu. – Phạm vi nghiên cứu Do hạn chế về mặt thời gian, chúng tôi giới hạn việc tìm hiểu biện pháp tu từ trong văn chính luận Hồ Chí Minh trong phạm vi ngữ âm và ngữ pháp. 4. Mục ñích, nhiệm vụ của ñề tài – Mục ñích của ñề tài Mục ñích của ñề tài này là tìm hiểu các biện pháp tu từ ngữ âm (nhịp ñiệu, vần, ñối, hài hoà thanh ñiệu…) và biện pháp tu từ cú pháp (những phép tu từ cú

5

pháp: phép lặp, liệt kê, nhấn mạnh thành phần câu, cách dùng câu hỏi tu từ) trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. – Nhiệm vụ của ñề tài Luận văn ñặt ra nhiệm vụ khảo sát các biện pháp tu từ ngữ âm và biện pháp tu từ cú pháp trong các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh, thấy ñược giá trị và hiệu quả biểu ñạt của các phép tu từ; góp phần tìm hiểu phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh trong văn chính luận. Từ ñó, rút ra bài học thực tiễn trong dạy học tác phẩm của Hồ Chí Minh và bài học về sử dụng ngôn ngữ nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ ñặc trưng và yêu cầu của ñề tài, trong quá trình triển khai luận văn, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: – Phương pháp thống kê, phân loại Vận dụng phương pháp này, chúng tôi có thể khảo sát ñể tìm ra và phân loại các biện pháp tu từ ngữ âm và ngữ pháp trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Từ ñó, xác ñịnh hiệu quả sử dụng của các biện pháp tu từ ấy. – Phương pháp phân tích Phương pháp này cho phép chúng tôi ñi sâu vào nhiều khía cạnh của vấn ñề, vừa làm rõ vấn ñề vừa tăng sức thuyết phục với những dẫn chứng và cứ liệu, lập luận cụ thể. – Phương pháp tổng hợp Phương pháp tổng hợp giúp chúng tôi dễ dàng hơn trong việc nâng cao vấn ñề, khái quát phong cách nhà văn. 6. Đóng góp của luận văn – Về lí luận Trên cơ sở các lí thuyết ngôn ngữ, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm lí thuyết về tu từ ngữ âm, tu từ ngữ pháp, về phong cách chính luận bằng những kết quả nghiên cứu cụ thể.

6

– Về thực tiễn Kết quả nghiên cứu luận văn nhằm phục vụ cho việc ñọc, hiểu các tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh. Những kiến giải của luận văn có thể góp phần ñịnh hướng cho người ñọc trong quá trình tiếp cận tác phẩm, ñặc biệt là các tác phẩm trong chương trình phổ thông hiện nay. 7. Cấu trúc của luận văn Chúng tôi triển khai luận văn thành ba phần: phần Mở ñầu, phần Nội dung và phần Kết luận.Tương ứng với những nhiệm vụ ñặt ra, phần Nội dung của luận văn ñược chia thành 3 chương, trình bày các vấn ñề sau: Chương 1: Cơ sở lí thuyết Chương 2: Biện pháp tu từ ngữ âm trong văn chính luận Hồ Chí Minh Chương 3: Biện pháp tu từ cú pháp trong văn chính luận Hồ Chí Minh

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Lí thuyết về biện pháp tu từ Lí luận về tu từ học và biện pháp tu từ xuất hiện từ rất sớm, việc nghiên cứu về vấn ñề này ñã ñạt ñược những thành tựu ñáng kể. Những thành tựu ấy phần nào cho thấy sự phát triển của ngôn ngữ học nói chung và của tu từ học nói riêng – dù nó chưa phản ánh hết ñược những gì vốn rất phong phú và phức tạp của ngôn ngữ trong quá trình sử dụng. Lí thuyết về vấn ñề này ngày càng ñược nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu, nhờ thế nó dần ñược hoàn thiện bởi hệ thống lí luận sâu sắc. Hệ thống lí luận xuất hiện sau mang tính kế thừa hệ thống lí luận trước, ñồng thời nó bổ sung nhiều hơn những phát hiện mới mẻ, phù hợp với thực tiễn ngôn ngữ trong hoạt ñộng hành chức. Ở thời kì ñầu, nói ñến tu từ học người ta thường nhắc ñến những khái niệm như nghệ thuật diễn ñạt, thuyết phục, tranh biện… Thuật ngữ phương thức tu từ hay tu từ pháp dường như ñược sử dụng chung cho cả hai khái niệm phương tiện tu từ và biện pháp tu từ. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu cũng ñã xác ñịnh và phân loại các phương thức tu từ chủ yếu: ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ, tượng trưng, trùng ñiệp,… Đây là những kiến thức mang tính tiền ñề lí luận, ñịnh hướng cho việc nghiên cứu vấn ñề biện pháp tu từ ở những khía cạnh khác nhau. Ở giai ñoạn sau, các nhà ngôn ngữ học thường dựa vào ñặc ñiểm cấu trúc và ñặc ñiểm ngữ nghĩa của các phương thức tu từ ñể phân loại. Chẳng hạn, V.V.Odinsov hệ thống hoá các phương thức và biện pháp tu từ thành hai nhóm: các phép tu từ thay thế (gồm hai tiểu nhóm: các phép tu từ số lượng như ngoa dụ, nói giảm và các phép tu từ chất lượng như ẩn dụ, hoán dụ, mỉa mai) và các phép tu từ kết hợp (gồm các phép ñồng nhất như so sánh, thế ñồng nghĩa; các phép không ñồng nhất như ñồng nghĩa chính xác hoá, chơi chữ, liên ngữ,… hay các phép ñối lập như ñối ngữ, nghịch dụ,…) Ngày nay, nhiều nhà ngôn ngữ dùng phổ biến thuật ngữ Phong cách học thay thế thuật ngữ Tu từ học trước ñây. Tu từ học vẫn ñược sử dụng ñể chỉ phần nghiên

8

cứu các ñặc ñiểm tu từ của các ñơn vị ngôn ngữ, các khái niệm màu sắc tu từ, biện pháp tu từ… Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của Việt Nam cũng có những kiến giải nhất ñịnh về tu từ học và biện pháp tu từ. Trong cuốn Từ ñiển Hán Việt, ông Phan Văn Các giải thích “tu từ là sửa sang lời văn cho hay cho ñẹp”; Tu từ học là “bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu những thuộc tính biểu cảm của các phương tiện ngôn ngữ ñể sử dụng làm cho lời văn hay hơn ñẹp hơn”. Không chỉ dừng lại ở việc ñưa ra những ñịnh nghĩa, hiện nay nhiều nhà ngôn ngữ học cố gắng ñưa ra những tiêu chí ñể phân chia hai bình diện phương tiện tu từ và biện pháp tu từ, bởi hai khái niệm này có sự khác biệt nhau. Cần tách bạch rõ ràng ñể tránh sự lúng túng và khó nắm bắt trong quá trình sử dụng. Phong cách học chú ý ñến sự phân chia biện pháp tu từ và phương tiện tu từ trên hai bình diện hệ thống (ngôn ngữ) và hoạt ñộng (lời nói). Nhóm tác giả của Nhập môn ngôn ngữ học nhấn mạnh “cơ sở của sự xác lập hai bình diện phương tiện tu từ và biện pháp tu từ xuất phát từ sự phân chia ngôn ngữ và lời nói trong ngôn ngữ học” [9, 417]. Các tác giả ñã ñưa ra những tiêu chí chủ yếu ñể phân ñịnh phương tiện tu từ và biện pháp tu từ: – Thành phần thông tin bổ sung của các phương tiện tu từ manh tính tương ñối ổn ñịnh, ñộc lập với ngữ cảnh, là cơ sở cho sự lựa chọn. Thành phần thông tin bổ sung nảy sinh trong các biện pháp tu từ mang bản chất ngữ cảnh. – Màu sắc tu từ của các phương tiện tu từ ñược xác ñịnh chủ yếu dựa trên mối quan hệ ñối ñoạn tính của bản thân các phương tiện trong hệ thống ngôn ngữ. Hiệu quả, giá trị phong cách của biện pháp tu từ ñược xác ñịnh chủ yếu dựa trên mối quan hệ của các yếu tố ngôn từ với ngữ cảnh tu từ. – Phương tiện tu từ thuộc về bình diện hệ thống (ngôn ngữ) còn biện pháp tu từ thuộc về bình diện hoạt ñộng (lời nói). Đinh Trọng Lạc trong cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ” cũng ñưa ra những nhận ñịnh xác ñáng ñể phân biệt phương tiện tu từ và biện pháp tu từ.

9

Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt ñộng lời nói các phương tiện ngôn ngữ không kể trung hoà hay diễn cảm trong một ngữ cảnh rộng ñể tạo ra hiệu quả tu từ. [40, 5] Phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản chúng còn có ý nghĩa bổ sung còn gọi là màu sắc tu từ . [40, 5] Tác giả cũng ñưa ra những tiêu chí nhất ñịnh ñể phân biệt 2 khái niệm phương tiện tu từ và biện pháp tu từ, những tiêu chí ấy có phần ñồng nhất với ý kiến của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ – Nguyễn Thị Ngân Hoa – Đỗ Việt Hùng – Bùi Minh Toán. Tóm lại, có thể nhận diện phương tiện tu từ và biện pháp tu từ qua sự khái quát sau: Phương tiện tu từ ñược nhận diện ở những ñiểm sau: – Là phương tiện ngôn ngữ, ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật – logic) chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ. – Là những phương tiện ñược tu sức về mặt tu từ hoặc ñôi khi ñược ñánh dấu về mặt tu từ. [41, 59] – Phương tiện tu từ là những yếu tố ngôn ngữ thuộc các cấp ñộ khác nhau, ñược ñánh dấu về tu từ học trong giới hạn của một cấp ñộ nào ñó trong ngôn ngữ [40, 9] – Ý nghĩa tu từ học của phương tiện tu từ bị quy ñịnh bởi những quan hệ hệ hình của các yếu tố cùng bậc. [40, 9] – Ý nghĩa tu từ học của phương tiện tu từ ñược củng cố ở ngay phương tiện ñó [40, 9]. – Phương tiện tu từ bao giờ cũng nằm trong thế ñối lập tu từ học (tiềm tàng trong ý thức của người bản ngữ) với phương tiện tương liên có tính chất trung hoà của hệ thống ngôn ngữ. [40, 11] – Phương tiện tu từ mang tính khách quan. Các phương tiện tu từ của mỗi ngôn ngữ ñều tồn tại trong ý thức và tiềm thức của người dùng, người ta có thể sử dụng trong lời nói hằng ngày và cũng giống như các tín hiệu từ, các câu nói… người

10

quen dùng không hỏi do ai tạo ra, vậy mà cách hiểu ñều giống nhau. Các phương tiện tu từ có tính chất khách quan và mỗi phương tiện ñều có chung một mã giống nhau, ñộc lập với chủ quan người sử dụng. [37, 193] – Các phương tiện tu từ mang tính hữu hạn trong hệ thống. Biện pháp tu từ ñược nhận diện ở những ñiểm sau: – Là cách kết hợp ngôn ngữ ñặc biệt trong một hoàn cảnh cụ thể, nhằm mục ñích tu từ nhất ñịnh. – Biện pháp tu từ là cách diễn ñạt mới mẻ, ñặc sắc trong những ngữ cảnh cụ thể ñể tạo ra cái hay của ngôn ngữ. – Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng các ñơn vị lời nói trong giới hạn của một ñơn vị thuộc bậc cao hơn. [40, 9] – Ý nghĩa tu từ học của biện pháp tu từ bị quy ñịnh bởi những quan hệ cú ñoạn giữa các ñơn vị của một bậc hay của các bậc khác nhau. [40, 9] – Ý nghĩa tu từ học của biện pháp tu từ nảy sinh ra trong ngữ cảnh của một ñơn vị lời nói nào ñó. [40, 9] – Biện pháp tu từ ñối lập với biện pháp sử dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh, nhằm mục ñích diễn ñạt lí trí. [40, 142] – Biện pháp tu từ mang tính chủ quan thuộc về lựa chọn kĩ năng diễn ñạt của người viết. – Biện pháp tu từ mang tính vô hạn. Tuy giữa các biện pháp tu từ và các phương tiện tu từ có sự khác biệt rõ rệt như vậy nhưng giữa chúng vẫn có mối quan hệ biện chứng. Một mặt, việc sử dụng các phương tiện tu từ sẽ tạo ra các biện pháp tu từ, mặt khác việc sử dụng một biện pháp tu từ nào ñó trong lời nói cũng có thể chuyển hoá nó thành phương tiện tu từ. Hơn nữa, cùng một phương tiện tu từ có thể ñược dùng ñể xây dựng những biện pháp tu từ rất khác nhau. Ngược lại, những phương tiện tu từ khác nhau có thể tham gia vào việc xây dựng cùng một biện pháp tu từ. Sự phân chia hai phạm trù phương tiện tu từ và biện pháp tu từ cũng chỉ mang tính tương ñối. Điều quan trọng là người sử dụng ngôn ngữ cần ñặt vào hệ

11

thống và tạo ñược sự nhất quán khi xác ñịnh, miêu tả và phân tích các biện pháp tu từ cũng như phương tiện tu từ. Như vậy, có thể nói biện pháp tu từ là cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm ñạt hiệu quả trong cách diễn ñạt. Nói cách khác, biện pháp tu từ chú ý ñến khả năng lựa chọn các yếu tố ngôn ngữ, ñộc ñáo trong cách thể hiện, tạo ra sự mới mẻ, lạ hoá. Người sử dụng ngôn ngữ có thể ñạt tới sự sáng tạo khéo léo nếu biết sử dụng các biện pháp tu từ một cách linh hoạt ñể tạo ra hình thức diễn ñạt cho những nội dung cụ thể. Tuỳ theo các phương tiện ngôn ngữ ñược kết hợp và căn cứ vào các cấp ñộ ngôn ngữ, các biện pháp tu từ có thể ñược chia ra: Các biện pháp tu từ từ vựng – ngữ nghĩa (ñiệp từ, ñiệp ngữ, liệt kê từ vựng, tăng cấp…); biện pháp tu từ ngữ âm (ñiệp thanh, ñiệp phụ âm ñầu, hài thanh, biến nhịp…); biện pháp tu từ cú pháp (ñảo ngữ, sóng ñôi, phản cú, ñiệp cú, xen kẽ, ñề ngữ, giải ngữ…); biện pháp tu từ văn bản (rút gọn, ñiệp khúc, liên kết, bỏ lửng, nhấn mạnh…). Dựa vào ñối tượng và phạm vi nghiên cứu của ñề tài, ở chương này, luận văn chỉ tìm hiểu cụ thể vấn ñề lí thuyết biện pháp tu từ ngữ âm và biện pháp tu từ cú pháp – làm cơ sở cho việc triển khai những vấn ñề ở chương 2 và chương 3. 1.2. Lí thuyết về biện pháp tu từ ngữ âm 1.2.1. Biện pháp tu từ ngữ âm Các phương tiện ngữ âm (âm vị, âm tiết) ñược xem là những ñơn vị mang tính một mặt (khác với những ñơn vị mang tính hai mặt như hình vị, từ, câu,…), là vỏ âm thanh – cơ sở vật chất ñể biểu ñạt ý nghĩa nào ñó của ngôn ngữ. Vì ñặc ñiểm ấy mà bản thân các ngữ âm phương tiện ngữ âm chưa thể hiện rõ màu sắc tu từ. Tuy nhiên, hình thức âm thanh và nội dung ý nghĩa luôn là hai mặt song song có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nương tựa vào nhau ñể tồn tại, hình thức âm thanh là cái biểu ñạt – phản ánh bản chất của cái ñược biểu ñạt (nội dung ý nghĩa). Vì thế, trong một chừng mực nhất ñịnh, các phương tiện ngữ âm vẫn có thể ñược sử dụng làm chất liệu ñể biểu ñạt hình tượng, cảm xúc mang tính biểu cảm. Khảo sát ñặc ñiểm ngữ âm của các phương tiện ngôn ngữ ñể tạo ra những cách phối hợp hợp lí, có giá

12

trị nghệ thuật là một trong những việc làm cần thiết ñể khai thác tối ña những ưu thế của âm thanh ngôn ngữ. Nếu biết sử dụng những phương tiện ngữ âm một cách hợp lí sẽ mang lại hiệu quả tu từ không nhỏ. Biện pháp tu từ ngữ âm là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các âm thanh, ñem ñến cho phát ngôn (thông thường hơn cả là văn bản thơ) một cơ cấu âm thanh nhất ñịnh, nhằm tạo ra những màu sắc biểu cảm – cảm xúc nhất ñịnh. [40, 221] Ví dụ: Sử dụng khéo léo các phụ âm có thể tạo ra những giá trị biểu cảm nhất ñịnh. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên Làm cho ñộng ñịa kinh thiên ñùng ñùng Đại quân ñồn ñóng cõi Đông (Nguyễn Du) Sự lặp lại âm “ñ” ở những âm tiết: ñộng ñịa, ñùng ñùng, ñại, ñồn, ñóng, ñông tạo ra sự cộng hưởng ở những âm tiết có phụ âm ñầu hữu thanh, góp phần gia tăng ấn tượng mạnh mẽ về thân thế của một ñại quân. Nói ñến sự tinh tế trong việc phối hợp các yếu tố ngữ âm, người ta cũng thường nhắc ñến hai câu thơ của Tản Đà: Tài cao phận thấp chí khí uất Giang hồ mê chơi quên quê hương Sự phối hợp của các thanh bằng – trắc: câu trên chủ yếu là các âm tiết mang thanh trắc, câu dưới chủ yếu là các âm tiết mang thanh bằng tạo nên sự ñối lập trong tâm trạng của một con người. Bên cạnh ñó, còn phải kể ñến việc sử dụng các phụ âm cuối một cách hiệu quả: các phụ âm cuối tắc vô thanh /p/ trong “thấp” và /t/ trong “uất” tạo nên biểu tượng của sự nghẹn ngào trước cái trớ trêu của số phận ; các phụ âm vang mũi /n/ trong các âm tiết “giang”, “quên”, “hương” tạo nên sự dàn trải, phiêu du ; các âm tiết mở có ñộ vang lớn “hồ, mê, quê” kết hợp với các âm tiết nửa mở “chơi” cùng với 7 thanh bằng (ñối lập với 5 thanh trắc ở trên) góp phần miêu tả một tư tưởng thoát li, một tâm hồn ngao du, thoát tục.

13

1.2.2. Các biện pháp tu từ ngữ âm thông dụng Vỏ âm thanh ngôn ngữ thường ñược xem là các tín hiệu chỉ có một mặt nhưng trong những hoàn cảnh nhất ñịnh hoặc trong những cách diễn ñạt có chủ ñích người ta có thể sử dụng nó như một phương tiện mang màu sắc tu từ, có tính biểu trưng cao, giúp cho sự cộng hưởng ý nghĩa thêm phần sinh ñộng và sâu sắc. Sử dụng các biện pháp tu từ ngữ âm ñể chuyển hoá âm thanh ngôn ngữ một cách khéo léo có thể tạo ra những hiệu quả biểu cảm có giá trị. Chúng ta thường gặp các biện pháp tu từ ngữ âm như: hài thanh, hài âm, ñiệp âm, biến nhịp, ñiệp khúc… 1.2.2.1. Biện pháp hài thanh Hài thanh là biện pháp tu từ ngữ âm nhằm hài hoà các mặt ñối lập về thanh ñiệu: cao/thấp; gãy /không gãy, tức là ñối lập âm vực và ñường nét thanh ñiệu. [37, 93] Biện pháp hài thanh chủ yếu phát huy tác dụng trong những tác phẩm thơ bởi thơ ca tiếng Việt luôn chú ý ñến tính nhạc, có thể xem ñây là một trong những tiêu chí quan trọng ñể góp phần làm nên một bài thơ hay, nhất là những bài thơ ñược quy ñịnh bởi tính chất niêm luật chặt chẽ về cả vần và ñiệu. Ví dụ: Gió sao là lạ. Mây khang khác Không hiểu hay là nhịp cuối năm Hôm qua thì tiếc. Mai thì sợ Tuột cương. Trăng cũ lại trăng rằm ! (Cuối năm – Hữu Thỉnh) Các vế của câu thơ và giữa các câu thơ với nhau có sự hài hoà về thanh: âm vực thấp với âm vực cao (là lạ – khang khác – năm – tiếc – sợ – cương – rằm), các âm tiết ñi từ âm tiết mở ñến ñóng ñến nửa ñóng, từ âm có ñộ vang ít ñến âm có ñộ vang nhiều kết hợp với các dấu chấm câu bất thường ở giữa câu và mỗi chỗ xuống dòng ñều góp phần diễn tả tâm trạng hồi hộp, lo âu, giật mình trước tốc ñộ của nhịp sống. Trong văn xuôi, sự hài hoà thanh ñiệu không yêu cầu chặt chẽ như trong thơ , nhưng nếu có sự hài hoà ấy thì câu văn thêm phần sinh ñộng.

14

Ví dụ: Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn ñức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành ñất. Thiếu một ñức, thì không thành người. [18, 631] Với ngắt nhịp ñều ñặn của các cấu trúc sóng ñôi kết hợp với sự phối hợp các thanh của mỗi âm tiết cuối ngữ ñoạn ñã tạo nên hài hoà, cân ñối cho các câu văn. Có khi các âm tiết ñi liền nhau có sự nhịp nhàng với nhau (Xuân, Hạ, Thu, Đông, Đông, Tây, Nam, Bắc, Cần – Kiệm – Liêm – Chính), có khi các âm tiết ñứng xa nhau nhưng vẫn có cân xứng nhờ sự luân phiên các thanh bằng trắc của các âm tiết (mùa – phương – Bắc – ñức – trời – ñất – người), các âm tiết mở kết hợp với âm tiết ñóng (mùa – trời – người – phương- bắc – ñức – ñất), các âm tiết kết thúc bằng phụ âm vang hữu thanh ñi liền nhau (Cần, Kiệm, Liêm, Chính) tạo sự vang vọng, các âm tiết ñóng ñứng cạnh nhau (bắc – ñức – ñất) tạo sự gân guốc, dứt khoát trong lời nói. 1.2.2.2. Biện pháp hài âm Hài âm là biện pháp tu từ ngữ âm, trong ñó người ta cố ý sử dụng một cách tổng hợp các biện pháp tu từ ngữ âm nhằm tạo nên một sự phù hợp giữa hiệu quả biểu cảm – cảm xúc của hình tượng âm thanh với nội dung biểu cảm của câu thơ. [40, 226] Biện pháp hài âm chú ý ñến sự hài hoà các mặt ñối lập của âm tiết như : mở /ñóng, cao /thấp, ngắn/dài, mạnh /yếu, trầm/bổng,… ở những vị trí nhất ñịnh ñể tạo âm hưởng (ñiểm nhấn thường là những âm tiết ñứng ở cuối câu). Tính chất hài hoà này không chỉ thể hiện ở những câu thơ, lời văn riêng lẻ mà nó còn góp phần tạo ra ñặc trưng về giọng ñiệu cho cả ñoạn, cả bài. Ví dụ: Đời Trần, quân Nguyên ñánh ñâu ñược ñấy, ñánh ñược nước Tàu và nửa châu Âu, thế mà ba lần bị ông Trần Hưng Đạo ñánh tan. Bình dân như ông Lê Lợi và ông Nguyễn Huệ ñã ñánh ñuổi quân Tàu làm cho nước ta ñộc lập. Người già như ông Lí Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn ñánh ñông dẹp bắc, bao nhiêu lần ñuổi giặc cứu dân.

15

Thiếu niên như Đổng Thiên Vương, chưa ñến 10 tuổi, mà ñã ra tay cứu nước, cứu nòi, Trần Quốc Toản mới 15, 16 tuổi ñã giúp ông Trần Hưng Đạo ñánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ thì có bà Trưng, bà Triệu ra tay khôi phục giang sơn. Những vị anh hùng ấy vì nước, vì dân mà làm nên sự nghiệp kinh thiên ñộng ñịa. Nhờ những vị dân tộc anh hùng ấy mà nước ta ñược tự do ñộc lập, lừng lẫy ở Á Đông. [16, 216] Trong ví dụ trên, người viết ñã sử dụng tổng hợp các mặt biểu ñạt âm thanh của ngôn từ ñể tạo ra sự hài hoà về âm thanh cho văn bản. 1.2.2.3. Biện pháp ñiệp âm Điệp âm là biện pháp cố ý lặp lại một số yếu tố ngữ âm nào ñó (phụ âm ñầu, vần hoặc thanh) ñể tạo ra sự cộng hưởng ý nghĩa, có tác dụng tô ñậm thêm hình tượng hoặc xúc cảm, gợi liên tưởng, ñồng thời giúp cho lời văn, lời thơ thêm nhạc tính. a. Điệp phụ âm ñầu Đây là biện pháp tu từ ngữ âm lặp lại phụ âm ñầu ñể tạo ra sự trùng ñiệp về âm hưởng, tăng tính tạo hình và diễn cảm cho câu thơ. Tuỳ theo ñặc ñiểm của phụ âm ñầu ñược chọn làm phương tiện mà nó có thể gợi những liên tưởng tinh tế khác nhau. Ví dụ: Nỗi niềm chi rứa Huế ơi Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên Sự lặp lại các cặp phụ âm ñầu n-n (nỗi niềm), m-m(mà mưa), x-x (xối xả), tr-tr (trắng trời), th – th (Thừa Thiên) một cách liên tiếp, gối ñầu lên nhau tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về những cơn mưa triền miên, dai dẳng, khắc sâu thêm tâm trạng ñau ñáu của tác giả về Huế. b. Điệp vần Điệp vần là biện pháp tu từ ngữ âm, trong ñó người ta cố ý tạo ra sự trùng ñiệp về âm hưởng bằng cách lặp lại những âm tiết có phần giống nhau, nhằm mục ñích tăng sức biểu cảm, tăng nhạc tính cho câu thơ [40, 223].

16

Ví dụ: Cách ñiệp vần “ang” trong câu thơ: Lá bàng ñang ñỏ ngọn cây/ Sếu mang giang lạnh ñang bay ngang trời ñã thêm sức cộng hưởng cho hình ảnh khung cảnh trời ñất bao la, khoáng ñạt ñến vô cùng trong cảnh xuân sang. c. Điệp thanh Điệp thanh là biện pháp tu từ ngữ âm, trong ñó người ta sử dụng lặp lại các thanh ñiệu cùng nhóm (bằng/trắc) ñể tạo ra sự cộng hưởng về ý nghĩa, tăng tính nhạc cho câu thơ. Ví dụ:

Mục ñích thi ñua ái quốc là gì ? Diệt giặc ñói khổ, Diệt giặc dốt nát, Diệt giặc ngoại xâm… [18, 444]

Sự xuất hiện liên tục các thanh trắc trong một ngữ ñoạn lớn: Diệt giặc ñói khổ/Diệt giặc dốt nát/Diệt giặc ngoại xâm,… ñã tạo ra hơi văn ñặc biệt, góp phần nhấn mạnh mục ñích của việc “thi ñua ái quốc” ñặt ra ñồng thời thể hiện ý chí mạnh mẽ của người phát ngôn. 1.2.2.4. Biện pháp tạo nhịp ñiệu Tạo nhịp ñiệu là biện pháp tu từ ngữ âm ñược dùng chủ yếu trong văn xuôi chính luận, trong ñó người ta cốt tạo nên một âm hưởng hấp dẫn bằng những hình thức cân ñối, nhịp nhàng của lời văn, nhằm làm cho lí luận có sức thuyết phục mạnh mẽ. [40, 228] Ví dụ: Trong Việt Minh, ñồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt gái, trai, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo… [16, 553]: nhịp ñiệu của những từ ñơn tiết phản nghĩa ñối nhau ñã tạo nên âm hưởng cho câu văn. Nhịp ñiệu của những cụm từ, những vế, những ñoạn câu ñối nhau cũng tạo nên âm hưởng riêng cho lời văn: Bất kì ñàn ông, ñàn bà, người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, ñảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải ñứng lên ñánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng

17

gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước. [17, 480] 1.2.2.5. Biện pháp tạo âm hưởng Biện pháp tạo âm hưởng là biện pháp tu từ ngữ âm ñược dùng chủ yếu trong văn xuôi nghệ thuật, trong ñó người ta phối hợp âm thanh, nhịp ñiệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân ñối, nhịp nhàng, uyển chuyển, êm ái, du dương, mà cao hơn thế, phải tạo ra một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình tượng của câu văn. [40, 230] Ví dụ: Mỗi người dân Việt Nam, bất kì già, trẻ, trai, gái; bất kì giàu, nghèo, lớn, nhỏ, ñều phải trở nên một chiến sĩ ñấu tranh trên một mặt trận : Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Trong cuộc thi ñua ái quốc, chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kết quả ñầu tiên của cuộc thi ñua ái quốc là: Toàn dân sẽ ñủ ăn ñủ mặc, Toàn dân sẽ biết ñọc biết viết Toàn bộ ñội sẽ ñầy ñủ lương thực khí giới, Để giết giặc ngoại xâm. Toàn quốc sẽ thống nhất ñộc lập hoàn toàn. Thế là chúng ta thực hiện: Dân tộc ñộc lập Dân quyền tự do Dân sinh hạnh phúc [18, 444] Âm hưởng của ñoạn văn trên ñược tạo ra từ nhiều yếu tố: cách liệt kê các thành phần ñẳng lập, cách ngắt dòng, cách tách câu, sử dụng cấu trúc lặp và cách sử dụng các câu dài ngắn khác nhau, nhịp ñiệu có khi dàn trải, khi tăng tốc, khi mau

18

Xác Định Và Phân Tích Tác Dụng Các Biện Pháp Tu Từ Có Trong Các Đoạn Trích Sau

xác định và phân tích tác dụng các biện pháp tu từ có trong các đoạn trích sau

Trên đường hành quân xa

Dừng chân bên xóm nhỏ

Tiếng gà ai nhảy ổ:

“Cục… cục tác cục ta”

Nghe xao động nắng trưa

Nghe bàn chân đỡ mỏi

Nghe gọi về tuổi thơ

Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân mệt mỏi. Lúc dừng chân bên thôn xóm yên bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lòng mình cuốn vào âm thanh ấy và trải ra mênh mông theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được lặp lại, trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó không phải là sự mở ra theo chiều rộng không gian mà là sự chuyển động theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh tế diễn biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là một âm thanh của thực tại, vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi người chiến sĩ chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.

Theo dòng hồi tưởng ấy, những kỉ niệm ùa về, sống động như đang hiện ra trước mắt. Điệp ngữ tiếng gà trưa mở đầu các đoạn thơ sau, lặp đi lặp lại bốn lần như một điệp khúc, điểm nhịp cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Mỗi lần lặp lại, nó mở ra một ô cửa lung linh làm sáng bừng lên cả khung trời kỉ niệm:

Tiếng gà trưa

Ổ rơm hồng những trứng

Này con gà mái mơ

Khắp mình hoa đốm trắng

Này con gà mái vàng

Lông óng như màu nắng

Nhân vật trữ tình đã ngược dòng thời gian để trải nghiệm lại những cảm xúc trẻ thơ trong sáng. Đó là niềm thích thú khi nâng niu ổ trứng hồng ấm áp, là niềm vui say khi ngắm nhìn không chán mắt màu hoa, màu nắng trên mình mỗi chú gà. Từ hình ảnh đàn gà và ổ trứng, người bà xuất hiện trong sự kết nối tự nhiên của mạch cảm xúc. Đây chính là tâm điểm hội tụ mọi kí ức về những năm tháng tuổi thơ của người cháu.

Có giọng bà vang vọng:

Tiếng gà trưa

Có tiếng bà vẫn mắng

– Gà đẻ mà mày nhìn

Rồi sau này lang mặt!

Cháu về lấy gương soi

Lòng dại thơ lo lắng

Có bóng dáng thân thuộc của bà:

Tiếng gà trưa

Tay bà khum soi trứng

Dành từng quả chắt chiu

Cho con gà mái ấp

Tất cả đều hiện lên trong niềm xúc động của người cháu khi được sống lại trong tình yêu thương và sự chăm chút của bà. Tiếng bà mắng, bàn tay bà khum khum soi trứng, những mảnh kí ức ấy đã thức dậy trong lòng người cháu cả một tuổi thơ sống trong sự tần tảo, chắt chiu, hi sinh quên mình của bà:

Cứ hàng năm hàng năm

Khi gió mùa đông đến

Bà lo đàn gà toi

Mong trời đừng sương muối

Để cuối năm bán gà

Cháu được quần áo mới

Sự kéo dài của chuỗi thời gian “cứ hàng năm hàng năm” cũng là sự lặp lại của bao nỗi lo âu, mong mỏi đã dệt nên đời bà. Bà đổi những lo âu, mong mỏi và chắt chiu ấy chỉ để lấy nụ cười được bộ quần áo mới của đứa cháu thơ. Đó là món quà gói trọn tình cảm yêu thương và hi sinh của bà nên ấm áp và thiêng liêng vô cùng.

Ôi cái quần chéo go

Ống rộng dài quét đất

Cái áo cánh trúc bâu

Đi qua nghe sột soạt

Những câu thơ giản dị mà dồn nén bao cảm xúc. Đó không chỉ là niềm vui trong quá khứ của đứa cháu nhỏ được quà mà còn là niềm xúc động rưng rưng trong hiện tại của người chiến sĩ khi thấm thía tình cảm của người bà thân thương.

Tiếng gà, ổ trứng và niềm hạnh phúc mà bà mang lại đã trở thành suối nguồn yêu thương nuôi dưỡng và ghi dấu trong tâm hồn người cháu:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng

Từ những giấc ngủ bình yên và ấm áp niềm hạnh phúc trẻ thơ như thế, hình ảnh bà và những kỉ niệm tuổi thơ gắn với tiếng gà đã đi sâu vào tâm thức và trở thành một phần thiêng liêng trong lòng người cháu. Đó chính là một động lực mạnh mẽ để người chiến sĩ hôm nay quyết tâm chắc tay súng. Khổ cuối, mạch cảm xúc quay trở lại hiện tại một cách tự nhiên bởi chính mối liên hệ sâu sắc ấy:

Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu Tổ quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

Ổ trứng hồng tuổi thơ.

Bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo: thể thơ năm tiếng kết hợp biểu cảm với tự sự, miêu tả; thỉnh thoảng, trong mỗi tiết đoạn liên tưởng được gợi ra từ tiếng gà, lại được ngưng nghỉ, phân định bởi một lời thơ ba tiếng (lời thơ: Tiếng gà trưa) như đánh dấu một nấc cảm xúc, bài thơ đã diễn đạt một cách tự nhiên những tình cảm bình dị mà thiêng liêng, sâu sắc của người chiến sĩ trẻ trên bước đường hành quân. Chất liệu dân gian thô mộc, cách lựa chọn tứ thơ thông minh, chất trữ tình vừa bồng bột, nhí nhảnh vừa sâu lắng, đằm thắm là đặc trưng của thơ Xuân Quỳnh trong giai đoạn này, cũng là một điểm chung của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Nguồn: [Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]

[Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]

Thay đổi nội dung bởi: leo345, 30-07-2013 lúc 15:22.

Thay đổi nội dung bởi: carolrido2000, 30-07-2013 lúc 15:53.

Bạn đang xem bài viết Phát Hiện Biện Pháp Tu Từ Trong Đoạn Dữ Dội Và Dịu Êm… trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!