Xem Nhiều 3/2023 #️ Phát Triển Cảng Biển Và Dịch Vụ Cảng Biển: Động Lực Mới # Top 6 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Phát Triển Cảng Biển Và Dịch Vụ Cảng Biển: Động Lực Mới # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Cảng Biển Và Dịch Vụ Cảng Biển: Động Lực Mới mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

 

Ngày 23/4/2019, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU (gọi tắt là Nghị quyết số 15) về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Nghị quyết được xây dựng với mục tiêu rất rõ là định vị tiềm năng, phát huy lợi thế từ biển; góp phần quan trọng để sớm đưa tỉnh trở thành một trong những trung tâm dịch vụ – du lịch – thương mại hiện đại của cả nước. 

Quảng Ninh có vị trí chiến lược quan trọng trong Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thuộc tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, có đường biên giới trên bộ và trên biển, chiều dài bờ biển hơn 250km, có 6 khu vực hàng hải (Vạn Gia, Hải Hà, Cô Tô, Cẩm Phả – Cửa Đối, Hòn Gai và Quảng Yên). Đồng thời, có di sản kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng khác, thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế; hệ thống cảng biển với nhiều cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu trọng tải lớn; có tiềm năng quỹ đất để phát triển các dịch vụ logistics hỗ trợ cảng và các dịch vụ du lịch biển đảo, chuyển tải hàng hóa.

Với tiềm năng, lợi thế đó, Quảng Ninh rất thuận lợi trong phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển. Giai đoạn 2014-2018, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Quảng Ninh đạt trên 360 triệu tấn, hành khách đạt trên 490.000 lượt khách. Hiện có 11 loại thuộc 3 nhóm dịch vụ cảng biển đang được triển khai tại tỉnh, tổng doanh thu dịch vụ cảng biển đạt khoảng 6.500 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt gần 15%năm; tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của dịch vụ cảng biển trong GRDP là 0,42%.

Tuy nhiên, hoạt động cảng biển và dịch vụ cảng biển tại Quảng Ninh còn nhiều hạn chế, yếu kém, dẫn đến sức cạnh tranh không cao. Một trong những hạn chế phải kể đến đầu tiên là tầm nhìn và định hướng chiến lược để phát triển cảng biển và nâng cao chất lượng dịch vụ chưa được xác định rõ ràng. Tiếp đó là hệ thống cảng biển, hạ tầng giao thông kết nối chưa được đầu tư đồng bộ; chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển và dịch vụ logistics; thương hiệu cảng biển Quảng Ninh chưa được khách hàng trong nước và trên thế giới biết đến.

Các dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao như sửa chữa, bảo dưỡng tàu, lặn ngầm khảo sát thân vỏ và siêu âm kiểm tra hàng hóa thay vì phải mở khóa niêm phong container đều phải nhờ vào dịch vụ từ Hải Phòng. Chính vì những hạn chế này, nên tuy có lợi thế cảng nước sâu, song các tàu đến cảng Quảng Ninh chủ yếu là chuyển tải để quay đầu về cảng Hải Phòng. Điều này dẫn đến chi phí vận chuyển tăng cao, các hãng tàu và chủ hàng khá e ngại khi chọn cảng Quảng Ninh để ghé qua. 

Năm 2016, câu chuyện các chủ tàu quyết định dừng vận chuyển ô tô về cảng Cái Lân và chuyển sang cảng Hải Phòng, khiến Quảng Ninh thất thu khoảng 3.000 tỷ đồng/năm cũng được cho là xuất phát từ những hạn chế, yếu kém trên.

Quảng Ninh ban hành Nghị quyết 15 với quyết tâm, định hướng rõ nét lại các kế hoạch phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch yêu cầu các sở, ngành, địa phương cụ thể hóa Nghị quyết bằng các giải pháp khả thi, phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với tình hình thực tế của tỉnh; xác định rõ mục tiêu, lộ trình, tiến độ thực hiện; đảm bảo phân công rõ nhiệm vụ, trách nhiệm công việc cho các đơn vị.

Theo đó, trong tổng số 77 nhiệm vụ giao cho 23 nhóm cơ quan, địa phương và doanh nghiệp có 7 nhiệm vụ triển khai năm 2019; 29 nhiệm vụ triển khai từ năm 2019-2020; 25 nhiệm vụ có lộ trình thực hiện trong giai đoạn 2019-2025; 8 nhiệm vụ có lộ trình thực hiện trong giai đoạn 2020-2025; 8 nhiệm vụ có lộ trình thực hiện trong giai đoạn 2019-2030.

Mục tiêu cụ thể đặt ra là giai đoạn 2019-2025, cảng biển phấn đấu doanh thu đạt khoảng 25.000 tỷ đồng (tăng trưởng bình quân 17,5%, đóng góp khoảng 1,2-1,5% trong GRDP của tỉnh), sản lượng hàng hóa đạt 114,5-122,5 triệu tấn, lưu lượng hành khách vận tải biển đạt 250.000-300.000 lượt; phát triển dịch vụ cảng hành khách có giá trị tăng cao; phát triển thêm từ 2-3 dịch vụ cảng hàng hóa; ưu tiên hoàn thiện hạ tầng cảng biển. Giai đoạn 2026-2030, cảng biển phấn đấu doanh thu đạt khoảng 47.500 tỷ đồng (tăng trưởng bình quân 18,5%, đóng góp khoảng 3-3,5% trong GRDP của tỉnh)…

Đến năm 2045, định hướng phát triển cảng biển và kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật vào quản lý, khai thác, phát triển 20/20 dịch vụ, phát triển hậu cần sau cảng và logistics theo quy hoạch. Trong đó, tập trung khai thác tối đa quy hoạch khu bến Yên Hưng (Đầm Nhà Mạc, TX Quảng Yên), biến nơi đây thành trung tâm dịch vụ cảng biển của khu vực miền Bắc, mang đặc thù là nơi cung cấp các dịch vụ logistics cho hệ thống các cảng của TP Hải Phòng.

Với tiềm năng, lợi thế đó, Quảng Ninh rất thuận lợi trong phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển. Giai đoạn 2014-2018, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Quảng Ninh đạt trên 360 triệu tấn, hành khách đạt trên 490.000 lượt khách. Hiện có 11 loại thuộc 3 nhóm dịch vụ cảng biển đang được triển khai tại tỉnh, tổng doanh thu dịch vụ cảng biển đạt khoảng 6.500 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt gần 15%năm; tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của dịch vụ cảng biển trong GRDP là 0,42%.

Bám sát vào những mục tiêu và nhiệm vụ được giao, 30/42 sở, ngành, địa phương đã lên kế hoạch, xác định rõ lộ trình, giải pháp và phân công nhiệm vụ chi tiết sát với thực tế. Nhiều đơn vị đã có cách làm sáng tạo, đột phá, nhất là trong nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác  quản lý nhà nước đối với phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển.

Điển hình như Cảng vụ Hàng hải Quảng Ninh đã đưa vào sử dụng phần mềm nghiệp vụ thủ tục tàu biển từ ngày 1/4/2020. Theo đó, việc làm thủ tục cho tàu thuyền vào, rời cảng biển Quảng Ninh đã được kết nối với Cổng thông tin một cửa quốc gia và được thực hiện ở cấp độ 4, hiện đơn vị đang triển khai thực hiện việc cấp biên lai thu phí, lệ phí hàng hải điện tử. Cục Hải quan tỉnh cũng đã triển khai hiệu quả kết nối một cửa quốc gia tại 6/6 Chi cục Hải quan, với 68 thủ tục hành chính của 13 bộ, ngành được kết nối; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho 100% thủ tục hải quan; đảm bảo duy trì 100% tờ khai hải quan qua các cảng biển được thực hiện trên hệ thống thông quan tự động VNACC/VCISS. Qua đó, thời gian thông quan hàng hoá được rút ngắn hơn so với năm 2018 và 2019.

Bằng cách làm cụ thể và hiệu quả, ngay trong năm đầu triển khai Nghị quyết, tháng 6/2019 cảng biển Quảng Ninh đã đón nhận nhiều tín hiệu vui khi lần đầu tiên đón tàu ANNOU MAX, quốc tịch Marshall Islands có trọng tải lên đến gần 177.000 tấn, chở theo hơn 105.000 tấn than nhập khẩu từ Australlia, đã cập cảng Hòn Nét (thuộc cụm cảng Cẩm Phả) an toàn.

Đây là con tàu có trọng tải lớn nhất từ trước đến nay chở hàng rời, làm hàng tại Quảng Ninh. Chuyến tàu không chỉ mang ý nghĩa đánh dấu trọng tải kỷ lục lần đầu đến Quảng Ninh, mà đã góp phần quảng bá năng lực, điều kiện có thể đón được các chuyến tàu lớn. Điều này cũng là lý do vì sao liên tiếp sau đó, cảng Hòn Nét, cảng Cái Lân của Quảng Ninh trong năm 2019 và 6 tháng đầu năm 2020 có khá nhiều chuyến tàu trọng tải nhỏ hơn, hoặc tương đương chọn về làm hàng.

Điều này đã đánh dấu sự tăng trưởng mới trong lĩnh vực hàng hải khi 2019 là năm có sản lượng hàng hóa cao nhất từ trước đến nay với tổng số gần 100 triệu tấn hàng thông qua, tăng hơn 20% so với năm 2018. Hành khách bằng tàu biển quốc tế năm 2019 đạt 87.000 người, trong đó tàu biển nước ngoài 60.000 người. Trong 6 tháng đầu năm 2020, mặc dù nhiều lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhưng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển lại tăng trưởng khá, đạt 54,3 triệu tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2019. Dự kiến năm 2020, sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển đạt 100 triệu tấn. Như vậy, mục tiêu giai đoạn 2019-2025, hàng hoá thông qua cảng biển Quảng Ninh đạt 114,5-122,5 triệu tấn chắc chắn sẽ hoàn thành. 

Công tác rà soát, điều chỉnh, cập nhật quy hoạch để dành quỹ đất đầu tư thực hiện các dự án phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển đã được các ngành vào cuộc quyết liệt, cơ bản đã xác định được quỹ đất từ 3.000-5.000ha theo đúng tinh thần Nghị quyết 15, để giải quyết nút thắt về phát triển dịch vụ kho bãi, khu hậu cần logistics. Một số dự án trọng điểm kết nối hạ tầng cảng biển và các KCN, KKT đã được tập trung đầu tư để tạo đà thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư; công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin tại các khu vực cảng biển đã được triển khai đồng bộ, mang lại hiệu quả, giảm bớt thời gian cho doanh nghiệp, chủ tàu; các dịch vụ cảng khách quốc tế phát triển theo hướng chất lượng cao, tầm cỡ quốc tế thông qua việc đưa Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long vào khai thác…

Với những thành công ban đầu và sự quyết tâm chính trị cao, Nghị quyết 15 đang từng bước mang đến những chuyển động tích cực cho cảng biển và dịch vụ cảng biển. Góp phần để Quảng Ninh chinh phục những mục tiêu, chỉ tiêu trong phát triển KT-XH.

Thực hiện: Hoàng Nga

Trình bày: Đỗ Quang

Thảo Luận Giải Pháp Phát Triển Cảng Biển Và Dịch Vụ Hậu Cần Cảng

Tham dự Hội thảo có các ông: Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Văn Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Văn Công, Thứ trưởng Bộ GT-VT cùng đại diện các bộ, ngành và các chuyên gia, DN cảng biển.

Các ông: Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Văn Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Văn Công, Thứ trưởng Bộ GT-VT chủ trì Hội thảo.

Dự kiến, giai đoạn 2016-2020, tổng sản lượng hàng hóa bằng tàu biển tăng 10%. Trong đó, hàng container bằng tàu biển tăng trưởng bình quân trên 20%/năm. Nếu chỉ tính lượng hàng bằng tàu biển, hiệu suất khai thác cảng trên địa bàn tỉnh đến năm 2019 đạt 53%. Công suất khai thác hàng container tăng từ 20% năm 2015 lên 53% năm 2019.

Cụm cảng Cái Mép – Thị Vải (CM-TV) cũng là cảng biển có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới năm 2017 và là 1 trong 21 cảng trên thế giới có thể đón tàu đến 200.000 tấn, mở ra hướng đi mới cho ngành cảng biển Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập.

Ông Nguyễn Văn Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu khai mạc Hội thảo.

Hội thảo nhằm lắng nghe ý kiến từ các chuyên gia, nhà đầu tư, DN, hãng tàu góp ý, đề xuất các giải pháp, cơ chế chính sách để tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển cảng biển và dịch vụ hậu cần cảng. Đồng thời, đánh giá những tồn tại vướng mắc trong việc phát triển cảng biển, logistics, từ đó, tìm giải pháp thúc đẩy phát triển ngành kinh tế cảng biển để góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Ông Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh trao đổi với các đại biểu bên lề Hội thảo.

Các đại biểu xem bản đồ quy hoạch hiện trạng và quy hoạch hệ thống cảng biển và giao thông vùng tỉnh BR-VT

Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà đầu tư, DN đã bàn sâu các giải pháp phát triển cảng biển và logistics như: Phát triển hoạt động của ICD, Depot container rỗng tại CM-TV đúng với chức năng và ý nghĩa hỗ trợ cảng biển; Điều kiện để hãng tàu tăng cường hoạt động tại CM-TV; Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và định hướng phát triển cụm cảng CM-TV.

(Theo Báo BRVT)

Cập Nhật Ngành Cảng Biển

Trong tháng Chín tới Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì hội nghị về phát triển vận tải thủy và vận tải ven biển. Chúng tôi kỳ vọng Chính phủ sẽ có những chỉ đạo rõ ràng hơn để thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngành này. Trong các nhóm giải pháp, chúng tôi cho rằng giải pháp về ưu đãi thuế TNDN xuống 10% trong 15 năm sẽ tác động trực tiếp và nhanh nhất đến KQKD của các hãng tàu đang hoạt động có lợi nhuận. Từ đó, các doanh nghiệp này có thể nâng cao lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, hiện đại hóa đội tàu và nâng cao năng lực cạnh tranh với các hãng tàu ngoại. Ngược lại, một số doanh nghiệp còn lỗ lũy kế cao sẽ chưa được hưởng lợi ngay từ ưu đãi thuế TNDN này. Mặc dù vậy, các nhóm giải pháp còn lại cũng sẽ góp phần tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi hơn trong dài hạn cho những doanh nghiệp này.

Ngành vận tải biển hồi phục chậm và chưa đồng đều sau suy thoái

Kể từ sau suy thoái kinh tế năm 2008, bức tranh ngành vận tải biển không mấy tươi sáng. Giá dầu thế giới biến động mạnh. Nguồn cung tàu vượt quá nhu cầu hàng hóa làm cho cạnh tranh về giá ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các tàu của Việt Nam được đóng và mua mới nhiều trong thời gian ngành vận tải biển đang thịnh nên chi phí rất cao. Nhiều doanh nghiệp đã vay vốn để mua tàu trong giai đoạn này. Kết quả là khi giá cước giảm trong khi chi phí nhiên liệu, lãi suất cho vay tăng lên, nhiều doanh nghiệp khai thác vận tải biển liên tục thua lỗ. Bên cạnh đó, nguồn hàng khan hiếm và mất cân đối giữa hai chiều vận tải Bắc – Nam cũng là những khó khăn của ngành. Quy mô đội tàu biển, theo đó, cũng đã giảm mạnh do nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn và phải cơ cấu lại đội tàu.

Cùng với đó là mua CIF, bán FOB nên quyền thuê phương tiện vận chuyển thuộc về các đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, vận tải hàng hóa XNK phần lớn do các hãng tàu nước ngoài đảm nhận.

Theo Cục Hàng hải Việt Nam, vận tải xuất nhập khẩu, đội tàu Việt Nam chỉ đảm nhận được khoảng 10% thị phần, còn lại là do tàu nước ngoài đảm nhận.

Tuy có nhiều khó khăn nhưng chưa nhận được ưu đãi từ Chính phủ

Để chuẩn bị nội dung cho hội nghị sắp tới, Cục Hàng hải Việt Nam đề xuất nhóm giải pháp cũng như tập hợp các ý kiến đề xuất giải pháp từ các doanh nghiệp trong ngành, thông qua các cảng vụ hàng hải.

Theo nguyên tắc kế toán, các doanh nghiệp sẽ được kết chuyển tổng số lỗ phát sinh trong vòng 5 năm gần nhất vào kỳ có lãi để khấu trừ cho thu nhập chịu thuế (tối đa bằng số lãi trong kỳ). Do đó, việc giảm thuế TNDN sẽ không có tác động lên những doanh nghiệp có LNTT trong kỳ thấp hơn lỗ lũy kế trong vòng 5 năm gần nhất.

Nguồn: VDSC

Tháo Gỡ Khó Khăn Cho Doanh Nghiệp Vận Tải Biển Và Cảng Biển

Ngày 27/10, tại Hà Nội, Bộ Giao thông Vận tải tổ chức Hội nghị trực tuyến đối thoại doanh nghiệp vận tải biển và cảng biển năm 2016.

Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vận tải biển và cảng biển. Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN

Đây là lần thứ 4 Bộ Giao thông Vận tải tổ chức hội nghị này, đây được coi là hoạt động thường niên nhằm hỗ trợ, giải quyết những khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác hiệu quả vận tải biển và cảng biển, dịch vụ hàng hải.

Ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam đánh giá, hội nghị lần này đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo doanh nghiệp trong cả nước.

Tại hội nghị, trong số các kiến nghị, nổi lên một số vấn đề như: Nhóm cảng biển: Cơ sở hạ tầng cảng biển, nạo vét luồng hàng hải, hàng hóa tồn đọng tại cảng biển, chính quyền cảng, quản lý và khai thác giám sát quy hoạch cảng biển và nhóm cảng biển….

Nhóm chính sách phát triển vận tải biển, các kiến nghị tập trung vào các chính sách phát triển vận tải biển, đội tàu biển; vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp; giải pháp nâng cao thị phần vận tải; đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ thuyền viên; kiểm soát tải trọng phương tiện.

Nhóm về giá, phí, lệ phí: Giá dịch vụ bốc dỡ hàng hóa, hoa tiêu, lai dắt; phí và lệ phí hàng hàng; giá nhiên liệu; chích sách giảm thuế nhập khẩu cho thiết bị đóng và sửa chữa tàu biển….

Nhóm về thủ tục hành chính, các doanh nghiệp tập trung vào các vấn đề tiếp tục cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển, thủ tục hải quan, cơ chế phối hợp giữa cơ quan nhà nước kiểm tra tại cảng để giảm thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

Về các ý kiến cụ thể tại hội nghị, ông Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội vận tải biển Diêm Điền – Thái Bình cho biết, cách đây 2 năm, hiệp hội đã có nhiều ý kiến và đến nay đã được Bộ Giao thông Vận tải, Cục Hàng hải Việt Nam tháo gỡ như cải cách rút ngọn thủ tục hành chính tại một số cảng biển, qua đó giúp doanh nghiệp giảm được chi phí và thời gian.

Tuy nhiên, Hiệp hội tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải có ý kiến với Quốc hội giảm thuế VAT từ 10% xuống còn 5% như những năm 2009, 2010 đối với các doanh nghiệp vận tải biển đang gặp khó khăn để giúp doanh nghiệp phục hồi, phát triển.

“Ngoài ra, chúng tôi cũng đề nghị các ngân hàng giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp, với lãi suất 18-20% từ năm 2009-2010, cộng cho đến bây giờ thì nhiều doanh nghiệp không thể chịu nổi vì lãi suất quá cao”, ông Trịnh Quốc Đạt có ý kiến.

Ông Vũ Đức Ngọ, Giám đốc một doanh nghiệp tại Thái Bình kiến nghị, do hiện nay tàu được trang bị thiết bị máy móc hiện đại, bên cạnh đó là luồng, tuyến đã được tu bổ thường xuyên, tuy nhiên các quy định về lai dắt, hoa tiêu thì mấy chục năm nay chưa thay đổi.

Vì vậy ông Ngọ đề nghị Bộ Giao thông Vận tải, Cục Hàng hải Việt Nam nghiên cứu có thể thu hẹp các trường hợp bắt buộc phải sử dụng dịch vụ hoa tiêu, lai dắt. Nếu làm được như vậy sẽ giảm được phiền hà và chi phí cho doanh nghiệp.

“Về cảng biển, hiện nay đang thực hiện việc làm thủ tục điện tử đối với tàu vận tải sông pha biển (tàu SB), tuy nhiên doanh nghiệp chưa thể triển khai đại trà được vì hiện một số cảng chưa thực hiện việc kê khai điện tử, dẫn đến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn”, ông Vũ Đức Ngọ cho hay.

Còn theo đại diện Công ty cổ phần cảng Vũng Áng trình bày, trong quá trình thực hiện kiểm soát tải trọng xe tại cảng biển đã xuất hiện những khó khăn như kiểm soát tải trọng hàng hóa đường bộ từ bên ngoài vào cảng.

Ví dụ, nếu hàng hóa xếp từ Việt Nam đi Lào thì cảng chủ động về kiểm soát tải trọng phương tiện, nhưng ngược lại nếu hàng hóa từ Lào về thì theo quy định tải trọng cho phép lưu thông của Lào có thể cao hơn Việt Nam, mà hàng đã được kẹp chì của hải quan, thì những trường hợp này sẽ được giải quyết như thế nào?

Vì vậy đề nghị Bộ Giao thông Vận tải và các cơ quan liên ngành có hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ cho cảng biển.

Kết luận tại hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Vân Công cho biết, những kiến nghị của các doanh nghiệp sẽ được các cơ quan của Bộ xem xét tháo gỡ và sẽ trả lời bằng văn bản đăng tải trên Trang thông tin điện tử Bộ Giao thông Vận tải.

Bạn đang xem bài viết Phát Triển Cảng Biển Và Dịch Vụ Cảng Biển: Động Lực Mới trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!