Xem Nhiều 6/2023 #️ Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội # Top 10 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Diễn đàn do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Xây dựng đồng tổ chức. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới dự Diễn đàn và trực tiếp chủ trì phiên toàn thể.

Tại Diễn đàn, các chuyên gia, các nhà khoa học và các nhà quản lý đã cùng khẳng định vai trò và sự phát triển nhanh chóng của các đô thị tại Việt Nam và vai trò của đô thị thông minh trong tương lai.

Hệ thống đô thị đã tạo các cực tăng trưởng trong khu vực, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, đào tạo và y tế.

Nhưng, hệ thống đô thị của Việt Nam phát triển còn thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo khả năng liên kết trong từng đô thị, giữa các đô thị và giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn; chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các vùng chậm được thu hẹp; nhiều vấn đề xã hội, ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông chưa được giải quyết…

Để giải quyết những tồn tại, hạn chế nêu trên, một trong những giải pháp quan trọng là cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, phát triển đô thị trong thời gian tới trên cơ sở tận dụng tốt nhất những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Diễn đàn đã khẳng định: Phát triển đô thị thông minh bền vững sẽ là hướng đi tất yếu, là nhu cầu cấp thiết trong quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị Việt Nam.

Theo đó, Đề án phát triển đô thị thông minh giai đoạn 2018 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam xác định mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng trọng điểm; đến năm 2030 sẽ hình thành một số chuỗi đô thị thông minh.

Quang cảnh Diễn đàn

Vậy, xây dựng đô thị thông minh bắt đầu từ đâu và làm những việc gì?

Các ý kiến trao đổi tại Diễn đàn cùng cho rằng để thành công trong việc này cầnbắt đầu từ tư duy, từ cách nghĩ và đi đến cách làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thời gian qua có nhiều việc đã và đang làm nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn.

Các sáng kiến, kinh nghiệm và hợp tác giữa các đô thị của Việt Nam với mạng lưới đô thị trong khu vực ASEAN đã được chia sẻ tại 5 Hội thảo chuyên đề trong khuôn khổ của Diễn đàn.

Hội thảo chuyên đề 1: “Quy hoạch và quản lý đô thị thông minh trong chiến lược đô thị hóa và phát triển đô thị”.

Hội thảo chuyên đề 2: “Phát triển hạ tầng số và công nghệ số nền tảng cho đô thị thông minh”.

Hội thảo chuyên đề 3: “Phát triển các dịch vụ thông minh tại các đô thị trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia”.

Hội thảo chuyên đề 4: “Năng lượng thông minh trong quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị”.

Hội thảo chuyên đề 5: “Giao thông thông minh trong chiến lược đô thị hóa và phát triển đô thị”.

Với chuyên đề 3, ông Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương; và ông Dương Hải Hưng, Đại diện Ban Thư ký Quốc gia ASEAN đã đồng chủ trì hội thảo này.

Các hội thảo cũng rút ra kết luận, để xây dựng đô thị thông minh cần có quyết tâm chính trị, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các lĩnh vực và các cơ quan đi kèm với các chính sách và giải pháp đồng bộ. Đồng thời, quy hoạch nền tảng số và sự kết nối là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.

Diễn đàn kiến nghị phải đồng bộ phát triển kinh tế số gắn với đô thị thông minh và chính phủ điện tử; hoàn thiện đồng bộ cơ sở dữ liệu và chia sẻ dữ liệu giữa các ngành; có giải pháp bảo đảm an toàn dữ liệu.

Đồng thời kiến nghị Quốc hội và Chính phủ sớm xây dựng luật giao dịch điện tử thay thế cho luật ban hành năm 2015 và sớm sửa đổi Nghị định 101/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển tài chính toàn diện và phát triển các dịch vụ thông minh…

Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam chọn lọc những kinh nghiệm phù hợp với thực tế phát triển và có bản sắc riêng. Trong đó, quy hoạch, xây dựng đô thị thông minh và nền tảng số là những trụ cột chính của phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam.

Quy hoạch là nền tảng để tiến hành các giải pháp thông minh, xây dựng tầm nhìn quy hoạch theo hướng “thông minh hơn” là sự phát triển, là điểm mới trong tiến trình xây dựng đô thị thông minh.

Diễn đàn là sự kiện gắn sơ kết 1 năm thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển đô thị thông minh tại Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với các hoạt động trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam.

Các Giải Pháp Phát Triển Đô Thị Thông Minh

Quy hoạch tuy đã được phê duyệt, nhưng còn hiện tượng chạy theo lợi ích nhóm, xây dựng các nhà cao tầng trong khu đất vàng làm tăng mật độ dân cư quá mức dẫn đến ách tắc đô thị thường xuyên. Việc ao hồ, kênh mương không được khơi thông, lại còn bị lấn chiếm, dẫn đến phố xá luôn bị ngập, nhiều nơi phải đi đò trong phố khi mưa lớn.

Hiện nay nhiều thành phố ở nước ta đang muốn xây dựng thành phố thông minh. Vì mô hình thành phố thông minh có thể giúp cho các thành phố lớn giải quyết được không ít các tồn tại gây bức xúc xã hội hiện nay.

Vậy thế nào là thành phố thông minh?

Trước hết muốn xây dựng thành phố thông minh thì phải có hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông sẵn sàng, gồm cả hạ tầng không dây. Đây là những điều kiện cần thiết, vì việc kết nối thông tin không chỉ giữa con người với con người mà còn kết nối giữa con người với vạn vật như: giao thông thông minh, điện thông minh, và tòa nhà thông minh…

Xây dựng đô thị thông minh là hướng đi được nhiều quốc gia phát triển trên thế giới triển khai trong thời gian vừa qua.

Cách đây 5 năm, Hàn Quốc – một trong những quốc gia phát triển ở Châu Á – có sẵn hạ tầng công nghệ thông tin phát triển mạnh đã đầu tư xây dựng và phát triển mô hình thành phố công nghệ tại nhiều thành phố lớn của nước này. Theo đó, người dân được kết nối một cách tối đa, thẻ thông minh được dùng để thanh toán cho tất cả các phương tiện giao thông công cộng, công nghệ GPS (định vị toàn cầu) kết hợp với camera hỗ trợ giám sát ở khắp mọi nơi. Cùng với đó, nước này cũng xây dựng mạng thông tin mở giữa chính quyền và người dân nhằm minh bạch thông tin. Đến nay, Hàn Quốc vẫn tiếp tục xây dựng đô thị thông minh để nâng cao chất lượng sống của người dân và mục tiêu ưu tiên là giảm ô nhiếm môi trường nhờ phát triển năng lượng sạch, tăng diện tích cây xanh, kiểm soát lưu lượng giao thông nhờ công nghệ thông tin. Đây cũng chính là vấn đề đặt ra với các đô thị nói chung, trong đó có các thành phố tại nước ta khi mà tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh kéo theo các vấn đề ùn tắc giao thông, hạ tầng quá tải, hay ô nhiễm môi trường… Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin hướng tới mô hình thông minh được xem là lời giải đúng cho bài toán này.

Quá trình phát triển đô thị thông minh có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1, hiện đại hóa đô thị với các giải pháp công nghệ thông minh. Giai đoạn 2, phát triển đô thị thông minh phục vụ các tầm nhìn mục tiêu của Nhà nước. Và giai đoạn 3, chú trọng sự tham gia của người dân, hướng tới phát triển đô thị thông minh bền vững. Hiện, một số thành phố trong nước đang triển khai ở giai đoạn 2 của tiến trình này.

Đến nay, Tập đoàn VNPT đang hợp tác triển khai đô thị thông minh cho gần 30 tỉnh, thành phố. Sau Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, VNPT cũng vừa ký thỏa thuận hợp tác xây dựng đô thị thông minh cho thành phố Đà Nẵng. Đáng chú ý, cả 3 thành phố trên đều tham gia mạng lưới thành phố thông minh của ASEAN và đó là cơ hội tốt thúc đẩy sự phát triển của thành phố cũng như giúp các đô thị kết nối tốt hơn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của khu vực.

Theo các chuyên gia VNPT là không có một mô hình chung cho tất cả các thành phố, vì mỗi nơi có điều kiện môi trường, văn hóa khác nhau, nên để đưa ra các giải pháp thích hợp nhất cần dựa vào nội tại của chính thành phố đó. Các lĩnh vực trọng tâm được VNPT đề xuất để xây dựng đô thị thông minh cho nhiều tỉnh, thành phố trong thời gian vừa qua đã nhận được đánh giá cao. Đó là chính quyền số, nông nghiệp, du lịch, môi trường và các lĩnh vực khác như an ninh an toàn, quy hoạch đô thị, giáo dục, y tế, giao thông. Cùng với đó, VNPT cam kết sẽ đưa các công nghệ tiên tiến nhất như IoT (Internet kết nối vạn vật), AI (trí tuệ nhân tạo), Big data (dữ liệu lớn)… vào ứng dụng trong các lĩnh vực: giao thông, an ninh trật tự, du lịch, tài nguyên môi trường, nông – lâm – ngư nghiệp…(HNM ngày 29/8/2018)

Với mật độ các loại phương tiện giao thông lớn, trong khi nhiều loại phương tiện giao thông có chất lượng kém vẫn đang được phép lưu hành, nên thải lượng ô nhiễm không khí từ giao thông vận tải đang có xu hướng gia tăng.

Bên cạnh đó, hoạt động xây dựng hạ tầng kỹ thuật giao thông cũng là những nguồn gây ô nhiễm không khí đáng kể. Hoạt động của các máy móc thi công và xây dựng làm phát sinh tiếng ồn, bụi và các chất thải xây dựng. Bên cạnh đó, việc chiếm dụng lòng đường, vỉa hè để xây dựng các công trình sẽ kéo theo nguy cơ ùn tắc giao thông. Điều này sẽ dẫn đến làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm không khí do khói bụi, hơi xăng dầu tại các vị trí ùn tắc.

Đô thị là hạt nhân của một xã hội hiện đại, phát triển đô thị là quá trình gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nói chung và đất đai nói riêng, đồng thời gắn chặt với bảo vệ môi trường. – Trong các giải pháp quy hoạch tổ chức không gian, bố cục cơ cấu chức năng và xây dựng từng công trình thường chỉ hướng tới đô thị hiện đại mà quá ít đầu tư cho cho những đặc thù truyền thống của mỗi dân tộc. – Về xây dựng quan tâm đến khu nhà ở mà chưa quan tâm đến khu vui chơi, trường học,dịch vụ, giao thông tạo nên cho con người dân bao khổ cực không cần có như báo Tiền Phong đã đưa “khổ như chung cư cao cấp” nói về những khổ nhọc của người dân ở chung cư Keangnam – Hà Nội.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức nặng nề, đó là: nhìn chung, nông dân thu nhập còn thấp, mức sống chưa cao, sản xuất nông nghiệp còn quá manh mún, sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu, thiếu hệ thống và chiều sâu; phong cách kỷ luật lao động còn tùy tiện, chạy theo lợi nhuận trước mắt, ít quan tâm đến thương hiệu hàng hóa nông sản ổn định, đồng nhất, rõ ràng về xuất xứ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm…

Nông nghiệp được coi là một trong những lĩnh vực có nhiều cơ hội bứt phá nhất của Việt Nam trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt cơ hội đó, việc triển khai phát triển nông nghiệp thông minh là xu hướng tất yếu. Do vậy, Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) đã đưa ra một số giải pháp giúp ngành Nông nghiệp hiện thực hóa mục tiêu. Để triển khai các ứng dụng nông nghiệp thông minh, đội ngũ kỹ sư của VNPT đã phát triển giải pháp nông nghiệp thông minh (Smart Agriculture) – một giải pháp IoT (internet kết nối vạn vật) được nghiên cứu và phát triển trên nền tảng Smart Connected Platform. Đây cũng được coi là một giải pháp hoàn chỉnh, với đầy đủ các tính năng phục vụ được cho cả lĩnh vực trồng trọt lẫn trăn nuôi.

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Xây dựng ngành thủy sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông.

Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tập trung rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng trong cả nước và trong từng vùng, nhất là giao thông, thủy điện, thủy lợi, đảm bảo sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, xã hội bảo vệ môi trường. Phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, chú trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ … phát triển nhanh các nguồn điện và hoàn chỉnh hệ thống lưới điện, đi đối với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng và bảo đảm cung cấp đủ điện cho nhu cầu phát triển. Hiện đại hóa thông tin – truyên thông và hạ tầng công nghiệp. Phát triển hệ thóng cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh cho đô thị, khu công nghiệp và dân cư nông thôn. Giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lí nước thải ở các đô thị.

Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị nông thôn mới.

Rà soát điều chỉnh bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực tác động lan tỏa đến các vùng khác, đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nam, Tây Nguyên, Tây Bắc, và phía Tây các tỉnh Trung Bộ, một số địa bàn có lợi thế vượt trội, nhất là ven biển, để hình thành một số khu kinh tế làm đầu tàu phát triển. Việc thực hiện các định hướng phát triển phải gắn với các giải pháp về ứng phó với biếu đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng để đảm bảo phát triển bền vững.

Phát triển đô thị: đổi mới cơ chế chính sách, nâng cao chất lượng và quản lý chặt chẽ quy hoạch phát triển đô thị. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường gồm một số thành phố lớn, nhiều thành phố vừa và nhỏ, liên kết và phân bổ hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển.

Xây dựng nông thôn mới: quy hoạch, phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn những nét đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm.

Phát triển toàn diện lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.

Hướng trọng tâm hoạt động khoa học và công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ.

Ví dụ ứng dụng công nghệ để giúp giảm ùn tắc giao thông, quản lý lưu lượng xe lưu thông trên đường từ đó biết được số “điểm nóng” tắc đường, điều chỉnh đèn tín hiệu, phân luồng… thu phí thông minh tại các tuyến đường hay bị tắc vào giờ cao điểm. Có thể nếu đi vào giờ cao điểm thì phải trả phí cao hơn, còn sau giờ cao điểm có thể không thu phí, hoặc thu thấp hơn. Để làm được điều đó thì phải có hệ thống camera và hệ thống cảm biến tự trừ tiền qua thẻ tín dụng được lắp trên xe. Có thể áp dụng các modul có kết nối 3G hoặc 4G với xe máy, ô tô để giúp quản lý lưu lượng xe, phòng chống mất cắp, giải quyết trường hợp tai nạn. Cũng có thể gắn cảm biến vào lốp xe để cảnh báo số kilomet mà xe đã chạy, từ đó khuyến cáo chủ phương tiện thay lốp xe đúng định kỳ, tránh tai nạn do nổ lốp có thể xảy ra (theo kinh nghiệm của Nhật Bản).

Thành phố thông minh cũng có thể ứng dụng công nghệ xây dựng hạ tầng thông minh cung cấp nước sạch, cung cấp điện, chiếu sáng đô thị, thu gom xử lý rác thải, chống thực phẩm bẩn.v.v…

Việc áp dụng công nghệ thông minh giúp cơ quan quản lý và người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc các sản phẩm. Các sản phẩm này muốn bán được ở các siêu thị phải tuân thủ theo quy trình. Người tiêu dùng chỉ cần có điện thoại thông minh hoặc tại siêu thị buộc có thiết bị scan sản phẩm, phần mềm hiển thị nguồn gốc của sản phẩm đó được nuôi trồng ở trang trại nào vùng nào và có đảm bảo quy trình hay không? Muốn vậy phải xây dựng công nghệ điện toán đám mây và triển khai đến tận trang trại, hộ nông dân.

Về xử lý rác thải có thể chọn thùng thu gom rác thông minh, kết nối với trạm thông tin của Công ty thu gom rác qua mạng 3G, 4G. Thùng rác này có công nghệ nén rác tự động và phân loại rác, khi thùng đầy tự động báo về trung tâm, người điều hành nhận biết qua hệ thống và điều xe đến thu gom rác.

Tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông khiến cho việc liên lạc đại chúng dựa trên cơ sở từng cá nhân trở nên đơn giản để có thể thực hành dân chủ thực sự tại mọi cấp. Trong thế giới ảo, nhiều cộng đồng mới đã hình thành do dễ dàng trao đổi quan điểm và ý kiến giữa các thành viên của các cộng đồng.

Một lĩnh vực tiến bộ công nghệ nữa là khoa học công nghệ sinh học. Sự tăng trưởng nhanh chóng của công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin mang tới cho chúng ta một cuộc cách mạng về bản đồ gen, điều được các nhà khoa học cho rằng có thể dẫn tới việc chữa trị được những căn bệnh rất khó điều trị như HIV, ung thư và nhiều bệnh khác. Nhờ đó loài người sẽ có thể sống lâu hơn mà không phải chịu ốm.

Để sẵn sàng cho đô thị thông minh, VNPT sẽ tiến hành nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin – truyền thông của thành phố đó. Trong đó gồm thiết lập nền tảng công nghệ dùng chung, triển khai chính quyền số cùng với việc tiếp tục hoàn thiện chính quyền điện tử, đồng thời lựa chọn các giải pháp ưu tiên trong từng lĩnh vực để triển khai theo lộ trình và thí điểm triển khai dữ liệu mở trên một số lĩnh vực.

Các giai đoạn sau này, VNPT sẽ mở rộng các giải pháp đã triển khai trong giai đoạn trước và nâng cao năng lực xử lý, phân tích dữ liệu theo hướng thông minh hơn và mở ra các lĩnh vực khác của đời sống./.

chúng tôi Nguyễn Đức Khiển Nguyên Giám đốc Sở KH-CN-MT Hà Nội

Kiến Nghị Các Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Xã Hội

(DĐDN) – Tán thành với báo cáo đánh giá chung về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2013, cũng trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2013 sáng nay (27/6), các địa phương đã đưa ra các kiến nghị giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng.

Theo lãnh đạo Hà Nội, tăng sức mua, sức cầu cho thị trường là quan trọng nhất hiện nay. Vì vậy, nên triển khai biện pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng trong ngắn hạn mà trước mắt là nới lỏng tín dụng để làm sao vừa giữ được lạm phát nhưng đồng thời vẫn kích thích được sản xuất, đảm bảo cho doanh nghiệp tiếp cận được và sản phẩm doanh nghiệp đến được người tiêu dùng.

Đối với TP Hà Nội, mặc dù tình hình khó khăn nhưng bám sát tình hình, thực hiện các nghị quyết của Chính phủ; sự nỗ lực vượt khó và linh hoạt trong chỉ đạo điều hành nên kết quả 6 tháng đầu năm khá toàn diện, nổi bật là duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng so với cùng kỳ, quý sau cao hơn quý trước. Tăng trưởng GDP trên địa bàn Hà Nội đạt 7,67%, tăng cao so với mức 6% của cùng kỳ 2012. Ngược lại, CPI thấp hơn 5,76%, mức đầu tư toàn xã hội cũng đạt mức 101 nghìn tỷ VND, tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. An sinh, giáo dục, văn hóa tiếp tục được chú trọng, đầu tư xây dựng nông thôn mới… tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Nam thì cho rằng, với tình hình hiện nay, nếu không huy động, kích cầu đầu tư để đưa vốn vào sản xuất thì khó giải quyết triệt để tình hình. 6 tháng qua, tăng trưởng tiền gửi tăng 8,18%, nhưng tăng trưởng tín dụng đầu tư tăng có 3,34%.

Bên cạnh đó, Quảng Nam đề nghị Chính phủ quan tâm xử lý vấn đề sản phẩm tồn kho bằng các biện pháp kích thích tiêu dùng, đặc biệt là vật liệu xây dựng. Quảng Nam cũng đề nghị tập trung đầu tư cho hạ tầng, đặc biệt là giao thông như các dự án mở rộng Quốc lộ 1A.

Với những kết quả đạt được trong 6 tháng qua, lãnh đạo Thanh Hóa nhìn nhận các biện pháp thực hiện đã và đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, để thời gian tới, các chính sách phát huy được hiệu quả hơn, lãnh đạo tỉnh cũng cho rằng Chính phủ cần chủ trương chỉ đạo NHNN nới rộng hơn tín dụng trong giới hạn đảm bảo kiềm chế lạm phát mà vẫn kích thích được sản xuất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực ngành nghề đảm bảo tiếp cận được vốn.

Kích cầu nội địa vẫn còn khó khăn do đó cần đưa ra một số giải pháp để kích cầu thị trường này, trong đó cần ngăn chặn những sản phẩm hàng hóa nhập khẩu mà trong nước sản xuất được gây khó khăn cho thị trường trong nước.

Đối với địa bàn tỉnh Đồng Nai, lãnh đạo tỉnh kiến nghị với Chính phủ tiếp tục cho ưu đãi đầu tư ở các khu công nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Đối với các mặt hàng mang lại hiệu quả kinh tế cao như cà phê, điều, Chính phủ cũng nên xem xét ưu đãi như đối với mặt hàng gạo.

Đề Tài Các Giải Pháp Chủ Yếu Để Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam

LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam LờI Nói đầu Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nến kinh tế tự nhiên được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế tự cấp tự túc đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Từ sau Đại hội VI đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) được 15 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt khá, năm 1990: 5,1%; 1991: 5,96%; 1998: 5,8%; 1999: 4,8%; 2000: 6,8% và có những năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt rất cao như những năm 1994: 8,84%; 1995: 9,54%; 1996: 9,34%. Các thành tựu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội, Việt Nam luôn được coi là một đất nước của hòa bình và ổn định về chính trị, xã hội , thủ đô Hà Nội được bầu chọn là thành phố hòa bình của khu vực, nhiều hội nghị quốc tế đã và đang được tổ chức ở Việt Nam… tất cả những điều đó đã nói lên sự tin tưởng của bạn bè thế giới đối với đất nước ta. Nhưng bên cạnh sự phát triển, nền kinh tế cũng đã xuất hiện những vấn đề nóng bỏng như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh v.v… chính là những thất bại của KTTT mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải đối mặt. Nhưng với Việt Nam thì việc giải quyết vấn đề này càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều so với các nước khác, bởi, nước ta chủ trương phát triển nền KTTT nhưng là nền KTTT ” định hướng XHCN”, Nhưng, nền kinh tế của chúng ta mới là ” định hướng XHCN”, có thể hiểu như là một sự lai tạp giữa CNTB và CNXH, và đất nước ta vẫn đang trong thời kì quá độ lên CNXH, do đó việc giải quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn. Để giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược nhưng đồng thời cũng là những vấn đề mang tính cấp thiết bức xúc trong giai đoạn hiện nay. PHầN I: lý luận chung về kinh tế thị trường I. Kinh tế thị trường. Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung – tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Kinh tế hàng hoá ra đời là một sự phát triển tất yếu của nền sản xuất – xã hội. Nó đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hoá là sản phẩm tất yếu khách quan của một quá trình lịch sử phát triển lâu dài trên lĩnh vực tổ chức kinh tế của xã hội loài người. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao; là sản xuất để trao đổi gắn liền với phân công lao động xã hội mở rộng và trình độ chuyên môn hoá phát triển gắn liền với hệ thống các loại thị trường; với hệ thống luật pháp bảo đảm cho nền kinh tế phát triển năng động và kỷ cương. 1. Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ của nước ta Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại và phát triển kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết. Bởi vì : – Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn cả chiều sâu. Từ đó sinh ra các mối liên hệ kinh tế, những sự hoạt động lao động xã hội với nhau thông qua hình thức mua – bán, trao đổi hàng hoá. – Tồn tại khách quan nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên cơ sở một số hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất – với tư cách là những chủ thể kinh tế khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên họ phải phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện thông qua sự trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường. – Kinh tế thị trường còn là sự cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà nền kinh tế các nước ngày càng có tính quốc tế hoá cao; các nước ưu tiên dành cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. 2. Tác dụng của nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất – kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ – xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. 3. Những tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta – Nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, có trình độ tay nghề và năng lực lao động khá cao. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi và là một nguồn lực chủ yếu có tính chất quyết định để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng hiện nay lực lượng lao động đó chưa được sử dụng một cách đầy đủ và hợp lý. – Cơ sở vật chất – kỹ thuật và trình độ công nghệ mặc dù chưa lớn, chưa đồng bộ, chưa hiện đại, nhưng với những gì mà chúng ta đã có, nếu biết tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn, thì chắc chắn đây là một khả năng hết sức to lớn để phát triển kinh tế thị trường. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới là điều kiện tốt để ta có thể tiếp thu và ứng dụng, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. – Các tiềm năng về khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý… khá thuận lợi, dồi dào phong phú. – Nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư để phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế hàng hoá nói riêng đang tăng lên với tốc độ khá nhanh và quy mô lớn. – Thị trường trong nước giàu tiềm năng, thị trường ngoài nước ngày càng được mở rộng cùng với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá và tự do thương mại thế giới. Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá ở nước ta trong thời kỳ quá độ chẳng những là một tất yếu cần thiết mà nước ta còn có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh điều này. II. Những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay 1. Đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta a. Phát triển nền kinh tế hàng hoá trên cơ sở của một nền kinh tế kém phát triển – Nhìn chung, nước ta còn nghèo và kém phát triển. Nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cấp, tự túc, kinh tế hàng hoá còn ở trình độ thấp. Cơ sở vật chất – kỹ thuật và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế lạc hậu, thiếu đồng bộ… – Năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế kém: khối lượng hàng hoá chưa lớn, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, tỷ suất hàng hoá chưa cao, xuất khẩu thô chiếm tỉ lệ lớn. Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu từ nông nghiệp, hàng hoá công nghiệp và dịch vụ thấp, mất cân đối cán cân xuất – nhập khẩu, chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành sản phẩm cao. – Trình độ tổ chức và quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô bị hạn chế và non yếu trên nhiều mặt. .. b. Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế Đường lối của Đảng ta đã khẳng định: “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”1. Nền kinh tế hàng hoá có nhiều thành phần tham gia, mỗi thành phần có quyền bình đẳng trước pháp luật. Chúng có vị trí, vai trò, bản chất khác nhau trong nền kinh tế quá độ, nhưng chúng đều là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đặc điểm này, đặt ra cho nhà nước – với tư cách là người quản lí vĩ mô – cần tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những hiện tượng tiêu cực của xã hội. c. Nền kinh tế hàng hoá ở nước ta phát triển trong xu thế kinh tế “mở” Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đang phát triển trong xu thế “mở”. Với điểm xuất phát thấp như nước ta thì tranh thủ nguồn lực bên ngoài là vấn đề quan trọng. Vì vậy, phải có chính sách rộng mở và khôn khéo, cách làm có hiệu quả để mở rộng hợp tác với bên ngoài, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế trong nước và cũng là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Thông qua quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta có thể giải quyết được về nguồn vốn, về khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại; về thị trường tiêu thụ hàng hoá; về kinh nghiệm tổ chức quản lý. .. 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb .Chính trị quốc gia, Hà nội,2001, tr.86) Nhưng cũng cần thấy được tính chất hai mặt của chính sách kinh tế mở (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Cho nên, khi hoạch định chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đối ngoại, chúng ta cần quán triệt điều đó. d. Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng vốn có của nó đã gây ra những tác động tiêu cực và để lại những hậu quả nặng nề đối với các vấn đề kinh tế – xã hội. Vì vậy, chúng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế lỗi thời đó, đồng thời phải từng bước xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hiện nay, về cơ bản cơ chế cũ đã được xoá bỏ, nhưng chưa thật triệt để; cơ chế mới đã được hình thành và đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhưng chưa thật hoàn thiện và vững chắc. Điều đó nói lên tính chất khó khăn, phức tạp của giai đoạn quá độ từ cơ chế cũ sang cơ chế mới. 2. Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN) có những đặc trưng sau: – Mục đích phát triển nền KTTT định hướng XHCN là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH nâng cao năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. – Nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế Tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế. – Nền KTTT định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi – Nền KTTT định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN. PHầN II: thực trạng nền kinh tế thị trường ở Nước ta hiện nay. I. Những thành tựu chủ yếu: Tốc độ tăng của một số ngành và một số lĩnh vực kinh tế 2001-2004 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số báo cáo Quốc hội tháng 10/2004 Số ước cuối năm (12/2 004) – Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) (%) 6,9 7,1 7,3 7,6 7,7 – Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%) 14,6 14,8 16,0 15,6 16,0 – Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp (%) 4,7 6,5 4,9 4,9 5,4 – Tốc độ tăng giá trị các ngành dịch vụ (%) 6,10 6,54 7,2 8,0 8,2 Nguồn: Tổng cục thống kê Kết quả thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2004 như sau: (1) Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 7,7% (kế hoạch là 7,5 – 8%), trong đó khu vực nông, lâm ngư nghiệp tăng 3,3%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, khu vực dịch vụ tăng 7,3%. (2) Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,9% so với năm 2003 (kế hoạch là 4,6%); (3) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,6% (kế hoạch là 15%); (4) Giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 8% (kế hoạch là 8%); (5) Kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng gần 24% (kế hoạch là 12%); (6) Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt 11,8% dự toán năm, bằng 23,5% GDP1 và tăng 17,4% so với thực hiện năm 2003; (7) Tổng chi Ngân sách nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng, vượt 9,8% so với dự toán năm; (8) Bội chi ngân sách nhà nước là 5% GDP, bằng dự toán đề ra; (9) Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 35,4% GDP (kế hoạch đề ra là 36%); (10) Giá hàng tiêu dùng tăng 9,5% (kế hoạch đề ra là dưới 5%); (11) Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,55 triệu người, đạt kế hoạch; (12) Số học sinh học nghề tuyển mới tăng 7%, đạt kế hoạch; (13) Tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,3%, so với kế hoạch là dưới 10%; (14) Tỷ lệ sinh giảm 0,037%, (kế hoạch là 0,04%); (15) Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 26%, đạt kế hoạch. Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế – xã hội 3 năm 2001 – 2003 và kết quả thực hiện kế hoạch năm 2004 như trên, có thể đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ 4 năm 2001 – 2004 so với kế hoạch 5 năm như sau: 1- Kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế trong 4 năm qua duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001 – 2004 khoảng 7,2% (năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%); tuy thấp hơn 0,3% so với mức kế hoạch bình quân chung 5 năm 2001 – 2005; nhưng trong điều kiện khó khăn cả ở trong và ngoài nước thì mức tăng trưởng đạt được trong 4 năm qua là một cố gắng rất lớn; đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 – 2004) là 5,2% (kế hoạch là 4,8%). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm (GDP nông nghiệp) dự kiến chỉ đạt khoảng 3,4%, thấp hơn mục tiêu đề ra (mục tiêu 5 năm là 4%/năm). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 – 2004) tăng 15,3%, (kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là 13,1%). Tuy nhiên, do chi phí sản xuất còn cao nên giá trị tăng thêm của công nghiệp bình quân 4 năm chỉ đạt 10%, thấp hơn kế hoạch (kế hoạch 5 năm là 10,4%). Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 4 năm khoảng 7,2%, thấp hơn so với mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 đề ra là 7,5%. Giá trị tăng thêm bình quân 4 năm đạt 6,6% (mục tiêu kế hoạch 5 năm là 6,8%). Tính chung 4 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm là khoảng 14,6% (năm 2001 tăng 4,1%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 24%) (kế hoạch 5 năm là 104 – 110 tỷ USD, tăng 14 – 16%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển. Trong 4 năm 2001-2004, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1% GDP so với 40% năm 2003. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có xu hướng phục hồi, dự kiến đạt 38,5% so với 38,2% năm 2003. Trong nội bộ ngành nông, lâm, ngư nghiệp cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004. Trong khi đó tỷ trọng của ngành thủy sản vẫn có xu thế tăng lên, từ 18,4% năm 2003 lên 19,5% năm 2004. Cơ cấu ngành công nghiệp có nhiều tiến bộ, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tác vẫn duy trì xu hướng tăng lên, giá trị tăng thêm của ngành từ 61% năm 2003 tăng lên 61,5% vào năm 2004; trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp khai thác giảm từ 27,7% năm 2003 xuống còn 26,5% năm 2004. Điều này chứng tỏ ngành công nghiệp đang đi vào hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn. Cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…. Các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng của ngành thương nghiệp tăng từ 36% năm 2003 lên 36,5% năm 2004. Các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến được nâng dần qua các năm (Năm 2000, hàng qua chế biến chiếm 44,2% tổng giá trị xuất khẩu, năm 2001: 46,7%; năm 2002: 50,4%; năm 2003: 55%; năm 2004: 57%). 2- Vốn đầu tư phát triển và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể. Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế-xã hội khác vào cuộc sống. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001 – 2004 (tính theo giá 2000) khoảng 731 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 14,7%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trự

Bạn đang xem bài viết Phát Triển Đô Thị Thông Minh Để Giải Quyết Các Thách Thức Kinh Tế Xã Hội trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!