Cập nhật thông tin chi tiết về Quản Lý Sinh Vật Ngoại Lai Để Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Tại Vườn Quốc G mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sinh vật NLXH trước hết là những loài không có nguồn gốc bản địa. Khi được đưa đến một môi trường mới, một loài ngoại lai có thể không thích nghi được với điều kiện sống và do đó không tồn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, do thiếu vắng các đối thủ cạnh tranh và thiên địch như ở quê nhà cùng với điều kiện sống thuận lợi, các loài này có điều kiện sinh sôi, nảy nở rất nhanh và đến một lúc nào đó phá vỡ cân bằng sinh thái bản địa và vượt khỏi tầm kiểm soát của con người. Lúc này nó trở thành loài ngoại lai xâm hại.
Theo thống kê không đầy đủ, chúng ta có tới 94 loài sinh vật NLXH. Trong số đó, có một số loài đã gây ảnh hưởng nặng nề tới môi trường và kinh tế của người nông dân trên khắp cả nước. Có thể kể đến các loài NLXH đã thành đại dịch, như: ốc bươu vàng, cây trinh nữ thân gỗ (cây mai dương), bèo lục bình Nhật Bản…
Vườn quốc gia Xuân Sơn được giao quản lý với tổng diện tích 15.048 ha trên địa bàn 06 xã thuộc huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Vùng đệm của Vườn hiện có 29 cộng đồng thôn (bản) đang sinh sống, với 12.559 người, 2.908 hộ, trong đó vùng đệm trong có 9 thôn/bản với 794 hộ. Do vậy, trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như sinh hoạt hàng ngày vô tình đã để các loài ngoại lai xâm hại phát tán trên địa bàn. Trước thực trạng và nguy cơ xâm hại của các loài sinh vật ngoại lại có nguy cơ ảnh hưởng đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học trên địa bàn. Năm 2019, Vườn quốc gia Xuân Sơn đã phối hợp với Sở tài nguyên và Môi trường triển khai nhiệm vụ Điều tra phân bố của sinh vật ngoại lai xâm hại và đề xuất các biện pháp ngăn ngừa, kiểm soát nhằm bảo tồn đa dạng sinh học,bảo vệ môi trường tại Vườn quốc gia Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ”
Trong quá trình triển khai thực hiện đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp điều tra, thu thập thông tin và đánh giá thực tế tại Vườn quốc gia Xuân Sơn đã ghi nhận xác định được 06 loài sinh vật ngoại lai xâm hại, trong đó 05 loài thực vật thuộc 04 bộ, 04 họ của 2 ngành thực vật và 01 loài động vật theo quy định tại thông tư 35/2018/TTLT-BTNMT-BNNPTNT ngày 28/12/2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về tiêu chí xác định và ban hành dạm mục loài ngoại lai xâm hại, cụ thể như sau:
Stt
Tên KH
Tên Việt Nam
Nguồn gốc
1
Eichhornia crassipes Mart Solms,1883
Cây Bèo lục bình
Nam mỹ
2
Mimosa pigra Linnaeus, 1758
Cây Mai dương
Nam Mỹ
3
Mimosa diplotricha Wright, 1869
Cây trinh nữ móc
Châu Mỹ
4
Agratum conyzoides Linaeus, 1758
Cây Cỏ hôi
Châu Mỹ
5
Chromoleana odorata Linaeus, 1758
Cây Cỏ lào
Châu Mỹ
6
Pomea canaliculata
Ốc bươu vàng
Châu mỹ,
Nam mỹ
Trong 6 loài tìm được đều có nguồn gốc từ châu Mỹ và có 3 loài có diện tích xâm hại cao với mật độ và phân bố trên diện rộng là Cỏ hôi, Cỏ lào, Ốc bươu vàng
Dựa trên đặc điểm điều kiện tự nhiên, đặc điểm sinh học, sinh thái của các loài thực vật NLXH cùng với mức độ nhận thức, hiểu biết, sự quan tâm của người dân đối với các loài sinh vật ngoại lai xâm hại, các tác giả đề xuất các giải pháp quản lý, phòng diệt cụ thể đối với các loài thực vật NLXH hiện đang phát triển trên diện rộng tại Vườn quốc gia Xuân Sơn.
Với những kết quả đạt được, làm cơ sở để thực hiện các biện pháp quản lý, giám sát và tuyên truyền cho cộng đồng người dân vùng đệm của Vườn quốc gia để kịp thời nhận biết và thực hiện các biện pháp phòng trừ kịp thời hạn chế các thiệt hại đối với sản xuất nông lâm nghiệp và góp phần quan trọng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Ảnh: Cây Mai dương – một loài sinh vật ngoại lai xâm hại tại VQG Xuân Sơn
Bài: Đinh Tấn Quyền – VQG Xuân Sơn
Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học
Đa dạng sinh học và hệ sinh thái cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, đặc biệt là các dịch vụ điều tiết và hỗ trợ, giúp con người thích ứng với các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và rủi ro thiên tai…
Báo động suy giảm đa dạng sinh học
Trên Trái Đất có vô vàn loài động, thực vật khác nhau, cùng chung sống và tác động lẫn nhau, tạo nên sự đa dạng của hệ sinh học. Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp.
Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình.
Voi nhà được nuôi dưỡng theo hình thức bán hoang dã tại khu rừng thuộc địa bàn xã KRôngNa, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Còn giá trị gián tiếp là những lợi ích bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
Có thể kể một vài ví dụ như các rạn san hô và thảm thực vật ven biển hỗ trợ chắn sóng và bảo vệ bờ biển; các vùng đất ngập nước điều tiết dòng chảy lũ; rừng và cây rừng ổn định trầm tích, bảo vệ khỏi sạt lở đất. Các hệ sinh thái cũng kéo dài tuổi thọ của cơ sở hạ tầng, do đó tiết kiệm chi phí đầu tư…
Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học – nguồn tài nguyên quý giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người, đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai, các hậu quả cực đoan về khí hậu.
Rừng tràm Trà Sư hiện có hệ sinh thái, cảnh quan rừng tràm trên đất ngập nước tiêu biểu vùng Tây sông Hậu. (Ảnh: Thanh Sang/TTXVN)
Cuối cùng, hệ thống kinh tế sẽ bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường.
Có hai nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người. Trong đó, từ giữa thế kỷ 19 đến nay, các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng, làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng.
Điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt, làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh, cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học.
“Giải pháp của chúng ta sẵn có ở thiên nhiên”
Trước tình trạng đa dạng sinh học trên toàn cầu bị suy thoái với tốc độ chưa từng có trong lịch sử loài người (IBPES, 2019), Liên hợp quốc đa kêu gọi áp dụng các “Giải pháp của chúng ta sẵn có ở thiên nhiên” nhằm thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học, sống hài hòa với thiên nhiên, đóng góp chung vào nỗ lực toàn cầu trong bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Lực lượng Kiểm lâm phối hợp với lực lượng quản lý rừng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Buôn Đôn đi tuần tra bảo vệ rừng trên địa bàn xã KRôngNa, huyện Buôn Đôn. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Giải pháp dựa vào thiên nhiên, đi kèm đó là bảo tồn đa dạng sinh học, phù hợp với Công ước Đa dạng sinh học năm 1992, vốn nhấn mạnh: con người là một phần của thiên nhiên chứ không tách rời khỏi thiên nhiên.
Đây cũng là chìa khóa để giảm nhẹ biến đổi khí hậu, tăng khả năng phục hồi và thích ứng ở một số khu vực quan trọng. Các khu vực này bao gồm bảo tồn, phục hồi rừng và các hệ sinh thái trên cạn; bảo tồn và phục hồi tài nguyên nước ngọt, hệ sinh thái biển và đại dương, cũng như hệ thống nông nghiệp và thực phẩm bền vững – nơi chiếm phần lớn diện tích Trái đất và tác động trực tiếp đến cuộc sống con người.
Giải pháp dựa trên thiên nhiên là biện pháp tiếp cận thay thế các phương pháp truyền thống đối với các vấn đề môi trường. Phương pháp truyền thống trong phát triển cơ sở hạ tầng được gọi là “xám” – là thiết lập các cấu trúc dựa trên xây dựng và nhân tạo. Trong khi các giải pháp dựa trên tự nhiên bao gồm cơ sở hạ tầng tự nhiên; xanh; hoặc tích hợp; hoặc kết hợp cả 3 yếu tố.
Ví dụ, việc xây dựng các công trình biển, hồ chứa, đập và hệ thống thoát nước, từ lâu thường dựa trên cách tiếp cận “xám.” Tác động của nó có thể gây ra một số phản ứng tiêu cực, gia tăng rủi ro về biến đổi khí hậu, thay đổi môi trường và làm suy giảm một số giống loài.
Tại trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp Cúc Phương (Ninh Bình), trước khi thả hẳn về môi trường tự nhiên, các loại linh trưởng quý sẽ được làm quen với môi trường bán hoang dã. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)
Tuy nhiên, khi áp dụng các giải pháp dựa trên thiên nhiên, những rủi ro này có thể được loại trừ. Thay vì xây đập hay đào hồ, chúng ta khôi phục và bảo tồn các rạn san hô, các vành đai rừng ngập mặn để tăng cường khả năng chống chịu lũ lụt ven biển và nước biển dâng, là tuyến phòng thủ đầu tiên giúp tiêu tán năng lượng sóng.
Việc gây dựng các thảm thực vật có thể giảm nguy cơ sạt lở, tạo các vành đai xanh để bổ sung nước ngầm ở những khu vực khô hạn, khan hiếm nước… Đây chính là cách áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, tiếp cận hệ sinh thái để giải quyết các thách thức về môi trường, khí hậu và phát triển kinh tế.
Việt Nam nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học
Việt Nam là một trong những nước có đa dạng sinh học cao với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu. Địa hình và khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo ra sự đa dạng của các hệ sinh thái tự nhiên, trong đó hệ sinh thái rừng, đồng cỏ, các vùng đất ngập nước nội địa, đụn cát, bãi triều, cửa sông, thảm cỏ biển và rạn san hô, vùng biển sâu…
Lực lượng quản lý, bảo vệ rừng Vườn quốc gia Yok Đôn kiểm đếm gỗ bị bắt giữ. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Tuy nhiên những năm qua, những hoạt động như khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng đánh bắt thủy sản chưa hợp lý… khiến nguồn tài nguyên sinh học ở nước ta không ngừng suy giảm.
Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học ngày 17/10/1994. Từ đó đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đó là xây dựng được hệ thống các cơ quan quản lý, khung chính sách và pháp luật về đa dạng sinh học; hệ thống các khu bảo tồn đã được thành lập; các loài động thực vật nguy cấp quý hiếm được bảo vệ bằng pháp luật và thông qua các chương trình hành động; tiếp thu, đẩy mạnh thực hiện các vấn đề mới của bảo tồn đa dạng sinh học như an toàn sinh học, tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích có được từ việc sử dụng nguồn gene…
Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học ngày 17/10/1994. Từ đó đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đặc biệt là nhận thức về tầm quan trọng, vai trò của đa dạng sinh học đối với cuộc sống và phát triển bền vững đất nước ngày càng được nâng cao.
Việt Nam cũng khuyến khích áp dụng các giải pháp công trình để có hiệu quả và bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường tự nhiên; thúc đẩy việc thực hiện các mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững, áp dụng tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tổng hợp đới bờ, lưu vực sông, quản lý rừng bền vững, chú trọng vai trò và quyền lợi của cộng đồng.
Vẻ đẹp của một góc đảo Cù Lao Chàm nhìn từ trên cao. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
Điển hình như Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm, sau hơn 10 năm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, đã bảo tồn khá nguyên vẹn giá trị hệ sinh thái rừng, biển, thể hiện ở sự đa dạng về loài và nguồn gene.
Các hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển, rong biển được bảo tồn khá tốt. Tại vùng lõi Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm, người dân từ khai thác chuyển sang bảo vệ, đồng hành như những cán bộ bảo tồn thực thụ.
Từ chỗ người dân bắt rùa, thu trứng rùa để ăn, thì nay đã chung tay, góp sức trong công cuộc tái phục hồi và bảo vệ loài bò sát cổ quý hiếm này. Có một thời gian, san hô bị khai thác để làm cảnh, làm vật liệu xây dựng, thì nay người dân đã chủ động thực hiện trọn vẹn công nghệ phục phồi san hô.
Từ chỗ cua đá bị khai thác bừa bãi, đến nay nguồn lợi này đã được quản lý, khai thác, bảo tồn một cách hiệu quả với sự vào cuộc của đại diện bốn lực lượng gồm nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và người dân địa phương.
Hưởng ứng Ngày quốc tế Đa dạng sinh học năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam đã có những chỉ đạo nghiên cứu và áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, tiếp cận hệ sinh thái trong quá trình xây dựng các quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh./.
Rừng tràm Trà Sư nhìn từ trên cao xuống. (Ảnh: Thanh Sang/TTXVN)
Share this:
Tweet
Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Ở Việt Nam
Bài Thuyết TrìnhBộ Môn : Đa Dạng Sinh HọcGVHD: Th.S Văn Hồng ThiệnNhóm TH: Nhóm 6MLHP : 210518301 DANH SÁCH NHÓMĐề TàiBảo tồn đa dạng sinh học ở Việt NamTổng quan đề tài– Kết luận và kiến nghị.
Khái quát sự đa dạng sinh học tại Việt Nam và những thực trạng hiện nay. – Nguyên nhân suy giảm và Biện pháp bảo tồn.– Mục tiêu của việc bảo tồn.Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới vùng giáp cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Khái quát sự đa dạng sinh học tại Việt Nam và những thực trạng hiện nay. Các kiểu rừng phân bố tại Việt NamBiểu đồ thể hiện hệ thống các loài động vật phân bố ở Việt NamLoài linh trưởng ở Việt NamSự có mặt, sự tồn tại và phát triển của các quần thể Linh trưởng phụ thuộc vào khả năng sinh trưởng và phát triển của thực vật rừng. Chính vì vậy, thú Linh trưởng được coi là sinh vật chỉ thị đối với chất lượng rừng còn tốt.H1. Vooc Đầu Trắng H3. Chà vá chân đenH2. Vooc đen Hà TĩnhPhản ánhẢnh hưởngMối liên hệ giữa loài Linh Trưởng và RừngHiện nay, loài Linh trưởng Việt Nam đều đang bị đe doạ ở các mức độ khác nhau:1234Mức độ đe dọa tăng dầnSự giảm sút độ che phủ và chất lượng của rừngDiện tích rừng toàn quốc đã giảm từ chỗ năm 1943 chiếm 41% thì đến năm 1991 chỉ còn 28% tổng diện tích cả nước, trong đó chỉ còn 10% là rừng nguyên thủy. Miền Bắc Việt Nam đã chứng kiến sự sa sút lớn nhất về độ che phủ của rừng, giảm từ 95% đến 17% trong vòng 48 năm. Ở nhiều tỉnh độ che phủ còn lai rất thấp, ví dụ ở Lai Châu chỉ còn 7.88%, ở Sơn La 11.95% và ở Lào Cai 5.38%.
Mục Tiêu Của Việc Bảo TồnTìm hiểu những tác động tiêu cực do các hoạt động của con người gây ra đối với các loài, quần xã và các hệ sinh thái.H4. Tê giác bị cắt trộm sừng bởi con người.Hạn chế sự tuyệt diệt của các loài và cứu các loài đang bị đe dọa bằng cách đưa chúng hội nhập trở lại các hệ sinh thái đang còn phù hợp đối với chúng.H5. Tê giác Java – Loài được khẳng định là hiện diện tại VQG Cát TiênSinh học bảo tồn ra đời vì các khoa học ứng dụng truyền thống không còn đủ cơ sở để giải thích những mối đe dọa cấp bách đối với đa dạng sinh học.H6. Nạn phá rừng tăng làm mất nơi ở của nhiều loàiH7. Nạn săn bắt thú rừng bừa bãi làm cho nhiều loài bị tuyệt chủng.Nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý động vật hoang dã, sinh học thủy sản,… chủ yếu quan tâm đến vấn đề xây dựng các phương pháp quản lý một số ít các loài có giá trị kinh tế và làm cảnh. Những khoa học này thường không đề cập đến việc bảo vệ tất cả các loài có thể có trong các quần xã sinh vật, hoặc chỉ đề cập như là vấn đề không quan trọng.Sinh học bảo tồn bổ sung các nguyên tắc ứng dụng bằng cách cung cấp phương pháp tiếp cận có tính chất lý thuyết tổng thể cho việc bảo tồn đa dạng sinh học.Sinh học bảo tồn khác với các khoa học khác ở chỗ là bảo tồn một cách lâu dài toàn bộ các quần xã sinh vật là chính, các yếu tố kinh tế thường là thứ yếu.H8. Chà Vá Chân NâuCác hình thức bảo tồn đa dạng sinh họcBảo tồn nguyên vị ( Insitu Conversation )– L b?o v? t?i noi lồi dang s?ngH9. Sếu đầu đỏ – Loài đang được bảo tồn nguyên vị– Ch tr?ng d?c bi?t l cc lồi cy c? truy?n v hoang d?iH10. Cây SưaH11. Cây Cẩm Lai– Lo?i hình ph? bi?n l xy d?ng cc khu b?o t?nH12. Khu Bảo Tồn TN Xuân Thủy( Nam Định )H13. Khu Bảo Tồn ĐNN Láng Sen ( Long An )Bảo tồn nguyên vị có 3 mức độ (Brian Groombridge, 1992)Bảo tồn chuyển vị ( Exsitu Conservation)Động VậtThực VậtVườn ThúTrang trại nuôi động vậtThủy cungCT nhân giống động vậtVườn thực vậtVườn cây gỗNgân hàng giống- gene1234123Bảo Tồn Chuyển Vị Động Vật– Bảo tồn các vi khuẩn qúy hiếm, có giá trị đối với con người.– FAO có dự án 5 năm bảo tồn nguồn gen động vật dài 5 năm (1982 – 1987).H14. Lợi Khuẩn Lactobaccillus casei ShirotaH15. Nuôi cấy tế bào gốc nhung hươuH16. Nhân bản động vật bằng công nghệ tế bào gốcHiểu biết ĐDSHBảo TồnTăng sử DụngKhảo sát phân vùng địa lí sinh họcĐặc điểm Hình Thái Phân LoạiĐánh giáNông nghiệpTham giaNghiên cứu tiến hóaDi truyềnTác động của con ngườiEx situHST tự nhiênHST trong NNNgân hàng geneSinh lý hạtTái sinhNgân hàng Gene ở hiện trườngQuản lýChi phí thấpKĩ thuật mớiPhát triểnNC KT – XHQL trang trạiQL TN & MTXĐ & giảm các đe dọaQL HST T.NhiênKhôi Phục loài có KH khôi phụcCS và phân chia bình đẳngCung cấp giốngCung cấp thông tinTham gia lai tạoQL các vật liệu di truyềnBảo Tồn Chuyển Vị Thực VậtVườn Thực VậtVườn thực vật (Botanic Garden): Có khoảng 1500 vườn thực vật trên thế giới nhưng chỉ có khoảng 800 vườn có bảo tồn cây.H17. Các vườn thực vật Vườn Cây GỗH18. Các cây gỗ trong Vườn Cây GỗNgân hàng giống – geneNgân hàng gen ở thực địa (Field Gene Bank) : là một vùng đất mà trong đó các loài cây sưu tập được trồng để lưu trữ tính đa dạng di truyền để có nguyên liệu có sẳn để phục vụ công tác lai tạo, nghiên cứu ….Thường áp dụng cho cây lâu năm, cây bụi mà không có đủ để bảo tồn trong tự nhiên mà cần thời gian lâu mới thu hoạch giống (thường cây LN)H19. Các loại hạt giống quý được lưu trữH20. Các loại hạt giống quý được lưu trữH21. Các loại hạt giống quý được lưu trữSự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt.Nguyên nhân suy giảm và Biện pháp bảo tồn.H22. Rừng bị tàn phá để lấy gỗ.Chiến tranh cũng là những nguyên nhân làm rừng của Việt Nam bị thu hẹp lại nhanh nhất. H24. Những cánh rừng trụi lá ở Việt Nam.
H23. Máy bay đang rải chất độc diệt lá xuống Việt Nam trong Chiến tranh.
Nguyên nhân quan trọng nữa gây nên sự tổn thất đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới, đó là sự mâu thuẫn giữa cung và cầu. H25. Khi cung < cầu Sinh thái bị phá hoại nặng nềTài nguyên thiên nhiên thì có hạn mà nhu cầu của con người thì ngày càng tăng, một mặt là để đáp ứng cuộc sống cho dân số tăng nhanh, và mặt khác là mức độ tiêu dùng của mỗi người cũng tăng lên không ngừng.H26. Ngà voi bị khai thác quá mứcH27. Mật gấuH28. Sừng tê giácCon người đốt rừng làm nương, rẫy trên các sườn dốc và cũng đã gây tác động đáng kể vào việc thu hẹp diện tích rừng ở nhiều nơi.H29. Nạn phá rừng ngày càng tăngCháy rừng cũng là nguyên nhân làm diện tích rừng cũng như sự đa dạng bị suy thoái.H30. Những cánh rừng bị cháyBiện pháp bảo tồn.
Biện Pháp Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Trong Canh Tác Nông Nghiệp
1/ Thế nào là đa dạng sinh học trong nông nghiệp
Đa dạng sinh học là sự phong phú các sinh vật và các phức hợp sinh thái mà sinh vật đó là một thành phần, bao gồm sự đa dạng trong nội bộ các loài (đa dạng gen), đa dạng các loài, và các hệ sinh thái.
Đa dạng sinh học là nền tảng của nông nghiệp, là nguồn gốc và sự phong phú của mọi giống cây trồng và vật nuôi.
Đa dạng sinh học nông nghiệp còn là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân tạo.
2/ Vai trò, ý nghĩa của đa dạng sinh học trong nông nghiệp
Cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết để sống,cung cấp cơ sở để sản xuất lương thực và hàng loạt những sản phẩm phi lương thực khác như: các nguyên vật liệu cho cuộc sống hàng ngày, thuốc chữa bệnh, tạo nguồn thu nhập,…
Làm cơ sở trợ giúp cho việc sản xuất lương thực thông qua các hiện tượng như sự thụ phấn, kiểm soát sinh học các loài dịch hại, bệnh và làm đất màu mỡ do chu trình các chất dinh dưỡng.
Tạo thu nhập cho người dân sống quanh hệ sinh thái (hệ sinh thái rừng ngập nước, hệ sinh thái nước lợ,..)
Cung cấp thực phẩm, lương thực thiết yếu cho con người.
Cung cấp nguyên vật liệu cho ngành xây dựng, xuất khẩu gỗ.
Cung cấp dược liệu chữa bệnh cho con người.
Tạo ra các giá trị văn hóa, xã hội.
Mang lại các giá trị thẩm mĩ.
Là môi trường sống, sinh trưởng phát triển thuận lợi của các loài thiên địch.
3/ Biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học trong phát triển nông nghiệp
Bảo vệ và kích thích sự phát triển của các loài thiên địch của sâu bệnh hại, duy trì cân bằng sinh thái. Áp dụng biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp.
Chỉ dùng thuốc trừ sâu bệnh ít độc hại nhất đủ để kiểm soát dịch hại trong trường hợp cần thiết. Thông thường (nhưng không phải luôn luôn) thì các loại thuốc trừ sâu thảo dược ít độc hại hơn các loại thuốc hoá học. Nhưng vẫn phải luôn nhớ rằng ngay cả thuốc trừ sâu thảo dược cũng nguy hiểm đối với môi trường. Nên chỉ sử dụng thuốc trừ sâu bệnh sinh học và kích thích tính kháng sâu bệnh của cây trồng.
Cố gắng sử dụng đến mức tối đa các loại phân hữu cơ.
Không phun thuốc trừ sâu vào các khu ruộng để hoang.
Khi thu hoạch, chỉ lấy những phần quan trọng cần thiết của cây cối, để lại những phần không cần thiết. Không đốt chất phế thải của cây trồng mà tận dụng để che phủ đất trồng
Các lớp mùn che phủ bảo vệ đa dạng sinh học đất, hãy dùng đến mức tối đa các lớp phủ.
Đảm bảo đất luôn được che phủ bởi cây cỏ xanh hay các lớp thân cây để bảo vệ đất khỏi mưa, nắng, và gió.
Khi để hoang hay khi chỉ có trồng trọt thưa thớt trên cánh đồng, bố trí các đống rạ, thân cây trên cánh đồng để làm nơi trú ẩn cho các loài sinh vật có ích tránh khỏi thời tiết khắc nghiệt và các loài ăn thịt khác.
Để lại một vài cây gỗ to (và cả những cây nhỏ) trên đất nông nghiệp. Không chặt hết trừ khi có một nguy cơ cụ thể. Cố gắng để có nhiều loại cây gỗ khác nhau, không chỉ để một loài. Gìn giữ những cây thân gỗ có nhiều hoa vì chúng rất quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp.
Duy trì nhiều loại cây phong phú, đặc biệt là các giống cây có hoa và đa dạng về chủng loại trên các bờ ruộng, mương liếp để tăng sự đa dạng sinh học.
Rơm rạ và các phế phẩm nông nghiệp khác có thể vứt ở trên bờ để tạo sinh cảnh cho những loài côn trùng có ích, ví dụ như loài nhện.
Tổng hợp
Người biên tập: Vân Hồng
Tags: Canh tác nông nghiệp
Bạn đang xem bài viết Quản Lý Sinh Vật Ngoại Lai Để Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Tại Vườn Quốc G trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!