Cập nhật thông tin chi tiết về Rõ Hơn Giải Pháp Bảo Đảm An Sinh Xã Hội mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Theo tôi, cùng với việc tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, thì định hướng chính sách đối với hộ mới thoát nghèo để chống tái nghèo cần được thành phố tăng cường. Chẳng hạn như việc bổ sung các nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, hỗ trợ sản xuất, vay để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng… Giải pháp huy động, tạo nguồn lực hỗ trợ đào tạo nâng cao tay nghề cho lao động trong các gia đình thuộc hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo hoặc có nguy cơ rơi vào cảnh nghèo nên được bổ sung vào dự thảo Báo cáo chính trị.
Phó Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội Hoàng Thành Thái: Củng cố mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức
Dự thảo Báo cáo chính trị đã đề cập tương đối đầy đủ về nội dung bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Nổi bật là giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ thất nghiệp thành thị ở Hà Nội giảm còn 2,21%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70,2%. Chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo được hoàn thành sớm 2 năm và Hà Nội cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều…
Tuy nhiên, những năm gần đây, đặc biệt là từ đầu năm 2020 đến nay, Hà Nội bị tác động, ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô chung sức, đồng lòng đẩy lùi dịch bệnh, hỗ trợ kịp thời cho người dân bị ảnh hưởng. Đến thời điểm này, toàn thành phố đã hỗ trợ hơn 400.000 người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, với kinh phí hơn 500 tỷ đồng. Các tổ chức, cá nhân chung tay giúp đỡ hàng vạn lượt người vượt qua giai đoạn gian khó. Nhờ đó, Hà Nội vẫn thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo.
Từ thực tế, tôi đề nghị dự thảo Báo cáo chính trị đề cập rõ hơn những kết quả trong công tác phòng, chống dịch bệnh; hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn. Về giải pháp, dự thảo cần rõ cơ chế “khuyến khích các mô hình, sáng kiến cộng đồng trong xây dựng và củng cố mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức” nhằm tạo điều kiện thuận lợi để huy động cộng đồng tham gia hỗ trợ giảm nghèo. Đến khi định hình rõ nét, “mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức” cùng với các chính sách xã hội sẽ tạo thành giá đỡ vững chắc giúp các đối tượng yếu thế vươn lên.
Phó Chủ tịch UBND huyện Ba Vì Đỗ Quang Trung: Khuyến khích đầu tư vào vùng xa trung tâm
Thực tế cho thấy, khi người dân không còn phải sống trong cảnh nghèo khó, chất lượng cuộc sống tăng lên, tự bản thân mỗi người sẽ quan tâm đến việc học tập, chăm sóc sức khỏe, tìm kiếm cơ hội việc làm phù hợp, tự trang bị “phao cứu sinh” thông qua việc tham gia các chính sách bảo hiểm xã hội. Bởi vậy, tôi tán thành giải pháp “Thực hiện tốt các chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng xa trung tâm của Thủ đô. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số…” nhằm hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên, dự thảo Báo cáo chính trị chưa đề cập đến giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, trong khi đây là hướng giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội hiệu quả hiện nay. Vì thế, tôi đề nghị bổ sung giải pháp này vào chuỗi giải pháp nhằm “Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội”.
Cùng với đó, tôi mong muốn dự thảo làm rõ thêm giải pháp khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào vùng xa trung tâm; đẩy mạnh xã hội hóa công tác giảm nghèo, tập trung, ưu tiên nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững ở khu vực miền núi, vùng xa trung tâm…
Theo Hà Nội mới
Đảm Bảo An Sinh Xã Hội
(AGO) – Những tháng cuối năm, các địa phương và các ngành chức năng đang ráo riết hoàn tất các nhiệm vụ cuối cùng nhằm đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện hiệu quả các chương trình dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững.
Các ngành, các cấp tích cực hỗ trợ người nghèo ổn định cuộc sống, thoát nghèo bền vững. Ảnh: MỸ HẠNH.
Trong khi đó, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội từ tỉnh đến cơ sở đã thực hiện tốt kế hoạch giảm nghèo ở từng địa phương cơ bản hoàn thành, phấn đấu đến cuối năm giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 7%, không để phát sinh hộ nghèo mới và tái nghèo. Tham gia san sẻ, giúp đỡ người nghèo góp phần đảm bảo an sinh xã hội, Hội Chữ thập đỏ các cấp đã hoàn thành từ đạt đến vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao. Nối tiếp thành quả này, hội đã triển khai kế hoạch Tết vì người nghèo, trong đó, từng cấp hội đều tự nguyện đăng ký chỉ tiêu cao hơn chỉ tiêu Tỉnh hội giao, hướng đến mục tiêu chăm lo cho 100% hộ nghèo, cận nghèo đều có phần quà Tết.
Theo Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội TP. Long Xuyên Võ Thị Xuân Kiều, với nhiều giải pháp đảm bảo cho các đối tượng thụ hưởng tiếp cận đầy đủ và kịp thời các chính sách của Nhà nước, công tác an sinh xã hội và giảm nghèo trên địa bàn thành phố đã góp phần giúp đời sống vật chất và tinh thần người nghèo, gia đình có công, người dân thuộc đối tượng thụ hưởng từng bước ổn định và ngày càng được nâng lên. Trong năm, TP. Long Xuyên đã vận động quỹ “Vì người nghèo” trên 6 tỷ đồng, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện cho vay với các chương trình, dự án trên địa bàn thành phố tổng dư nợ trên 43,3 tỷ đồng, với 1.771 hộ; hiện đã giới thiệu, giải quyết việc làm cho 7.000 người, ước đến cuối năm đào tạo nghề cho 3.300 lao động…
Tại huyện Phú Tân, các chương trình an sinh xã hội được Mặt trận Tổ quốc các cấp đặc biệt quan tâm, từ đầu năm đến nay đã vận động 8 tỷ đồng để hỗ trợ 8.970 hộ nghèo, cận nghèo và hộ khó khăn, cất và sửa chữa nhà Đại đoàn kết, cứu trợ đột xuất và thường xuyên hộ nghèo và học sinh hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, huyện còn tiếp nhận nguồn kinh phí của tỉnh hỗ trợ 750 triệu đồng cất mới 20 căn nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo các xã: Phú Long, Phú Lâm, Bình Thạnh Đông và Hiệp Xương. Theo Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện, đã có 2.000 lao động được đào tạo nghề ở các cấp trình độ và tập huấn chuyển giao công nghệ, kỹ thuật trong nông nghiệp. Trong đó có hơn 1.000 lao động nông thôn được dạy nghề theo Đề án 1956-TTg, đạt hơn 180% kế hoạch, giải quyết việc làm mới cho 4.300 lao động, nâng số lao động có việc làm thường xuyên lên 117.000 người. Kết quả này có được nhờ thực hiện tốt công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, tổ chức tốt các kênh thông tin về việc làm để gắn kết cung – cầu thị trường lao động; tăng cường liên kết với các cơ sở, doanh nghiệp đào tạo nghề theo địa chỉ gắn với việc làm sau học nghề, chuyển giao nhiều ngành nghề mới về địa phương.
Đặc thù là địa bàn có đông đồng bào dân tộc sinh sống như Chăm, Khmer, các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, thị xã Tân Châu đã hoàn thành kế hoạch dạy nghề, giải quyết việc làm (trên 100% so kế hoạch) và đang rà soát lại số hộ nghèo, cận nghèo lồng ghép triển khai kế hoạch chăm lo Tết cho Nhân dân. Trong đó, ngoài tiếp nhận các nguồn hỗ trợ từ tỉnh, huyện, các ngành, đoàn thể còn tích cực vận động Mạnh Thường Quân, doanh nghiệp, tổ chức từ thiện tham gia để san sẻ với người nghèo, đóng góp hoàn thiện các công trình phúc lợi trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
Từ đầu năm đến nay, các cấp trong tỉnh đã tiếp nhận tiền và hiện vật quy tiền trên 110 tỷ đồng. Qua đó, đã cất gần 1.400 căn nhà Đại đoàn kết, trị giá mỗi căn từ 25 – 40 triệu đồng, sửa chữa gần 300 căn nhà cho hộ nghèo, hỗ trợ khó khăn, đột xuất cho hàng ngàn lượt người nghèo, cận nghèo, hộ bị thiên tai, hỏa hoạn, các trường hợp bệnh tật, học sinh đến trường…
MỸ HẠNH
Bắc Ninh: Đồng Bộ Các Giải Pháp Đảm Bảo An Sinh Xã Hội
(LĐXH) – Những năm qua, song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế, tỉnh đã dành nhiều nguồn lực cho công tác đảm bảo an sinh xã hội thông qua việc triển khai đồng bộ các chế độ, chính sách đối với gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa… Qua đó, góp phần thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
HĐND tỉnh đã ban hành nhiều Nghị quyết như hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người có công và hộ nghèo; hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người cao tuổi từ đủ 65 tuổi đến dưới 80 tuổi, hộ cận nghèo; trợ cấp hàng tháng cho đảng viên được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng trở lên và người cao tuổi từ đủ 70 tuổi đến dưới 80 tuổi; chương trình sữa học đường cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học…
Lãnh đạo tỉnh tặng quà Tết cho đối tượng chính sách trên địa bàn
Trên địa bàn tỉnh hiện có 124.379 đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; 41.282 đối tượng được hưởng bảo trợ xã hội. Từ năm 2013 đến nay, tỉnh Bắc Ninh đã hỗ trợ kinh phí hơn 221 tỷ đồng xây dựng mới và sửa chữa nhà cho 5.098 hộ người có công; hỗ trợ kinh phí hơn 116 tỷ đồng xây dựng 2.375 nhà cho hộ nghèo, về đích sớm 3 năm so với quy định của Chính phủ. Đặc biệt, ngày 6-12-2018, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 154/2018/NQ-HĐND Quy định mức hỗ trợ xây dựng nhà ở đối với người có công và hộ nghèo khó khăn về nhà ở trên địa bàn tỉnh với mức cao hơn. Đối với người có công hỗ trợ xây mới là 72 triệu đồng/nhà; hỗ trợ sửa chữa 36 triệu đồng/nhà. Đối với hộ người nghèo hỗ trợ xây mới là 65 triệu đồng/nhà (trường hợp hộ nghèo là hội viên Hội Cựu chiến binh được hỗ trợ bằng mức xây mới của hộ người có công là 72 triệu đồng/nhà).
Thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND tỉnh chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các đối tượng người có công với cách mạng và hộ nghèo theo rà soát là 917 hộ người có công với cách mạng, với kinh phí gần 57,6 tỷ đồng; 463 hộ nghèo, với kinh phí gần 30,3 tỷ đồng; thời gian xong trước 30-6-2020. Ngoài ra, tỉnh đã chỉ đạo xây dựng 27 dự án nhà ở cho công nhân đáp ứng chỗ ở cho khoảng 220.000 công nhân; 20 dự án nhà ở thu nhập thấp với 16.500 căn hộ đáp ứng cho khoảng 66.000 người; 5 dự án đáp ứng chỗ ở cho 11.600 sinh viên (trong đó có 3 dự án đã hoàn thành đáp ứng chỗ ở cho 6.188 sinh viên).
Cùng với việc triển khai thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo trợ xã hội, tỉnh ban hành chính sách đặc thù nâng mức chuẩn trợ cấp, trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh từ 270.000 đồng/tháng lên 350.000 đồng/tháng; Hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người cao tuổi từ đủ 65 tuổi đến dưới 80 tuổi; trợ cấp cho người cao tuổi từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi với mức 150 nghìn đồng/người/tháng; từ đủ 75 tuổi đến dưới 80 tuổi với mức 200 nghìn đồng/người/tháng. Năm 2019, ngoài kinh phí của Trung ương, nguồn xã hội hóa đối với công tác an sinh xã hội, tỉnh đã chi ngân sách bảo đảm xã hội với kinh phí hơn 800 tỷ đồng, trong đó chi trợ cấp thường xuyên và tặng quà cho đối tượng chính sách 400 tỷ đồng, mua bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách 230 tỷ đồng. Tổng số đối tượng Bảo trợ xã hội chi trả theo Nghị định 136 của Chính phủ là 41.282 đối tượng được hưởng theo chuẩn mới của tỉnh, tăng hơn 70 tỷ đồng/năm.
Cùng với việc chỉ đạo đẩy mạnh công tác huy động các tổ chức và cá nhân tích cực tham gia công tác an sinh xã hội, giúp đỡ người có công, hộ nghèo, đối tượng yếu thế, HĐND tỉnh Bắc Ninh ban hành Nghị quyết nâng mức chi tặng quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội. Tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương nắm bắt kịp thời tình hình đời sống nhân dân; tổ chức thăm tặng quà cho đối tượng người có công vào dịp 27/7 hàng năm; thăm tặng quà cho hộ nghèo; người cao tuổi; trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; đối tượng bảo trợ vào dịp Tết Nguyên đán. Ngoài ra, hàng năm Liên đoàn Lao động tỉnh thường xuyên tổ chức Tết sum vầy tặng quà cho đoàn viên công đoàn, công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn, tặng vé xe cho công nhân lao động ở xa về quê đón Tết. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội nghề nghiệp đều tổ chức tặng quà cho đoàn viên, hội viên có hoàn cảnh khó khăn vào dịp Tết Nguyên đán…
Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý, đồng chí Vũ Đức Đam, UVTW Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ về dự “Chương trình Tết sum vầy Canh Tý năm 2020″ đã tặng 231 suất quà đến mẹ Việt Nam anh hùng, nạn nhân chất độc da cam/dioxin, phụ nữ nghèo, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, mỗi suất quà 1.000.000đ; tặng 2.000 suất quà và 7000 vé tầu, xe cho công nhân ở Khu công nghiệp Yên Phong về quê đón tết. Đồng chí Trần Văn Túy – UVTW Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trưởng ban công tác Đại biểu của Quốc hội, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương về dự chương trình ” Ngày hội công nhân – Tết sum vầy năm 2020″ tại KCN Vsip Bắc Ninh, tặng 1.683 suất quà và 7.344 vé xe cho công nhân có hoàn cảnh khó khăn về quê đón Tết. Tổng giá trị 2,3 tỷ đồng. Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã về thăm, tặng 30 suất quà cho các nan nhận chất độc da cam/dioxin tỉnh, mỗi suất 2.000.000 đồng, tổng số tiền 60 triệu đồng. Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh cũng đi thăm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và Bắc Giang, mỗi tỉnh trao tặng 500.000.000 đồng, tổng kinh phí 2,0 tỷ đồng; Tổ chức 9 đoàn đại biểu đi thăm, tặng quà tết cho mẹ Việt Nam anh hùng, người có công, hộ nghèo, người cao tuổi được chúc mừng thọ.
Trong thời gian tới, Bắc Ninh sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ các chương trình, chính sách bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn, nhằm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, giúp hộ nghèo, gia đình chính sách vươn lên trong cuộc sống./.
Những Thách Thức Và Giải Pháp Bảo Đảm An Sinh Xã Hội Hiện Nay
Ngay từ năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách, tuy còn đơn lẻ, chưa thành hệ thống nhưng có ý nghĩa rất quan trọng về an sinh xã hội, đưa nước ta thoát khỏi tình thế hiểm nghèo…
Đến năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh trong nước để phát triển, tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển hệ thống an sinh xã hội. Từ đây, an sinh xã hội được quan tâm đầy đủ và có sự chuyển biến cơ bản về chất, trở thành một hệ thống an sinh xã hội bao gồm các trụ cột cơ bản: Bảo hiểm xã hội (trong đó có bảo hiểm y tế và một số loại hình bảo hiểm khác), hỗ trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chương trình xóa đói giảm nghèo và các dịch vụ xã hội hội cơ bản khác.
Từ đó đến nay, trải qua các kỳ Đại hội của Đảng, quan điểm, chủ trương về an sinh xã hội ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, bao gồm những quan điểm cơ bản sau:
Một là, đảm bảo an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển (1) là quan điểm nhất quán và xuyên suốt qua các kỳ Đại hội của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
Đảng ta xác định, an sinh xã hội là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đảng phân tích sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa an sinh xã hội và phát triển kinh tế trong mặt thống nhất của phát triển xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, một mặt đem lại sự tăng trưởng nhanh về kinh tế, nhưng mặt trái của nó cũng đặt ra nhiều rủi ro cho con người trong cuộc sống. Vì vậy, đảm bảo an sinh xã hội là điều kiện để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đảm bảo những điều kiện thực hiện an sinh xã hội. Do đó, trong mỗi chính sách phát triển kinh tế phải đảm bảo an sinh xã hội; các chính sách xã hội phải đặt ngang tầm với các chính sách kinh tế, gắn với các chương trình kinh tế – xã hội vì mục tiêu phát triển con người, phát huy tối đa nguồn lực con người. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ rõ: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy nhân tố con người, vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(2).
Từ nhận thức trên, quan điểm của Đảng về an sinh xã hội được phát triển một cách toàn diện hơn. An sinh xã hội không chỉ gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế mà còn gắn liền với các lĩnh vực văn hóa, môi trường, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với từng bước phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… ” (3). Như vậy, đảm bảo an sinh xã hội được Đảng ta xác định là một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và đặc biệt là Đại hội lần thứ XI, quan điểm của Đảng về an sinh xã hội đã được bổ sung, phát triển sâu sắc và hoàn thiện hơn. Đảng xác định giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội một cách toàn diện, có hệ thống, trong từng bước, từng chính sách phát triển, ở cả phương diện vĩ mô, trên cả nước đến các vấn đề cụ thể, gắn với từng ngành, từng địa phương. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng nêu rõ: “Kết hợp chặt chẽ và hợp lý các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương”(4). Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế” (5) là một trong 7 định hướng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước và việc cần làm là “hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(6); “hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu chính sách xã hội” (7) nhằm “đảm bảo an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển” (8).
Hai là, xây dựng hệ thống an sinh xã hội công bằng, đa dạng, mở rộng và hiệu quả (9) ngày càng được củng cố và hoàn thiện
Hiện nay, việc củng cố, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Đảng ta chủ trương xây dựng hệ thống an sinh xã hội công bằng, đa dạng, mở rộng và hiệu quả.
An sinh xã hội công bằng chính là “tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội”(10) cho người dân. Điều đó có nghĩa là mọi người dân, không phân biệt giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi… đều được tạo cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các chính sách, các dịch vụ an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đảm bảo quyền con người, vì con người. Để làm được điều đó, Đảng chủ trương giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ của người dân trong từng lĩnh vực, từng chính sách phát triển. Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế, xã hội” (11). Quan điểm này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội XI: “Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân” (12); “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách” (13). Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, xã hội có sự phân hóa giàu nghèo thì đảm bảo an sinh xã hội công bằng càng có ý nghĩa to lớn, là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân.
Hệ thống an sinh xã hội đa dạng gồm nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa đạng của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chính sách xóa đói, giảm nghèo, bảo hiểm thương mại, các dịch vụ xã hội…. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã nêu nhiều chủ trương về các lĩnh vực xã hội như: đảm bảo lương thực, nhà ở, đổi mới tiền lương, đổi mới chính sách bảo hiểm. Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ngày càng quan tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng bao trùm nhiều lĩnh vực xã hội. Đại hội lần thứ X của Đảng xác định: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động…”(14). Quan điểm đó tiếp tục được khẳng định và nhấn mạnh tại Đại hội XI: “Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”(15) nhằm đáp ứng tốt hơn nữa các nhu cầu đa dạng của các tầng lớp dân cư.
Bên cạnh đó, Đảng cũng chú trọng xây dựng hệ thống an sinh xã hội ngày càng mở rộng về đối tượng, quyền lợi được hưởng, nghĩa vụ phải thực hiện, và các nguồn lực đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội mở rộng giúp tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng của người dân, hướng tới bao phủ toàn dân. Việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội rộng mở với phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng có mối quan hệ biện chứng hữu cơ. Vì vậy, xây dựng hệ thống an sinh xã hội mở rộng phải gắn liền với việc phát triển đa dạng hệ thống an sinh xã hội mà nhiệm vụ trọng tâm là: tập trung phát triển hệ thống bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động…); thực hiện tốt các chính sách ưu đãi xã hội; mở rộng các hình thức hỗ trợ xã hội, chú ý đến các đối tượng khó khăn, dễ bị tổn thương trong xã hội.
Cùng với việc quan tâm xây dựng hệ thống an sinh xã hội công bằng, đa dạng, mở rộng, Đảng đặc biệt nhấn mạnh tính hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng mở ra những phát triển mới trong chủ trương, đường lối xây dựng hệ thống an sinh xã hội với quan điểm bao trùm: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả”(16). Hệ thống an sinh xã hội hiệu quả phải linh hoạt, dễ dàng ứng phó với những biến động hay cú sốc bất thường về kinh tế, xã hội, môi trường đồng thời phải đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Mặt khác, để đảm bảo an sinh xã hội hiệu quả cần chú trọng tính bền vững về tài chính và nhân lực đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội hiệu quả vừa đảm bảo sự phát triển của xã hội, vừa tạo điều kiện phát triển đất nước.
Ba là, thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó, huy động mọi nguồn lực để đảm bảo an sinh xã hội là giải pháp cốt lõi
An sinh xã hội nhằm ổn định đời sống cho nhân dân, đòi hỏi trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể cộng đồng xã hội. Huy động mọi nguồn lực trong xã hội là điều kiện để thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thể hiện rất rõ điều này: “Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng”, “đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo”; “huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công “(17).
Quan điểm trên cho thấy, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời mở rộng sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội vào thực hiện an sinh xã hội dưới hình thức xã hội hóa. Các bộ, ban, ngành, tùy theo chức năng của mình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về an sinh xã hội, đồng thời phối hợp liên ngành để thực hiện an sinh xã hội. Đảm bảo an sinh xã hội cũng cần huy động sự tham gia tích cực của các cá nhân, tổ chức thiện nguyện và toàn thể cộng đồng.
2. Những thách thức đối với việc đảm bảo an sinh xã hội ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế, nhiều vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc, mới phát sinh chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội theo mô hình Nhà nước phúc lợi chưa theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của quốc tế.
Thứ hai, các nguy cơ rủi ro kinh tế, xã hội và môi trường ngày càng có xu hướng tăng. Đặc biệt, khí hậu toàn cầu biến đổi kèm theo hiện tượng nước biển dâng đặt ra những thách thức mới về an sinh xã hội.
Thứ ba, xu hướng già hóa dân số đặt ra thách thức về tính bền vững của chính sách an sinh xã hội hiện hành.
Thứ tư, còn có nhiều bất cập về mức hưởng lợi giữa các nhóm dân cư, nhất là với nhóm người nghèo, người dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa. Hệ thống dịch vụ xã hội còn nhiều yếu kém, chưa bền vững.
Thứ năm, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của người dân, nhất là các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương chưa được bảo đảm.
3. Một số giải pháp cơ bản đảm bảo an sinh xã hội
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật và các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội
– Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế – xã hội gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân là giải pháp đảm bảo an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững.
– Phát triển đồng bộ, đa dạng, mở rộng, hiện đại hóa nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội…
– Hoàn thiện chính sách hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế: tiếp tục hoàn thiện mức đóng, hưởng bảo hiểm y tế đảm bảo khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế; tăng cường tiếp cận dịch vụ bảo hiểm y tế; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan thực hiện bảo hiểm y tế; tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014.
– Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công; thực hiện và hoàn thiện chính sách hỗ trợ xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân. Tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù.
Xây dựng, hoàn thiện bộ máy thực hiện công tác an sinh xã hội
Tăng cường hiệu quả sự phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội từ trung ương đến địa phương; rà soát và củng cố hệ thống các cơ quan thực hiện công tác an sinh xã hội các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội.
Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện công tác an sinh xã hội
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương và cơ sở; rà soát, sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ an sinh xã hội; xây dựng cơ sở dữ liệu để thuận lợi cho việc theo dõi, đánh giá; thiết lập và ban hành hệ thống tiêu chí quản lý và giám sát hoạt động của các tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, bao gồm cả việc xem xét sự tham gia thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Tăng cường đầu tư, làm tốt công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện an sinh xã hội
– Tăng cường đầu tư của Nhà nước bảo đảm nguồn lực và cơ chế tài chính thực hiện an sinh xã hội trên cơ sở từng bước mở rộng diện bao phủ tiến tới bao phủ toàn dân, quản lý chặt chẽ quỹ an sinh xã hội. Hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.
– Khuyến khích phát triển đa dạng, các mô hình an sinh xã hội, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào cộng đồng, hỗ trợ phát triển các nhóm cộng đồng (các đoàn thể địa phương, nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình…) trở thành điểm tựa chống đỡ rủi ro cho các hộ nghèo, cận nghèo, các nhóm đối tượng đặc thù…
– Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào việc cung cấp các dịch vụ công cộng; vận động toàn xã hội tham gia các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”, các hoạt động nhân đạo như: ngày vì người nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa…
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, mỗi quốc gia có nhiều cơ hội để phát triển, đồng thời, phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, cuộc sống của người dân luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro bất ngờ. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội là một yêu cầu bức thiết đảm bảo ổn định chính trị xã hội và phát triển đất nước hiện nay. Với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyết tâm của toàn xã hội, với những giải pháp thiết thực, kịp thời, hệ thống an sinh xã hội sẽ ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, tích cực, chủ động hội nhập với thế giới./.
GS.TS. Đào Văn Dũng
(1) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (12) (13) (15)(16) (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H, 2011, tr.227, 24, 125, 124, 227, 125, 124,79, 79, 228, 125, 229.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại hội đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX, Nxb. CTQG, H, 2005, tr. 219.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H, 2001, tr. 62.
(4) (11) (14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.101, 101, 102.
Bạn đang xem bài viết Rõ Hơn Giải Pháp Bảo Đảm An Sinh Xã Hội trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!