Cập nhật thông tin chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Rèn Chữ Viết Cho Học Sinh Tiểu Học mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
*Nguyên nhân dẫn đến chữ viết chưa đẹp của học sinh. – Về phía giáo viên: Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên trực tiếp dạy học. Người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình viết chữ đẹp hay xấu của học sinh. Qua thực tế ta thấy có rất nhiều nguyên nhân từ phía giáo viên dẫn đến việc học sinh viết chữ chưa đẹp. + Chữ viết chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc giảng dạy, chỉ thấy 1 số ít giáo viên viết đẹp, đúng mẫu chữ. + Ít chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh, chỉ lưu ý trong giờ tập viết chưa hướng dẫn kĩ càng trong các tiết học khác. + Chưa có biện pháp rèn chữ viết cụ thể. Chưa giúp học sinh nắm các nét cơ bản, cấu tạo con chữ, dòng kẻ, kĩ thuật viết.trong các tiết luyện viết mà chỉ cần nhấn mạnh về độ cac con chữ. + Hướng dẫn rèn chữ viết chưa theo từng đối tượng học sinh. + Nhiều thầy cô giáo còn phụ thuộc quá nhiều vào máy tính, công nghệ thông tin, không coi trọng rèn chữ viết của bản thân. – Về phía học sinh: + Nguyên nhân chủ yếu do học sinh chưa nắm được các nét cơ bản cấu tạo chữ ghi âm, vần, tiếng, dấu thanh chưa nắm vững quy trình viết chữ cái, quy trình nối các nét trong chữ cái trong chữ ghi tiếng nên chữ viết mới sai độ cao. + Một số em chưa biết cách cầm bút và ngồi học đúng tư thế. + Đa số học sinh không có thói quen rèn chữ viết, không có ý thức trong việc rèn chữ viết, thậm chí không cần quan tâm đến chữ viết đẹp hay xấu. + Vẫn còn một số học sinh chưa nghiêm túc nghe giảng lúc đầu, các em chưa cẩn thận khi viết, các em muốn viết nhanh để hoàn thành bài viết nhằm ghi “ thành tích” với giáo viên và các bạn. Một số học sinh đồ dùng học tập còn thiếu , một số học sinh mắc bệnh về mắt. + Ngoài ra còn có một số học sinh chưa ý thức được việc giữ gìn sức khỏe, đồ dùng học tập , bên cạnh còn có một số em hay ra mồ hôi tay. III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG RÈN CHỮ 1. Sử dụng phương pháp phân tích nguyên nhân và hướng dẫn cách khắc phục – Thiếu nét: Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét chữ đã dừng lại, tôi đã thường xuyên nhắc để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm, đúng quy định. Cho học sinh thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa viết thiếu nét, đồng thời xem lại những bài viết trước chữ nào thiếu nét thì thêm vào cho đủ. – Thừa nét: Lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng vượt quá điểm quy định. Với lỗi này tôi đã hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái đó. – Sai nét: Lỗi này thường là do học sinh cầm bút sai quy định, các ngón tay quá sát xuống ngòi bút, khi viết biên độ giao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét. Cách khắc phục là tôi thường xuyên nhắc học sinh cầm bút cao tay lên (từ đầu ngòi bút đến chỗ tay cầm khoảng 2,5 cm). Khi viết 3 ngón tay cử động co duỗi linh hoạt phối hợp với cử động của cổ tay, cánh tay. – Khoảng cách: Lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều. Với lỗi này tôi hướng dẫn học sinh kĩ thuật viết liền mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là 2/3 đơn vị chữ (1 con chữ o) khoảng cách giữa hai chữ trong một từ là một đơn vị chữ (1 ô vuông đơn vị). Viết xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh. VD: viết chữ: trắng – Hướng dẫn viết: t-h-u-y-e-n – thuyen (liền mạch) xong mới đánh dấu t, ê và dấu (huyền) – thuyền – Dấu chữ, dấu thanh: Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá cao không đúng vị trí. Lỗi này thường do các em không cẩn thận mặt khác còn do giáo viên không hướng dẫn và nhắc nhở các em thường xuyên. Để khắc phục lỗi này tôi đã quy định lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ. Đánh dấu nhỏ thì những nét chính của chữ sẽ nổi rõ, dấu nhỏ còn giúp trang vở không bị rối, bài viết sẽ thoáng hơn. 2. Sử dụng phương pháp kể chuyện nêu gương Khi dạy tập viết cho học sinh, điều quan trọng là phải gây được hứng thú, làm cho học sinh yêu thích rèn viết chữ đẹp từ đó các em say mê và quyết tâm rèn chữ cho đẹp. Tôi đã nêu những gương sáng về rèn chữ viết, kể những câu chuyện về rèn chữ như: Thần siêu luyện chữ, Chữ người tử tù, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu… Nêu những gương người thật việc thật, ví dụ: Em A chữ viết đẹp nhất trường, các em hãy quan sát chữ viết của bạn và học tập. Tôi phô tô các bài viết của học sinh đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia để làm mẫu cho các em, đồng thời động viên các em nếu cố gắng, kiên trì rèn luyện thì chữ viết của các em cũng đạt được như vậy thậm chí có thể đẹp hơn. Khi đã gây được hứng thú cho học sinh, lúc đó các em rất thích rèn viết chữ đẹp. Lúc này tôi sẽ cung cấp các bài tập để rèn kĩ năng viết. 3. Sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở Sử dụng trong giai đoạn đầu của tiết học để hướng dẫn học sinh phân tích nhận xét cấu tạo của chữ cái, độ cao, độ rộng con chữ, nét giống nhau và khác biệt giữa con chữ mới với con chữ đã học từ trước. Tôi đặt câu hỏi và định hướng cho học sinh trả lời. 4 . Sử dụng phương pháp trực quan Sử dụng khi hình thành biểu tượng về chữ cho các em. Phương tiện trực quan là chữ mẫu: Chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng, chữ trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, hoặc một bài viết đẹp, chữ của giáo viên khi sửa chấm bài… Chữ mẫu phải đúng quy định, rõ ràng và đẹp. Khi dạy chữ viết, việc đưa giáo cụ trực quan là chữ viết mẫu được in sẵn từng chữ cái, bảng chữ cái. Đây là việc làm để cung cấp cho học biểu tượng về chữ viết, chưa cung cấp được kĩ năng viết. Nếu trực quan cho học sinh quan sát chữ của cô giáo viết mẫu còn có giá trị hơn. Tôi vừa viết, vừa phân tích từng nét của chữ cái hoặc từng kĩ thuật nối liền nét các con chữ trong một chữ. Việc viết mẫu của giáo viên còn có tác dụng tạo niềm tin cho học sinh, mặt khác học sinh cũng dễ tiếp thu hơn, tạo điều kiện cho việc rèn kĩ năng viết liền mạch, viết nhanh. Khi chấm bài, chữa bài, lời phê, chữ viết của giáo viên được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy, tôi cũng luôn chú ý rèn chữ viết cho mình được đúng mẫu, rõ ràng, đều, đẹp. Ngoài ra khi dạy viết chữ tôi cũng chú ý đọc mẫu các chữ đó, đọc đúng cũng góp phần quan trọng để đảm bảo viết đúng. 5. Sử dụng phương pháp luyện tập thực hành Sử dụng để hình thành kĩ năng viết chữ cho học sinh. Đây là một phương pháp cực kì quan trọng. Chữ viết, tập viết chữ có tính chất thực hành. Tôi phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài. Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý, các chữ có nét giống nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn. Rèn chữ với số lượng ít nhưng lặp lại nhiều lần với yêu cầu cao dần. Cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài để giáo viên dễ dàng nhận ra lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ của học sinh. Tôi đã hướng dẫn học sinh luyện tập tiến hành từ thấp nên cao, tăng dần độ khó để học sinh dễ tiếp thu: viết đúng rồi viết nhanh, viết đẹp. Việc luyện chữ phải được tiến hành một cách đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, phân môn tập viết cũng như các môn khác, môn học khác. Khi học sinh luyện tập viết chữ, tôi luôn chú ý uốn nắn để các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Nơi ngồi viết cần phải đảm bảo đủ ánh sáng, ghế ngồi viết phải phù hợp với chiều cao của học sinh. Các hình thức luyện tập: Tập viết chữ trên bảng lớp: Khi kiểm tra bài cũ, hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Trước khi tập viết tôi luôn nhắc nhở học sinh lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay sau khi viết. Khi viết xong giơ bảng lên để kiểm tra theo lệnh của cô giáo. Luyện tập trong vở tập viết: Tôi hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng của từng bài viết. Trước khi học sinh viết tôi luôn nhắc nhở một lần nữa về kỹ năng: tư thế ngồi viết cách cầm bút và để vở: – Tư thế ngồi viết: Ngay từ khi vào lớp ở tuần đầu tôi hướng dẫn học sinh rất kĩ về tư thế ngồi viết một cách thoải mái nhất, không gò bó (dễ gây tê mỏi), hai tay phải đặt đúng điểm tựa quy định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não được. Ngồi quá cao, đầu phải cúi gằm xuống. Ngồi quá thấp, đầu phải nhìn lên (điều này phụ thuộc vào bàn ghế phải thích hợp kích cỡ học sinh). Tuyệt đối không quỳ, nằm, ngồi viết tùy tiện. Khoảng cách từ mắt đến tầm 25cm đến 30cm là vừa (hơn một gang tay người lớn); không được nhìn quá gần vở vì thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến cận thị . + Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghé ngồi. Không ngồi vặn vẹo, lâu dần thành có tật, dẫn đến lẹch cột sống, rất khó chữa sau nay. + Hai chân thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải lệch vẹo và chữ viết sẽ xiên lệch theo. + Tay trái để xuôi theo chiều ngồi, giữ lấy mép vở cho khỏi xô lệch , đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái. – Cách cầm bút: Cầm bút bằng 3 ngón tay của bàn tay phải: ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa. Đầu ngón trỏ đặt trên thân bút (cách đầu ngòi bút chừng 2,5cm.), đầu ngón cái giữ bên trái thân bút; đầu ngón giữa tựa vào bên phải thân bút. Khi viết 3 ngón tay này giữ bút, điều khiển bút dịch chuyển. Ngoài ra cần sự phối hợp của cổ tay, cánh tay, khuỷu tay. Không để ngửa bàn tay quá, tạo nên trọng lượng tì xuống lưng của hai ngón tay út và áp út (ngón đeo nhẫn). Ngược lại không úp quá nghiêng bàn tay về bên trái (nhìn từ trên xuống thấy cả 4 ngón tay: trỏ, giữa, áp út và út). Các tư thế tay cầm bút không đúng sẽ dẫn đến các cố tật sau này khó chữa như: căng cứng, mỏi cơ gân bàn tay; viết chóng mỏi tay; ra nhiều mồ hôi tay; không thể viết lâu, viết nhanh được. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi. Góc độ bút đặt so với mặt giấy khoảng 450 . Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 900. Đưa bút từ trái qua phải từ trên xuống dưới các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy. Tiếp theo, tôi dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, dạy cho học sinh kỹ năng viết các nét, cách lia bút và cách nối nét. Đồng thời giúp học sinh xác định được khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và tiến tới là viết đẹp, viết nhanh. Luyện tập viết chữ khi học các môn học khác: tôi luôn có những yêu cầu về chữ viết của học sinh khi học những môn học khác. Coi chữ viết là một trong những tiêu chuẩn kiểm tra và đánh giá tất cả các môn học. 6. Sử dụng phương pháp chia nhóm, rèn cho học sinh viết đúng trọng tâm từng nhóm chữ. Nếu cùng một lúc đòi hỏi học sinh viết đúng và đẹp ngay là điều rất khó thực hiện, mặt khác căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái để học sinh viết đúng kĩ thuật ngay từ đầu tôi chia nhóm chữ và xác định chữ trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ học sinh hay sai chỗ nào, học sinh gặp khó khăn gì khi viét các chữ ở nhóm đó. Nhóm 1: Gồm các chữ : i u ư t p y n m v r s Với nhóm chữ này học sinh hay thắc mắc lỗi viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc thường bị đổ nghiêng, khi hất lên thường choãi chân ra nên không đúng . – Để khắc phục nhược điểm trên ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng tâm rèn luyện học sinh viết nét móc ngược, móc 2 đầu thật đúng, thật ngay ngắn trước khi ghép các nét tạo thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý minh họa rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp. -Từ các nét cơ bản ở nhóm chữ thứ nhất được viết đúng kĩ thuật học sinh sẽ có cơ sở viết chữ ở nhóm thứ 2 dễ hơn. Nhóm 2: Gồm các chữ : l b h k Ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ viết còn cong vẹo. – Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết tôi luôn cho học sinh xác định rõ ràng điểm giao nhau của nét khuyết bằng 1 dấu chầm nhỏ và rèn cho học sinh thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng. – Để viết được nhóm chữ này thẳng, ngay ngắn thì cần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng,thật thẳng ở ngay các bài nét chữ cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viét nét khuyết . Nhóm 3 : Gồm các chữ : o ô ơ a ă â d đ q g c e ê x Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng thực tế hầu hết học sinh viết sai từ chữ o như chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ không đều đầu to đầu bé. Chính vì vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy học sinh viết đúng chữ o để làm cơ sở cho viết đúng các chữ khác trong nhóm. vậy thì o viết thế nào cho đúng? Điểm đặt bút từ đâu? chiều ngang chiếm tỉ lệ bao nhiêu so với chiều cao? Đó là việc làm rất khó để cho học sinh xác định được. Vì vậy khi dạy chữ o tôi kẻ một ô vuông trên bảng rồi chia ra 3 phần bằng nhau, đánh dấu 4 điểm ở giữa các cạnh hình chữ nhật, dùng phấn màu chấm hình chữ o sau đó tô lên các dấu chấm,vừa tô vừa giảng kĩ, nhấn mạnh điểm đặt bút đầu tiên và điểm dừng bút chính là điểm để viết thêm dấu “,” chữ o và điểm để nối các nét chữ khác khi viết nhanh. Viết được chữ o đúng học sinh dễ dàng viết đúng các chữ cái khác trong nhóm. Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm tôi luôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng 1 cách cụ thể. Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng loại chữ này thì mới chuyển sang loại chữ khác, loại chữ này viết đúng kỹ thuật mới chuyển sang rèn loại chữ khác rồi tiến tới rèn viết đẹp nên học sinh rất say mê,phấn khởi, không căng thẳng lo lắng khi tập viết. Sau mỗi bài viết cần nhận xét “nét nào được, nét nào hỏng?”. Tìm nguyên nhân vì sao hỏng: Tại tư thế cầm bút, ngồi viết không đúng quy định, tay đặt bút không có điểm tựa, vì chưa chuyển dịch bút đúng tầm tay đưa bút, do vướng vấp cạnh bàn, mặt giấy không nhẵn, mực xuống không đều… Tóm lại có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chữ xấu trong khi viết. Khi đã phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết hỏng, cần giúp trẻ rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót tương tự ở lần sau. Khi viết thấy mỏi tay,mồ hôi tay ra nhiều , hoặc hoa mắt, nhức đầu, có nghĩa là ngồi quá lâu, phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như :vươn vai, hít thở, tập thể dục…Sau 4 đến 5 phút trở lại ngồi viết sẽ có hiệu quả hơn. Tương tự khi dạy chữ viết hoa, tôi cũng chú ý cho học sinh phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm, tập viết thật kĩ chữ đầu tiên của nhóm cho thật đẹp, từ đó học sinh có thể phân tích và tự rèn các chữ còn lại. Dựa và các nét chữ đồng dạng ta chia chữ cái viết hoa thành các nhóm như sau: + Nhóm 1: A Ă Â N M + Nhóm 2: P B R D Đ + Nhóm 3: C G S L E Ê T + Nhóm 4: I K V H + Nhóm 5: O Ô Ơ Q + Nhóm 6: U Ư Y X 7. Sự mẫu mực chữ viết của giáo viên là phương tiện quan trọng để dạy học sinh viết đúng, đẹp. Chúng ta thường nói rằng “Thầy nào – trò nấy”. Thực tế thấy rằng nếu giáo viên viết chữ đẹp và có ý thức rèn chữ viết thì chất lượng chữ viết của lớp đó sẽ cao và qua thực tế ở mỗi lớp khác nhau thì chữ viết của học sinh sẽ khác nhau. Và học sinh trong một lớp thì chữ viết lại tương đối giống nhau và rất giống chữ của giáo viên. Một giáo viên có chữ viết đẹp sẽ có thể có nhiều học trò viết chữ đẹp và ngược lại. Như vậy muốn dạy cho học sinh kĩ năng viết chữ đúng yêu cầu, luyện cho học sinh viết chữ ngày càng đẹp; ngoài việc nắm vững nội dung phương pháp dạy học, giáo viên còn cần có năng lực thẩm mĩ để cảm nhận được vẻ đẹp của chữ viết, có khả năng viết chữ đẹp để học sinh noi theo. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy việc khổ công rèn luyện viết đúng,viết đẹp,viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí mọi GV đều phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học,trong từng cách trình bày bảng sao cho khoa học, đẹp mắt. Ngoài yêu cầu về viết đúng, viết đẹp tôi còn luôn chú ý tạo sự thống nhất trong cách trình bày bảng ở từng phân môn và thể hiện bài dạy. Từ đó quy định cách trình bày bài viết trong vở của học sinh để tạo ra sự thống nhất, chuẩn mực từ các chi tiết nhỏ nhất (gạch chân, kẻ hết bài, kẻ hết buổi, cách ghi phân môn, cách trình bày bài thơ lục bát, thơ tự do và bài văn xuôi…) hay khi chấm bài tôi rất chú ý đến việc chữa lỗi kĩ cho học sinh kết hợp với lời phê chính xác, mang tính khích lệ, chỉ bảo, luôn chứa đựng tình cảm, động viên học sinh để học sinh tự tin vào bản thân khi viết bài và nhận ra những tồn tại cần khắc phục. 8. Giáo dục cho học sinh tính cẩn thận Một trong những điều kiện để học sinh viết chữ đẹp chính là đức tính cẩn thận và kiên trì. Tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều học sinh viết chưa đẹp bởi các em chưa viết cẩn thận mà thậm chí còn “viết ngoáy”. “ Viết ngoáy”, là viết nhanh một cách cẩu thả, không thể chấp nhận được với bất kì lớp nào, nhất là với học sinh tiểu học. Vì thế, giáo viên cần phải giáo dục học sinh tính tỉ mỉ, cẩn thận, giáo dục qua các bài học, qua các gương trong thực tế ngay từ thời gian dầu để học sinh không có thói quen “viết ngoáy”. Nếu có, giáo viên phải giúp học sinh dần dần khắc phục nhược điểm này, để khắc phục được lỗi trên, nhìn chung giáo viên phải ân cần, dịu dàng uốn nắn, kể cả lỗi do vụng về mà để vở bị dây bẩn hay quăn góc. Thông qua rèn chữ viết cần nhắc nhở học sinh có ý thức giữ sách vở bằng cách: Có giấy lót tay khi viết, để tay cẩn thận không làm quăn góc. Riêng với lỗi viết cẩu thả giáo viên có thể nghiêm khắc hơn để đưa học sinh vào nề nếp. Giáo viên luôn nhắc nhở học sinh: các em luôn phải ghi nhớ dòng chữ ghi ngay góc mỗi trang vở: “ Luyện nét chữ, rèn nết người”. từ đó để các em luôn có tính tự giác và cẩn thận hơn. 9. Sử dụng có hiệu quả các đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng dạy học tự làm. Để một tiết học dẫn đến thành công là nhờ một phần rất lớn dựa vào việc sử dụng đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và nắm bắt tri thức của học sinh tiểu học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 1. Vì các em còn rất nhỏ nên hầu hết đều tư duy trực quan thông qua: tranh ảnh, mô hình, vật mẫu,…giúp các em tiếp thu được kiến thức của bài tốt hơn. Có thể nói ngay từ lớp 1, các kĩ năng nghe – nói – đọc – viết là vô cùng quan trọng. Vấn đề rèn chữ viết cho học sinh được thầy cô hết sức quan tâm, rèn luyện cho học sinh viết đúng – viết đẹp…Qua đó góp phần rèn luyện cho các em học sinh tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với bản thân, cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài của mình. Ngoài những đồ dùng dạy học đã có sẵn, tôi còn quyết định tự làm 1 bộ mẫu chữ thường và chữ hoa được chia theo nhóm có các nét viết tương đồng nhau. Nhằm đóng góp 1 phần công sức nhỏ bé của mình giúp học sinh nắm các con chữ nhanh hơn, viết đúng và đẹp hơn. Bên cạnh đó giúp học sinh sửa 1 số lỗi sai cơ bản trong khi viết và làm bài. Để làm bộ đồ dùng dạy học này tôi sử dụng bìa cứng tận dụng từ các loại giấy đã qua sử dụng như: quyển lịch, tranh, báo; bút dạ màu, thước kẻ, kéo, keo dán giấy Đồ dùng dạy học do tôi tự làm có thể dạy được tất cả các bài tập viết chữ hoa và chữ thường trong phân môn tập viết của lớp 1 (cả 2 học kỳ). Dạy được cả hai loại mẫu chữ cỡ 2 ô ly và cỡ 1 ô ly. Ngoài ra bộ đồ dùng dạy mẫu chữ này còn sử dụng rất tốt ở lớp 2, lớp 3 và luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học. Giúp học sinh nắm nhanh, nắm chắc các con chữ cái. Từ đó học sinh biết đọc thông viết thạo các chữ cái theo 1 quy luật chung rất lôgic và khoa học. Khi chia 29 chữ cái thường và hoa theo nhóm sẽ giúp học sinh khắc sâu và có sự phân biệt sự giống và khác nhau giữa các con chữ. Có mối liên hệ kiến thức giữa bài cũ và bài mới. Trong khi viết học sinh thường quên không viết hoa, viết sai chữ thường hoặc chữ hoa, để khắc phục không bị tẩy xoá tôi đã sử dụng hiệu quả bộ đồ dùng dạy học của mình như: a) Sửa từ chữ thường sang chữ thường a (ă, â, d, g,q) l (b, k, h) r (v, s) n (m, h, p,v) i (t, u, ư, y) o (ô, ơ, a, ă, â, g) c (e, ê, x, d, q) b) Sửa từ chữ hoa này sang chữ hoa khác C G P (B, R, D
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Rèn Chữ Viết Cho Học Sinh Lớp 1
Phßng gd& ®t huyÖn §”ng TriÒu Trêng tiÓu häc quyÕt th¾ng ===***===
Sáng kiến kinh nghiệm: ” Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1″
Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng Chức vụ: Giáo viên Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng
Năm học: 2014-2015 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1
Tiểu học là bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra những cánh cửa bước vào tương lai, là công cụ để các em vận dụng suốt đời. Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt là ở tiểu học nhất là đối với lớp Một. Học vần, Tập đọc giúp học sinh đọc thông, tập viết giúp các em viết thạo. Đọc thông và viết thạo có quan hệ mất thiết với nhau, cũng như dạy tập viết, học vần, tập đọc không thể tách rời nhau. Viết đúng mẫu, rõ ràng và nhanh sẽ giúp học sinh có điều kiện ghi chép tất cả các môn học tốt hơn. Ngoài ra, tập viết còn góp phần quan trọng vào việc
rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mĩ. Như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”. Hay người xưa cũng đã từng nói: “Nét chữ – nết người “. Qua câu nói đó người xưa muốn nói với các thế hệ đi sau rằng chữ viết là thể hiện tính cách của con người và thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với lớp 1. Tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường – kĩ năng viết chữ. Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Học vần, tập đọc giúp cho việc rèn luyện năng lực đọc thông, tập viết giúp cho việc rèn năng lực viết thạo. Để làm chủ một tiếng nói về mặt văn tự, người học phải rèn luyện cho mình đọc thông, viết thạo văn tự đó. Hai năng lực này có quan hệ mật thiết với nhau. Lâu nay, nhiều thế hệ thầy giáo đã trăn trở góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung và phương pháp dạy tập viết và nghiên cức các đề tài: ” Rèn chữ giữ 2
vở” cho học sinh. Tuy vậy chỉ có một bộ phận học sinh là biết “Rèn chữ giữ vở” và vẫn còn nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu và viết rất chậm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tiếng Việt nói riêng học các môn khoa học khác nói chung của các em. Học sinh lớp Một ngày đầu tiên đến trường còn rất nhiều bỡ ngỡ, việc làm quen với chữ viết của các em thật khó khăn bởi đôi tay của các em còn vụng về, lóng ngóng. Các em chưa hề có kiến thức cơ bản về chữ viết và kĩ thuật viết chữ. Mà kĩ thuật viết chữ đúng là điều cốt lõi để duy trì kĩ năng viết đúng, viết nhanh và làm chủ tiếng nói về mặt văn tự đó. Khi các em đã có kĩ thuật viết chữ đúng các em mới viết đẹp và từ kĩ thuật viết đúng đó sẽ là cơ sở giúp các em viết được những kiểu chữ sáng tạo đẹp hơn. Là một người giáo viên đang trực tiếp đứng trên bục giảng, trong tôi luôn đặt ra câu hỏi phải làm gì, làm như thế nào để giúp các em viết đúng, viết đẹp để góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em với các môn học khác. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng chữ viết đúng, đẹp cho các em và và làm cho phong trào ” Vở sạch – chữ đẹp” của lớp cũng như của trường ngày một đi lên một cách bền vững nhất. Chính vì vậy mà tôi đã quyết định chọn và nghiên cứu đề tài: ” Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1″ 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 2.1.Mục tiêu nghiên cứu Giúp giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học nói chung tìm ra phương pháp rèn chữ viết tốt nhất, hay nhất nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Giúp giáo viên có đủ vốn kiến thức cần thiết cho việc rèn chữ. Giúp giáo viên có trình độ, năng lực sư phạm, năng lực tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm tích cực hoá hoạt động của người học. Ngoài ra, còn giúp giáo viên tích cực hoá hoạt động của mình: Giao việc cho học sinh; Kiểm tra học sinh; Tổ chức báo cáo kết quả làm việc;Tổ chức đánh giá. Thông qua việc nghiên cứu để có biện pháp cải tiến phương pháp giảng day, khắc phục những tồn tại về chữ viết cho học sinh nhằm giúp các em viết đúng, viết đẹp. 2.2..Nhiệm vụ nghiên cứu. 3
II. PHẦN NỘI DUNG 1.Cơ sở lý luận. 1.1.Tầm quan trọng của chữ viết. 5
Chữ viết là sáng tạo kỳ diệu của con người. Sự xuất hiện của chữ viết đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của ngôn ngữ. Chữ viết và dạy chữ viết được mọi người quan tâm. việc thực hiện rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh tiểu học đã được nhiều thế hệ thầy, cô giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy chữ viết. Tuy vậy vẫn còn có những học sinh viết sai viết xấu và viết chậm. Đều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập Tiếng Việt nói riêng, học các môn khác nói chung.
Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè việc giúp các em làm quen với chữ viết thật là khó khăn, tay cầm bút còn vụng về, Sau mỗi tiết học tập viết, tôi cảm thấy đối với học sinh ở độ tuổi lớp 1 nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng, viết đẹp ngay là một điều khó có thể thực hiện được. Do vậỵ, đối với giáo viên cần phải có sự dạy dỗ công phu, nhiệt tình, tập trung xây dựng biện pháp rèn chữ viết cho phù hợp với lứa tuổi, để các em tiếp thu được một cách vững chắc, chúng ta cần được sự kết hợp với gia đình để được sự kèm cặp sát sao của phụ huynh học sinh, với ý chí không ngừng cố gắng, chăm rèn chữ viết của học sinh . Vậy để việc rèn chữ viết đẹp của từng học sinh, của tập thể lớp 1/1 có hiệu quả cao, trước tiên cần xây dựng được nề nếp và kỹ thuật viết chữ đúng đó là cơ sở để viết chữ đẹp và cũng chính là yếu tố có tính quyết định việc rèn chữ viết đẹp của các em trong suốt quá trình học tập. 1.2. Vì sao phải rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ? Đây là một câu hỏi đặt ra cho mỗi giáo viên giảng dạy và nhất là đối với giáo viên dạy lớp Một. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp Một nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay là một điều không thực tế, khó có thể thực hiện được. Do vậy đối với từng lớp giáo viên cần lựa chọn mục tiêu và trọng tâm của từng môn học phù hợp với lứa tuổi của học sinh để học sinh tiếp thu bài một cách vững chắc. Tôi đã xác định muốn viết chữ đẹp thì việc cần làm đầu tiên ở lớp Một là rèn cho các em nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng thì mới có cơ sở để viết chữ đẹp cho suốt quá trình học tập của học sinh. 6
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1 của trường Tiểu học Quyết Thắng, bản thân tôi cũng như một số cô giáo cũng đã thực hiện một số biện pháp rèn chữ viết đẹp cho các em nhưng kết quả vẫn chưa cao, cụ thể lớp tôi chủ nhiệm như sau: – Do sự phối hợp giữa GVCN và phụ huynh HS chưa cao, nên việc chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập của các em còn kém chất lượng .
7
– GVCN chưa có kế hoạch cụ thể về thời gian cho việc rèn chữ viết ở lớp, ở nhà cho HS – Sĩ số HS của lớp quá đông khó hướng dẫn cụ thể đến từng em. – GV chưa được nghiên cứu và đầu tư cao về công tác rèn chữ viết cho học sinh . – GVCN chưa xây dựng được phương pháp rèn chữ viết đạt hiệu quả cao. – Chưa đẩy mạnh được phong trào chăm rèn chữ viết ở học sinh . Biện pháp khắc phục: Qua một số biện pháp thực hiện đã nêu trên, nhưng kết quả vẫn chưa cao, nay tôi nghiên cứu tài liệu và học hỏi ở đồng nghiệp xây dựng nên một số biện pháp sáng tạo và khoa học hơn, nhằm nâng cao chất luợng về phong trào giữ vở sạchrèn chữ viết đẹp cho HS lớp 1A như sau: * Kế hoạch rèn chữ viết cho HS( cách chuẩn bị vở sách và bố trí thời gian ) * Cách thực hiện rèn chữ viết cho học sinh + Hướng dẫn luyện viết các nét cơ bản + Hướng dẫn luyện viết các nhóm chữ thường, + Hướng dẫn luyện viết bài theo chương trình. + Hướng dẫn luyện viết ở vở Tập viết + Luyện viết câu ứng dụng + Xây dựng và bồi dưỡng HS thi viết chữ đẹp các cấp. 3. Giải pháp, biện pháp. 3.1.Mục tiêu. + Về tri thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết nét chữ hoặc lên kết chữ cái … Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ viết. +Về kĩ năng: Viết đúng quy trình – nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng 8
kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả). – Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng. Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học. – Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường kẻ ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, ký hiệu luyện viết ở nhà. – Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự vào cùng bài dạy xuất phát từ quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy viết theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện. 3.2.1. Hướng dẫn học sinh sử dụng đúng cách các đồ dùng học tập Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông qua 2 hình thức: viết trên bảng (bảng cá nhân – bảng con, bảng lớp) bằng phấn và viết trong vở tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: a. Bảng con, phấn trắng, khăn lau. Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn (thể hiện được 5 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Khăn lau sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa không ảnh hưởng đến chữ viết. Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra. Để việc sử dụng các đồ dùng 9
học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau: – Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng qui định: + Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết. + Phấn viết có độ dài vừa phải. + Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải. – Sử dụng bảng con hợp lí và đảm bảo vệ sinh: + Ngồi viết đúng tư thế. + Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách. + Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét. + Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng. b. Vở tập viết, bút chì, bút mực: – Vở tập viết lớp Một cần được bao bọc, dán nhãn tên, giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. – Bút chì dùng ở 8 tuần đầu lớp Một cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không nhọn quá hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ. – Bút mực trước đây đòi hỏi học sinh hoàn toàn sử dụng loại bút có quản, ngòi bút nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm. 3.2.2. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ
* Luyện viết các nét cơ bản: (Giai đoạn viết chữ nhỡ) Vào đầu năm học, tôi cung cấp ngay cho các em một số nét cơ bản như: -Nét sổ thẳng: viết nét thẳng đứng trong hai li theo mẫu sau đó luyện viết ở BC – Nét khuyết xuôi: Đặt bút từ dòng kẻ ngang li thứ hai lượn bút viết nét khuyết cao 5 li rộng 1 li – Nét khuyết ngược: đặt bút từ dòng hai của li thứ hai đưa bút xuống viết nét khuyết ngược 5 li rộng 1li. – Nét móc xuôi: Đặt bút từ dòng ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc xuôi 2 li 10
– Nét móc ngược: Đặt bút từ dòng ngang thứ hai đưa bút xuống 2 li lên nét hất 1 li. – Nét móc hai đầu: đặt bút từ dòng ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc, lượn bút xuống viết nét móc ngược phải, được nét móc hai đầu kết thúc hết li 1 – Nét móc hai đầu có thắt ở giữa: Phần trên nét thắt viết hơi giống chữ c, phần dưới nét móc viết gần giống nét móc hai đầu. – Nét cong hở phải: Đặt bút dưới dòng kẻ ngang thứ 3 của li 2 viết nét cong hở phải kết thúc giữa li 1. – Nét cong hở trái : Đặt bút giữa li thứ 2, lượn bút viết nét cong hở trái kết thúc nét cong giữa li 1. – Nét cong kín: Đặt bút giữa li 2 dưới dòng kẻ ngang thứ 3 lượn bút viết nét cong kín. -Tôi phân tích kĩ từng nét để các em nắm chắc. Nếu như cùng một lúc mà các em viết đúng, đẹp ngay thì điều đó khó có thể thực hiện được. Do vậy, tôi có kế hoạch cho hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng như sau: Mỗi buổi học vào tiết cuối, tôi hướng dẫn cho cả lớp cùng viết vào bảng con các nét sổ thẳng, xiên, nét khuyết xuôi, khuyết ngược, sau đó hướng dẫn cho HS viết lại vào vở. Sau mỗi ngày như vậy tôi chấm vở và nhận xét xem các em viết đã đạt yêu cầu chưa. Sau đó chọn ra những em viết đúng, đẹp tuyên dương trước lớp, còn những em viết chưa đúng, chưa đẹp GV kịp thời sửa sai, uốn nắn cho HS. Cứ tương tự như vậy hằng ngày, hằng tuần để các em luyện viết đúng, nắm chắc được các nét cơ bản đã nêu trên *Luyện viết theo nhóm chữ:
Khi các em đã viết chắc được các nét cơ bản thì việc kết hợp để viết được các nhóm chữ tương đối dễ dàng hơn và các em sẽ tập trung cho việc rèn chữ viết nhiều hơn. Hướng dẫn HS nắm chắc về độ cao của từng con chữ: Các con chữ được viết trong hai li như: a,ă,ă,o,ô,ơ,u,ư,n,m,v,x,i , Các con chữ được viết trong hai li rưỡi: chữ s,r. Các con chữ được viết trong 3 li như: t 11
Các con chữ được viết trong bốn li như: d.đ,p,q Các con chữ được viết trong năm li như: b,l,h,,g,k,y, Khi hướng dẫn GV cần chú ý cách bắt bút từ nét hất đầu tiên Khi luyện viết các chữ có nét khuyết rất nhiều em thường viết sai nhiều ở nét khuyết. Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, để học sinh viết đúng kĩ thuật ngay từ đầu tôi chia thành các nhóm chữ và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ hay sai chỗ nào, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các chữ ở nhóm đó. Nhóm 1: Gồm các chữ: m n i u ư v r t Với nhóm chữ này học sinh hay mắc lỗi viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc thường hay bị đổ nghiêng, khi hất lên thường bị choãi chân ra không đúng. – Để khắc phục nhược điểm này ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng tâm rèn luyện cho học sinh viết nét móc ngược, nét móc hai đầu thật đúng, thật ngay ngắn trước khi ghép các nét tạo thanh chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý minh họa rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp.
Ví dụ: Chữ n: Hướng dẫn lượn bút nét hất từ giữa li thứ hai viết nét móc xuôi(1) dừng bút ở dòng kẻ li thứ nhất ,không nhấc bút mà ngược lên dòng kẻ li thứ hai để viết nét móc hai đầu, kết thúc đến hết li thứ nhất .( cần chú ý có HS rê bút bắt đầu từ từ dòng kẻ hai hết li thứ hai ) Trong nhóm chữ thường có chữ t, HS thường hay viết nhầm về độ cao là 4 li, do đó GV cần chú ý khi luyện viết chữ này. * Nhóm 2: Gồm các chữ: l b h k y p – Ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ viết còn cong vẹo – Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết bằng một dấu chấm nhỏ và rèn cho học sinh thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng. 12
Ví dụ: Chữ h viết nét khuyết cao 5 li,rộng 1 li, nét móc hai đầu cao hai li rộng 1 li rưỡi và kết thúc hết li thứ nhất, rộng hai li rưỡi. Khi viết chữ k: Chữ k được viết 2 nét, nét khuyết trên được viết trong 5 li, nét thắt giữa được viết trong 2 li – Đối với học sinh lớp Một để viết được nhóm chữ này thẳng, ngay ngắn thì cần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng, thật thẳng ở ngay bài các nét chữ cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viết nét khuyết. – Từ các nét cơ bản ở nhóm chữ thứ nhất được viết đúng kĩ thuật học sinh sẽ có cơ sở viết chữ ở nhóm thứ hai dễ hơn. * Nhóm 3: Gồm các chữ: o ô ơ ă â ă c x e ê s d đ q g – Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng hầu hết học sinh viết sai từ chữ O như chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ không đều đầu to đầu bé. Chính vì vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy cho học sinh viết đúng chữ O để làm cơ sở cho việc viết đúng các chữ khác trong nhóm Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm tôi luôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể. Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng nhóm chữ này mới chuyển sang nhóm chữ khác, khi các nhóm chữ các em viết đúng kĩ thuật rồi mới tiến tới rèn viết đẹp nên các em rất say mê phấn khởi, không căng thẳng lo lắng khi tập viết. – Sau mỗi bài viết của các em cần nhận xét “nét nào được, nét nào chưa được” và hướng dẫn các em cách sửa lại những lỗi sai đó Ví dụ : chữ e thì từ giữa li thứ nhất, lượn bút lên hết li thứ hai kết thúc của chữ e đến giữa li thứ nhất ( nhiều học sinh có thói quen kết thúc đến hết li thứ nhất).
* Luyện viết theo từng bài học, theo chương trình: Vdụ :
Học bài âm m, n
Sau khi kết thúc tiết học tôi hướng dẫn cho HS viết khỏang 2 dòng chữ n, 2 dòng chữ m, hai dòng chữ nô, hai dòng chữ me rồi kiểm tra lại bài viết có nhận xét sửa sai cho HS. 13
** Một số lỗi sai học sinh thường mắc khi viết: + Thiếu nét
+ Sai mẫu chữ
+ Thừa nét
+ Sai cỡ chữ
+ Sai nét
+ Sai chính tả
+Sai về khoảng cách + Sai trình bày + Sai dấu
+ Sai tốc độ
** Phân tích nguyên nhân và cách khắc phục: + Thiếu nét: VD:Khi viết vần ay các em hay bị viết thiếu một nét móc ngược của chữ y. Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét chữ đã dừng lại, cần nhắc thường xuyên để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm, đúng quy định. Giáo viên cần hướng dẫn cho những em viết thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa viết thiếu nét.
+ Thừa nét: VD: Khi viết từ đồi núi
đồi núu
Các em thường viết thừa một nét móc ngược giữa u với i Nguyên nhân: lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng vượt quá điểm quy định. 14
Cách khắc phục: giáo viên phải hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái đó.
+ Sai nét: Nguyên nhân: do học sinh cầm bút sai quy định, các ngón tay quá sát xuống ngòi bút, khi viết biên độ giao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét. Cách khắc phục: nhắc học sinh cầm bút cao tay lên (từ đầu ngòi bút đến chỗ tay cầm khoảng 2,5 cm) Khi viết 3 ngón tay cử động co duỗi linh hoạt phối hợp với cử động của cổ tay, cánh tay.
+ Sai về khoảng cách: – Nguyên nhân: lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều. – Cách khắc phục: Cần giúp học sinh kĩ thuật viết liền mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là 2/3 đơn vị chữ (1 con chữ o) khoảng cách giữa hai chữ trong một từ là một đơn vị chữ (1 ô vuông đơn vị). Viết xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh.
15
+ Dấu chữ, dấu thanh – VD: Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá cao không đúng vị trí. – Nguyên nhân: Lỗi này thường do các em không cẩn thận mặt khác còn do giáo viên không hướng dẫn và nhắc nhở các em thường xuyên. – Cách khắc phục: Để khắc phục lỗi này cần quy định lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ. Đánh dấu nhỏ thì những nét chính của chữ sẽ nổi rõ dấu nhỏ còn giúp trang vở không bị rối bài viết sẽ thoáng hơn.
Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết chưa đúng cần giúp trẻ rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót lần sau. Khi ngồi viết thấy mỏi tay, mồ hôi tay ra nhiều, hoặc hoa mắt … cần phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như vươn vai, hít thở, tập vài động tác thể dục. *Luyện viết từ, câu ứng dụng:
Trước khi vào bài viết: Tôi viết mẫu lên bảng: Ví dụ:” nhà sàn” Hỏi:Từ nhà sàn được viết bởi mấy chữ: HS trả lời:Từ “nhà sàn” viết hai chữ, chữ “nhà”và chữ “sàn”.Viết chữ nhà cách chữ sàn khoảng cách là bao nhiêu? HS trả lời chữ “nhà” cách chữ “sàn” một con chữ o. Viết từ “nhà sàn”xong viết tiếp từ “nhà sàn”kia cách nhau là bao nhêu con chữ o? HS trả lời: Viết từ “nhà sàn” cách từ “nhà sàn”, hai con chữ o. Trước khi luyện viết vào vở, tôi luyện cho các em viết ở bảng con trước sau đó mới viết vào vở. 16
Viết câu: Ví dụ: Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lợn cổ xuống ao. Các chữ trong câu được viết cách nhau một chữ o( ở giai đoạn học kỳ I các em viết chữ nhỡ) *Luyện viết nét thanh nét đậm:
Việc rèn cho các em viết nét thanh, nét đậm thật không dễ dàng chút nào, ngay từ đầu năm học, tôi chuẩn bị cho mỗi em một mẫu giấy nháp có độ dày được đính cố định trên bàn .Khi viết bài nếu bút chì bị tà, mũi to thì các em mài vào đó để các em dễ dàng thực hiện được nét thanh, nét đậm. Đồng thời tôi hướng dẫn cho các em biết, khi viết nét thanh đưa bút lên nhẹ tay, khi viết nét đậm đưa bút xuống hơi mạnh tay . – Đến giai đoạn viết bút mực, tôi hướng dẫn cho HS dùng loại bút (lá tre mũi kim loại) để các em dễ dàng thực hiện được nét thanh, nét đậm. Thực hiện viết chữ có nét thanh, nét đậm khi viết đưa bút lên nhẹ tay, lượn bút xuống hơi nặng tay. Nhũng yêu cầu đó tôi áp dụng vào lớp tôi chủ nhiệm học sinh đạt được 70% HS viết được nét thanh, nét đậm. -Một điều cần chú ý hơn nữa trong giai đoạn luyện viết, tuyệt đối không để HS viết với tốc độ quá nhanh, khi viết quá nhanh các nét không chuẩn, chữ viết sẽ bị chuệch choạc: VD chữ ch, kh, nh, th, ngh, gh Đối với vở HS theo quy định : Vở phải có nhãn, bao bọc cẩn thận, cần phải giữ vở sạch sẽ không bôi bẩn, không để vở quăn góc. – Nếu như chúng ta không thường xuyên kiểm tra về việc giữ vở hoặc ra bài mà không có sự kiểm tra đánh giá, thì chắc hẳn việc rèn chữ viết của các em khó thành công. Cho nên việc kiểm tra, đánh giá đựơc tiến hành thường xuyên và tuyên dương kịp thời. Đối với những em viết chưa đúng, chưa đẹp cần phải hướng dẫn phân tích kĩ để các em nắm, phát hiện ra những mặt tồn tại để các em khắc phục sửa sai.
17
Hằng tháng tôi còn phát động thi viết chữ đẹp, giữa các nhóm trong lớp.Cuối tháng tôi chấm vở, tổng kết tuyên dương khen thưởng cho cá nhân, nhóm đã có thành tích rèn chữ đẹp bằng những hình thức sau:Vở, bút, nhãn vở, bông hoa để khích lệ các em đã có tinh thần, ý thức trong việc rèn chữ viết *Luyện viết cho HS dự thi viết chữ đẹp các cấp: Qua 3 tuần học đầu tiên, tôi chọn ngay cho lớp một đội tuyển gồm khoảng 4,5 em, sau đó tôi lên kế hoạch về thời gian để rèn viết cho các em.Tiết cuối của các buổi học 2buổi /ngày khoảng thời gian 20 phút tôi luyện viết chuẩn lại các nét cơ bản, các con chữ một chữ cái, hai, ba chữ cái, cần uốn nắn sửa sai từng chữ vào vở của các em để các em có thức rèn viết ngay từ buổi ban đầu. Sau khi chọn ra đội tuyển HS viết chữ đẹp của lớp, tôi có kế hoạch bồi dưỡng như sau: Yêu cầu phụ huynh chuẩn bị thêm: -Chuẩn bị thêm vở tập viết tập 1và tập 2 -Vở giấy trắng chất lượng cao, có kẻ ô rõ ràng để dùng viết bút mực không bị nhoè mực. Đối với GV: – Sưu tầm tài liệu, sách tham khảo về cách rèn chữ viết đẹp cho HS, bài dự thi viết chữ đẹp đạt giải. – Có kế hoạch về thời gian cụ thể ở trường, ở nhà. – Giấy phô tô về kích cỡ, dòng kẻ theo vở tập viết. Biện pháp: Sau mỗi buổi học cả lớp luyện viết chữ theo chương trình còn những HS luyện viết chữ đẹp có nội dung luyện viết riêng GV chuẩn bị: Ví dụ :
18
Viết vào vở chữ: l,h,m,n, mỗi chữ viết hai dòng chữ đứng nét đều, hai dòng chữ nghiêng có nét thanh nét đậm(Tất cả HS đều tự viết GV theo dõi giúp đỡ sửa sai) Cuối giờ luyện viết, tuyên dương những bài viết đẹp, nhắc nhở những bài viết chưa đẹp và sai sót ở phần nào để các em tự sửa sai. Cứ tương tự như vậy luyện viết theo kế hoạch thời gian cụ thể; Khoảng 10 phút tiết cuối của thứ hai, thứ tư luyện viết chữ đứng nét đều theo mẫu vở tập viết. Khoảng 10 phút của thứ ba ,năm, sáu luyện viết chữ nghiêng có nét thanh, nét đậm vào vở giấy trắng . Tóm lại: Muốn luyện viết đạt kết quả tốt HS phải nắm chắc về: Chữ mẫu; Cấu tạo của chữ; Kĩ thuật viết chữ. 3.2.3. Chữ mẫu của giáo viên: Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó. Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước” và làm theo mẫu, giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh lớp Một. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy mỗi giáo viên cần rèn luyện viết đúng, viết đẹp, viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí mà mọi giáo viên phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học. Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ vừa giảng giải, phân tích cho học sinh. Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của giáo viên viết từng nét chữ. Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào? Thứ tự các nét viết ra sao? Giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh. Trong quá trình chấm chữa bài giáo viên chữa những lỗi học sinh sai phổ biến, hướng dẫn kỹ lại cách viết của chữ cái đó để học sinh khắc sâu cách viết một 19
Tiết day minh họa: 20
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Kinh Nghiệm Rèn Chữ Viết Cho Học Sinh Lớp 3
Đề tài: MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 3 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Như chúng ta đã biết đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển mạnh. Vấn đề tri thức cũng được nâng lên sánh vai cùng với các nước trên thế giới. Chính vì lẽ đó việc học tập của học sinh rất được quan tâm, nhất là bậc tiểu học. Học sinh đến trường mỗi ngày là một niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên. Đến trường các em không những được vui chơi mà còn rèn cho các em về mọi mặt để trở thành một con người hoàn thiện. Trong ngưỡng cửa đầu đời của các em là bước chân vào lớp 1. Các em được làm quen với các kiến thức sơ giản, chữ viết tròn xinh bắt đầu xuất hiện nhưng chỉ dừng lại ở chữ viết thường. Khi các em bước sang lớp 2 các em bắt đầu làm quen với các chữ viết hoa. Giai đoạn hoàn thiện các chữ hoa lại là lớp 3. Chữ viết có ở các môn nhưng thông dụng nhất là phân môn chính tả và môn tập viết. Nếu chữ viết đúng mẫu, đều nét, rõ ràng thì học sinh có điều kiện ghi chép các môn học tốt hơn dẫn đến kết quả học tập sẽ cao hơn. Còn chữ viết xấu, không đúng mẫu, tốc độ viết chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Người ta thường nói chữ viết đẹp là "sản phẩm nghệ thuật" mang bản sắc của mỗi dân tộc. Không những vậy chữ viết còn thể hiện một phần về tính nết của con người. Rèn chữ viết chính là rèn nết người. Quả đúng như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng : "Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc vở của mình". Nhằm giúp cho các em phát triển toàn diện về trí tuệ, nhân cách, tình cảm. Người học sinh lúc nào cũng phải cần có đủ 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Các em phải đọc thông rồi mới viết thạo. Nhưng không dừng lại ở viết thạo mà còn nâng cao hơn viết đúng và đẹp. Muốn rèn cho học sinh viết đẹp quả là một công việc không đơn giản. Giáo viên trước hết phải có tính kiên trì, nhẫn nại, tận tình. Giáo viên có tâm huyết bao nhiêu thì sẽ đảm bảo sự thành công ở học sinh bấy nhiêu. Nhưng thực tế cho thấy, qua nhiều năm đúng lớp 3 tôi nhận thấy mặc dù các em đã qua giai đoạn học viết chữ hoa ở lớp 2 nhưng sang lớp 3 các em vẫn chưa viết được chữ hoa hoặc viết chưa đúng mẫu. Chữ viết thể hiện ở các môn học cẩu thả, bỏ nét, lúc thì chữ in lúc thì chữ hoa không đồng bộ. Khoảng cách các con chữ không đều, Vậy nguyên nhân nào đẫn đến chữ viết chưa đẹp ở học sinh. Vấn đề này tôi nhận thấy nó bao hàm từ nhiều phía: a. Về phía học sinh: Như chúng ta biết một lớp học có nhiều đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu. Những em học khá, giỏi thường có tính cẩn thận, trình bày sạch sẽ, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động. Còn ngược lại những em học trung bình, yếu thì hay lười học, không đem đầy đủ dụng cụ khi đến lớp. Quan trọng hơn là tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở chưa phù hợp. Khi giáo viên giảng bài các em hay làm việc riêng không chú ý nghe giảng. Khi viết chữ học sinh chưa nắm rõ cấu tạo của chữ viết như: các nét cơ bản, độ cao các con chữ, khoảng cách, Việc giữ sạch sách vở hoặc chọn bút viết cũng chưa có ý thức. Nhiều học sinh học lớp 3 nhưng chữ viết quá xấu đến nỗi thầy cô không đọc ra chữ. Cả những chữ hoa hoặc chữ in cũng không biết viết. Học sinh thể hiện chữ viết của mình một cách tùy tiện, chữ thì mất nét, sai cỡ chữ, dấu thanh đặt sai vị trí, khoảng cách chữ viết không đều nhau. Đây cũng là đều trăn trở của các thầy cô chủ nhiệm, các bậc phụ huynh, Ban giám hiệu nhà trường. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên các em còn thụ động trong tiết học, nhận thức về môn học còn mơ hồ, đặc biệt là môn Tập viết lại càng xem là không quan trọng, dẫn đến học sinh viết xấu, viết sai còn nhiều. b. Về phía giáo viên: Giáo viên đôi khi còn xem nhẹ phân môn tập viết, nên chỉ hướng dẫn sơ sài rồi cho học sinh viết bài. Có lúc giáo viên không viết mẫu ở bảng lớp mà chỉ đính chữ mẫu rồi cho học sinh nhìn vào đó viết ra. Khi học sinh ngồi viết giáo viên chưa thật sự quan tâm nhắc nhở, kiểm tra thường xuyên ngồi như thế nào cho phù hợp, cầm bút như thế nào là đúng. Ngoài ra, do ảnh hưởng chữ của giáo viên chưa đẹp, chưa đúng mẫu, cách truyền đạt chưa truyền cảm dẫn đến tiết học khô khan, nhàm chán, kém sinh động. Chưa quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Chính vì sự lơ là, sơ sài của giáo viên dẫn đến học sinh cũng viết không đẹp, không đúng mẫu. c. Về phía cha mẹ học sinh: Đa số phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn, đi làm thuê cho người khác hoặc đi làm ăn xa để con lại cho ông bà trông nên việc quan tâm đến con học còn thấp. Việc kiểm tra tập vở, đồ dùng học tập của con không được thường xuyên. Thậm chí có gia đình không hướng dẫn cách học cho con vì bản thân không biết chữ. Do đó việc tự học của con em là chính. Nhiều phụ huynh nghĩ rằng vở tập viết không quan trọng lắm. Nhưng đôi khi cũng có trường hợp phụ huynh không am hiểu về mẫu chữ viết. Vì vậy mà kết quả học tập, trình độ nhận thức của các em chưa cao, đặc biệt là phần viết chữ đẹp còn thấp. Từ những thực trạng trên tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi biện pháp giúp các em có ý thức rèn chữ viết hơn, hoàn thiện hơn về nhân cách. Với tầm quan trọng đó, tôi đưa ra một số kinh nghiệm nhằm rèn chữ viết cho học sinh với mong muốn sẽ góp phần nào đó cho việc giảng dạy được tốt hơn. Do đó tôi đưa ra một số kinh nghiệm của mình đó là: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Qua thời gian đứng lớp 3 nhiều năm tôi rất quan tâm và luôn đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để học sinh viết đúng và đẹp? Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu rõ nguyên nhân tôi đã áp dụng một số biện pháp để nâng cao chữ viết đẹp cho học sinh lớp 3 và thu được kết quả rất tốt. Tôi xin trình bày như sau: a. Đối với học sinh: Học sinh là hy vọng, là tương lai của Đất nước. Vì thế chăm lo trí tuệ cho các em cũng như chăm lo cho Đất nước. Nhưng không chỉ dừng lại ở phần văn hóa mà còn giúp các em hiểu cái đẹp, mà cái đẹp ấy đã thể hiện trong chữ viết của mình. Khi các em bước sang lớp 3 là giai đoạn các em đã hoàn thành chữ viết. Vì thế nếu các em chưa nắm vững cách viết thì giáo viên có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể cách viết về kiến thức và kĩ năng như sau: - Dạy cho học những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ tọa độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái. Từ đó hình thành ở các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của các chữ viết. - Dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phúc tạp, bao gồm kĩ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái, tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kĩ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh và viết đẹp. Ở giai đoạn này người giáo viên phải có lòng kiên trì, nhẫn nại. Ví dụ: Hướng dẫn viết chữ hoa A Giáo viên nhắc lại các nét cơ bản: gồm 3 nét (nét cong phải, nét móc ngược, nét ngang hơn lượn). Giáo viên vừa viết mẫu vừa nêu cách viết: Viết nét 1: Từ điểm bắt đầu ở giao điểm của đường kẽ dọc 2 với đường kẻ ngang 3 tạo nét cong phải chạm đến đường kẻ ngang 1 rồi hơi lượn và đưa bút lên đến giao điểm của đường kẻ dọc 5 và đường kẻ ngang 6. Viết nét 2: (nét móc ngược) Từ điểm kết thúc nét 1 kéo thẳng đến gần đường kẻ ngang 1 và lượng vòng lên cho tới đường kẻ ngang 2 ở khoảng giữa đường kẻ dọc 6 và 7. Viết nét ngang hơi lượn: Lia bút lên đến phía trên đường kẻ ngang 3 và viết nét ngang hơi lượn chia đôi chữ. Ví dụ: Hướng dẫn HS viết từ ứng dụng Khánh Bình Đông . Giới thiệu và yêu cầu học sinh đọc từ ứng dụng: Khánh Bình Đông . Giải thích từ: Khánh Bình Đông là tên riêng của một xã trực thuộc huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. . Hướng dẫn học sinh quan sát - nhận xét chữ mẫu: + Những chữ nào có độ cao 2,5 ô li? (K, B, Đ, h, g) + Những chữ nào cao độ cao 1 ô li? (a, n, i, ô) + Khoảng cách giữa các con chữ là bao nhiêu? (1 chữ ô) + Giữa chữ với chữ là bao nhiêu? (nữa chữ ô) . Giáo viên vừa viết vừa hướng dẫn cách viết từ ứng dụng. Lưu ý với học sinh cách viết liền mạch và đặt bút, dừng bút đúng qui định. . Viết chữ cho học sinh quan sát. Khánh Bình Đông . Yêu cầu HS viết vào bảng con. . Nhận xét - sửa chữa - Ngoài ra, phải thường xuyên nhắ nhở việc thực hiện tốt tư thế ngồi viết, cũng như cách đặt vở, cầm bút: + Cách đặt vở: Đặt vở nghiêng về bên phải so với bàn một góc 300. + Cách cầm bút: Cầm bằng 3 ngón tay: ngón trỏ, giữa, ngón cái. + Cách ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, thẳng lưng, ngực không tì vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở từ 25- 30 cm, tay phải cầm bút, tay trái giữ vở, hai chân để song song. b. Đối với giáo viên: Mỗi người thầy, người cô là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Có thể nói: "Cô nào trò nấy", quả đúng như vậy thầy cô viết chữ đẹp hay xấu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các em vì thế: - Trước hết bản thân luôn cố gắng rèn chữ viết của mình cho đúng và đẹp, tìm tòi, học hỏi cách viết chữ viết hoa tạo lòng tin cho các em. Giúp các em có lòng say mê cái đẹp, khám phá nét đẹp trong mỗi giờ học. - Có hiểu biết sâu rộng về kiến thức chữ viết như: đường kẻ, cỡ chữ, độ cao, các nét cơ bản; cũng như cấu tạo chữ, khoảng cách giữa các con chữ, cách viết thường, viết hoa, đặt dấu thanh - Có hiểu biết về kỹ năng nhằm để hướng dẫn học sinh viết đúng quy trình theo nét chữ và liên tiếp chữ tạo thành tiếng theo yêu cầu viết liền mạch, thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ, đặt dấu thanh đúng vị trí. Ngoài ra, giúp các em ngồi đúng tư thế, cách cầm bút và để vở. - Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học trong các tiết dạy, đặc biệt là tiết tập viết. - Tổ chức rèn luyện chữ viết cho học sinh mỗi tuần hai bài ở vở thực hành viết đúng, viết đẹp lớp 3 và được kiểm tra thường xuyên vào thứ sáu hàng tuần. - Ngoài ra, giáo viên có thể xây dựng các trò chơi thi viết chữ đúng, đẹp dành cho học sinh có khiếu về chữ viết. Thường xuyên kiểm tra việc giữ vở sạch chữ đẹp để các em có thói quen giữ gìn. Có thể tìm những tấm gương bạn tốt, người tốt kể để học sinh noi theo như: Cao Bá Quát, Vương Hi Chi (Người Trung Quốc), c. Đối với gia đình: Gia đình cũng không kém phần quan trọng, nếu gia đình nào có sự quan tâm nhiều đến quá trình học tập của con em thì kết quả mang lại sẽ cao hơn. Chính vì lí do đó người giáo viên cần phải: - Giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh của từng em, nắm bắt thông tin học tập ở nhà. - Tổ chức họp phụ huynh học sinh nhằm hướng dẫn, trao đổi cách học, quá trình học của con em. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường để con em học tốt hơn. - Giáo viên phải lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía phụ huynh để có biện pháp giáo dục, giảng dạy tốt hơn. - Việc học ở lớp rất quan trọng nhưng học ở nhà không kém phần quan trọng nên cần tổ chức cho các em học nhóm ở nhà. - Tổ chức cho các em luyện thêm chữ viết vào cuối tuần. - Nếu giáo viên biết linh hoạt phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thì kết quả mang lại khả quan hơn và chữ viết của các em sẽ ngày càng tiến bộ hơn. III. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Sau khi đã đưa ra một số biện pháp giúp các em rèn chữ viết đẹp. Thực tế đã đưa vào áp dụng cho thấy có tiến bộ hơn thông qua chấm vở sạch chữ đẹp năm học 2009- 2010: Năm học TSHS Lớp Loại A Loại B Loại C 2008- 2009 35 3A 8 22 5 2009- 2010 27 3A 10 15 2 Qua hội thi viết chữ đẹp ở trường vừa rồi đạt kết quả khá cao, các em có tiến bộ rõ rệt: + Tổng số học sinh tham gia: 4 em. + Tổng số học sinh đạt giải: 4 em (1 giải nhất, 1 giải nhì, 1 giải 3); và 1 em được công nhận viết chữ đẹp vòng trường. Từ những kết quả đạt được tôi nhận thấy nếu mỗi giáo viên đều có tâm huyết bồi dưỡng cho các em hứng thú trong học tập và tính kiên trì trong việc rèn chữ viết thì kết quả mang lại như mong muốn của chúng ta. Vì lợi ích, tương lai của con em tôi mong rằng chúng ta cần có sự quan tâm nhiều hơn, tạo mọi điều kiện tốt để cho mọi học sinh có đủ tự tin khi bước vào đời. Với những kinh nghiệm nêu trên bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng không tránh khỏi hạn chế, mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp quản lý để được áp dụng tốt hơn. Khánh Bình Đông, tháng 10 năm 2010 Người viết Đỗ Kim Hồng PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - Tên đề tài : Một số kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3. - Tác giả : Đỗ Kim Hồng. Tổ chuyên môn Trường Nội dung Xếp loại Nội dung Xếp loại - Đặt vấn đề - Biện pháp - Kết quả phổ biến, ứng dụng - Tính khoa học - Tính sáng tạo .. .. .. .. .. - Đặt vấn đề - Biện pháp - Kết quả phổ biến, ứng dụng - Tính khoa học - Tính sáng tạo .. .. .. .. .. Xếp loại chung : . Ngày .... tháng . năm . Tổ trưởng Xếp loại chung :.. Ngày .... tháng . năm . Hiệu trưởng PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN TRẦN VĂN THỜI Nội dung Xếp loại - Đặt vấn đề - Biện pháp - Kết quả phổ biến, ứng dụng - Tính khoa học - Tính sáng tạo .. .. .. .. .. Xếp loại chung : ... Ngày tháng .. năm .. Trưởng phòng BẢN TÓM TẮT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Họ và tên : Đỗ Kim Hồng Đơn vị : Trường tiểu học Khánh Bình Đông 1 Dạy lớp : 3 Tên SKKN: Một số kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3. II. NỘI DUNG: I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài: Nhằm giúp cho các em phát triển toàn diện về trí tuệ, nhân cách, tình cảm. Người học sinh lúc nào cũng phải cần có đủ 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Các em phải đọc thông rồi mới viết thạo. Nhưng không dừng lại ở viết thạo mà còn nâng cao hơn viết đúng và đẹp. 2. Thực trạng: Nhưng thực tế cho thấy, qua nhiều năm đúng lớp 3 tôi nhận thấy mặc dù các em đã qua giai đoạn học viết chữ hoa ở lớp 2 nhưng sang lớp 3 các em vẫn chưa viết được chữ hoa hoặc viết chưa đúng mẫu. Chữ viết thể hiện ở các môn học cẩu thả, bỏ nét, lúc thì chữ in lúc thì chữ hoa không đồng bộ. Khoảng cách các con chữ không đều, Vậy nguyên nhân nào đẫn đến chữ viết chưa đẹp ở học sinh. Vấn đề này tôi nhận thấy nó bao hàm từ nhiều phía: a. Về phía học sinh: Do sự hiểu biết còn hạn chế nên các em còn thụ động trong tiết học, nhận thức về môn học còn mơ hồ, đặc biệt là môn Tập viết lại càng xem là không quan trọng, dẫn đến học sinh viết xấu, viết sai còn nhiều. b. Về phía giáo viên: Do ảnh hưởng chữ của giáo viên chưa đẹp, chưa đúng mẫu, cách truyền đạt chưa truyền cảm dẫn đến tiết học khô khan, nhàm chán, kém sinh động. Chưa quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Chính vì sự lơ là, sơ sài của giáo viên dẫn đến học sinh cũng viết không đẹp, không đúng mẫu. c. Về phía cha mẹ học sinh: Đa số phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn, đi làm thuê cho người khác hoặc đi làm ăn xa để con lại cho ông bà trông nên việc quan tâm đến con học còn thấp. Việc kiểm tra tập vở, đồ dùng học tập của con không được thường xuyên. Thậm chí có gia đình không hướng dẫn cách học cho con vì bản thân không biết chữ. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu rõ nguyên nhân tôi đã áp dụng một số biện pháp để nâng cao chữ viết đẹp cho học sinh lớp 3 và thu được kết quả rất tốt. Tôi xin trình bày như sau: a. Đối với học sinh: - Dạy cho học những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ tọa độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái. - Dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phúc tạp, bao gồm kĩ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái, tạo chữ ghi tiếng. b. Đối với giáo viên: - Trước hết bản thân luôn cố gắng rèn chữ viết của mình cho đúng và đẹp. - Có hiểu biết sâu rộng về kiến thức chữ viết - Có hiểu biết về kỹ năng. - Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học trong các tiết dạy, đặc biệt là tiết tập viết. - Tổ chức rèn luyện chữ viết cho học sinh mỗi tuần. - Ngoài ra, giáo viên có thể xây dựng các trò chơi thi viết chữ đúng, đẹp dành cho học sinh có khiếu về chữ viết. c. Đối với gia đình: - Giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh của từng em, nắm bắt thông tin học tập ở nhà. - Tổ chức họp phụ huynh học sinh. - Giáo viên phải lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía phụ huynh. - Tổ chức cho các em học nhóm ở nhà. - Tổ chức cho các em luyện thêm chữ viết vào cuối tuần. III. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Kết quả áp dụng kinh nghiệm (số liệu hai năm gần nhất): Năm học TSHS Lớp Loại A Loại B Loại C 2008- 2009 35 3A 8 22 5 2009- 2010 27 3A 10 15 2 Qua hội thi viết chữ đẹp ở trường vừa rồi đạt kết quả khá cao, các em có tiến bộ rõ rệt: + Tổng số học sinh tham gia: 4 em. + Tổng số học sinh đạt giải: 4 em (1 giải nhất, 1 giải nhì, 1 giải 3); và 1 em được công nhận viết chữ đẹp vòng trường.
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Rèn Chữ Viết Cho Học Sinh Lớp 2
(29 ch ữ cái M 1 + mẫu 2) "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A Nắm được kích cỡ của của từng chữ viết hoa (thể hiện trong khung chữ trong mối quan hệ với chữ viết thường: VD : trong cùng một cỡ ch ữ các chữ cái viết hoa A, Ă, Â, B, C...có độ cao bằng các chữ cái viết th ường b, g, h,l , y - 2,5 đơn vị . Riêng hai chữ cái Y, G được viết với chiều cao 4 đơn vị ). Nắm được thao tác viết từng nét chữ tạo nên các chữ cái viết hoa ( đưa bút, lia bút theo đúng qui trình viết). Dạy cho HS biết nối ( ghép ) chữ cái viết hoa với chữ th ường trong một chữ ghi tiếng, để đảm bảo tính thẩm mĩ, phục vụ cho yêu cầu vi ết chính t ả và trình bày bài. Mặt khác, một vấn đề quan trọng nữa là: phải làm th ế nào đ ể HS luôn hiểu và hướng dẫn thế nào để HS viết đúng, viết đẹp. Đây là cả một quá trình lâu dài mà bắt buộc m ỗi ng ười th ầy chúng ta ph ải quan tâm và chú ýngay từ đầu đối với HS Tiểu học. 1.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 5 năm 2010. Lớp 2A - Trường Tiểu học An Sinh A II. Phần nội dung II.1 Chương I: TổNG QUAN I. Nghiên cứu lí luận : * Tầm quan trọng của phân môn Tập viết: Trong bộ môn Tiếng Việt gồm có các phân môn: Tập đọc, Chính t ả, Luy ện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện, Tập viết.Tất cả các phân môn c ủa b ộ môn Tiếng Việt giúp cho người học chiếm lĩnh nền văn hoá Việt, đó là công cụ để giao tiếp , tư duy và học tập, là ngôn ngữ nói, ngôn ng ữ vi ệt. Do v ậy phân môn Tập viết trong trường Tiểu học là quan trọng hàng đầu của môn Ti ếng Vi ệt, giúp HS hình thành năng lực và thói quen viết đúng m ẫu, đúng chính t ả, rèn tính cẩn thận cho HS. Năm học 2009 - 2010 tôi được nhà trường phân công ch ủ nhiệm lớp 2A, đồng thời trực tiếp 2 phân môn: Chính tả và Tập Viết tại trường Tiểu học An Sinh A. Trong quá trình tìm hiểu chữ viết của HS và tr ực ti ếp gi ảng d ạy ở môn Tập viết ở các lớp 2,3 tôi thấy tỉ lệ HS viết ch ữ xấu, sai m ẫu còn khá cao ở các lớp. Tôi thấy rằng tầm quan trọng của phân môn Tập viết trong giai đoạn hi ện nay là rất cấp bách. II. Cơ sở lí luận: 1. Cơ sở tâm lí học: Mục đích của phân môn Tập viết là: + Rèn kĩ năng viết chữ cho HS theo đúng mẫu quy định, + Kết hợp kĩ thuật dạy viết chữ với rèn kĩ năng viết đúng chính t ả, mở rộng vốn từ ngữ phục vụ cho học tập và phát triển t ư duy. Góp ph ần rèn luy ện những phẩm chất như: tính cẩn thận, lòng yêu thích cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng thể hiện qua chữ viết. 2. Cơ sở ngôn ngữ học: Trong quá trình hình thàn biểu tượng về chữ viết và hướng dẫn HS viết chữ, giáo viên thường sử dụng tên gọi các nét cơ bản để mô tả hình dáng, cấu tạo và quy trình viết một chữ cái theo các nét viết và quy định ở bảng mẫu chữ. + Nét viết + Nét cơ bản Dùng tên gọi các nét cơ bản , mẫu chữ cái viết hoa có nhiều nét cong, nét lượng tạo dáng Để hướng dẫn học sinh nhận diện hình chữ cái viết hoa phục vụ yêu cầu thực hành luyện viết chữ là chính, không sa vào ph ần phân tích lí thuyết cấu tạo nét chữ Tên gọi các kiểu chữ chỉ dùng khi giáo viên mô t ả c ấu t ạo, hình dáng ch ữ viết hoa cho cụ thể, rõ ràng. Không bắt HS học thuộc nhưng phải nắm chắc quy trình viết mẫu chữ. III. Chương trình SGK "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A - SGK phân môn Tập viết được lồng ghép trong SGK Ti ếng Vi ệt l ớp 2 t ập 1-2. - Vở thực hành tập 1 - 2 của HS. - Mỗi tuần có 1 tiết, cả năm học có 35 tiết, mỗi tiết học có 35 phút . - Cấu tạo một bài tập viểt trong SGK gồm 2 phần: + Viết chữ hoa + Viết ứng dụng (Tên riêng dịa danh, câu ca dao, câu tục ngữ) -Bài viết quy định HS phải viết những phần sau: + Tập viết ở lớp + Tập viết chữ nghiêng tự chọn + Luyện viết thêm + Có 2 hình thức luyện viết : luyện viết ch ữ viết hoa trong PP ch ương trình vở tập viết 2 và luyện viết trong vở luyện viết chữ đẹp Mỗi bài tập viết được in trong 2 trang vở liền kề. Thời gian một tiết học rất là ngắn, mà phần viết HS ph ải th ực hành r ất là nhiều. Qua tìm hiểu cấu tạo một bài viết trong vở th ực hành của HS tôi có vài nhận xét sau: Cấu trúc của một bài viết còn dài. Mẫu chữ cái viết hoa có nhi ều n ết ph ức tạp. Do vậy trong quá trình hướng dẫn giáo viên cần ph ải s ử d ụng nhi ều đ ồ dùng trực quan mô tả bằng lời ngắn gọn cho HS dễ hiểu. Cho HS luyện viết bảng con, GV uốn nắn, sửa sai chỉ ra từng chỗ sa để HS có ý thức tự sửa chữa và rèn luyện mình. II.2 Chương 2: Nội dung vấn đề Nghiên cứu II.2.1. Đặc điểm HS Trường Tiểu học An Sinh A - 100% các em sống ở vùng niền núi, cha mẹ các em đa số làm ngh ề nông. Điều kiện kinh tế ở một số gia đình còn hạn chế, còn có những gia đình không quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn coi nhẹ việc học tập và phó mặc cho nhà trường. Bản thân các em chưa có ý th ức t ự giác trong h ọc t ập, h ọc mang tính chất học cho xong. Do các nguyên nhân trên d ẫn đ ến k ết qu ả h ọc t ập của các em chưa cao. Phong trào giữ vở sạch, viết chữ đẹp còn hạn chế. II.2.2. Quan điểm của giáo viên về giờ tập viết: - Nhiều GV còn xem nhẹ về phân môn Tập viết. Chưa nghiên c ứu h ết t ầm quan trọng và chưa hiểu hết tầm quan trọng của nó. Nhiều giờ dạy mang tính chất là cho HS quan sát qua mẫu chữ qua loa. GV phân tích cấu tạo chữ còn lúng túng, chưa cụ thể hoặc chưa chính xác. Dẫn đén HS còn l ơ m ơ, ch ưa n ắm ch ắc quy trình viết. - Luyện viết trên bảng con: GV chưa chu đáo, tỉ mỉ chỉ ra cái mà HS còn sai, HS chưa có ý thức tự sửa chữa. - Khi hướng dẫn HS tự viết bài GV còn coi thường việc HS quan sát mẫu chữ, HS chưa nắm được điểm đặt bút và điển dừng bút, dẫn đến HS vi ết sai, t ừ tồn tại trên dẫn đến kết quả giờ tập viết đạt chưa cao. II.2. 3. Thực tế môn tập viết của lớp, của khối, của trường: * Thực tế của lớp: - Lớp có 1/3 hs viết xấu, viết chưa đúng mẫu chữ quy định. Chữ viết sai lỗi chính tả, viết mất dấu thanh, bỏ nét chữ. Một số em viết chậm, bài viết còn bỏ giở, chư có ý thức tự rèn luyện. Về thực trạng của khối, của toàn trường đều rơi vào tình trạng nêu trên. Để khắc phục được tình trạng trên, theo tôi bản thân mỗi giáo viên ph ải có trách nhiệm, đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, để giờ học đạt kết quả cao. "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A Về phía HS: Bản thân mỗi HS phải có ý th ức tự rèn luy ện mình tron t ất c ả các môn học và có thói quen giữ vở sạch, viết chữ đẹp. Qua thực tế giảng dạy và quá trình tìm hiểu đối t ượng HS l ớp 2A Tr ường Tiểu học An Sinh A. Tôi thấy trong khi viết bài còn mắc phải lỗi sai cụ thể là: Bài chữ hoa B: Lỗi HS sai là 2 nét cong phải đều viết bằng nhau. Bài chữ hoa E: Lỗi sai là nét xoắn nhỏ viết không cân đối. Bài chữ hoa H: Lỗi sai là nét khuy ết ngược và nét khuy ết xuôi vi ết không cân đối, HS thường víêt đầu to, đầu nhỏ. Bài chữ hoa P: Lỗi sai là nết cong trái nhỏ hơn nét cong phải. Bài chữ hoa R: Lỗi sai là nét cong phải trên to hơn nét móc ngược phải. Bài chữ hoa T: Nét conh trái lượn nhiều về bên trái. Bài chữ hoa X: Nét xiên trên và nét xiên dưới không đều nhau. Bài chữ hoa V: Không có độ lượn của nết móc xuôi phải... Ngoài những lỗi HS hay viết saỉ mẫu chữ cái hoa, HS hay vi ết sai ở c ụm từ ứng dụng, sai về chính tả, sai dấu thanh và khoảng cách, độ cao các chữ. Ví dụ : Cụm từ ứng dụng: - Bạn bè xum họp viết thành Bạn bè sum họp - Chia ngọt sẻ bùi - Chia ngọt xẻ bùi. - Dân giầu nước mạnh - Dân ràu nước mạnh . - Góp sức chung tay - Góp xức trung tay... Qua xem xét các bài tập viết, thu vở chấm bài viết tại ch ỗ c ủa HS tôi th ấy có kết quả như sau: Sĩ số HS: 20 em + Sai mẫu chữ : 7 em = 35% + Sai cỡ chữ : 5 em = 25% + Sai quy trình : 6 em = 30% + Sai khoảng cách : 5 em = 25% Ngoài các lỗi trên, các em còn mắc phải một số lỗi khác: Khi viết nh ững tiếng có chữ viết hoa, các em lia bút còn ngắt quãng, không li ền m ạch, ch ưa k ể bài viết của một số em còn bẩn, trình bày chưa khoa học theo yêu cầu. Để khảo sát thêm một số yêu cầu luyện viết, tôi cho các em viết thêm trong vở luyện viết vào buổi 2, các em viết sai về mẫu chữ khá phổ biến. Phần ch ữ đứng, một số em viết thành chữ nghiêng. II.2.4. Thực tế giảng dạy: Thực tế giảng dạy ở Trường Tiểu học An Sinh A: để nắm được tình hình thực tế của học sinh và tồn tại của phân môn Tập viết lớp 2 nói riêng và phân môn Tập viết của cả trường nói chung, tôi đã dự một số giờ iập viết sau: 3/ Dự giờ tiết 1: Tập viết ( Đồng chí Dạo lớp 2D) Bài 4: Chữ hoa C I. ổn định: II. Kiểm tra bài cũ: + GV hỏi : " Giờ trước chúng ta học bài gì? + GV gọi 2 HS lên bảng viết chữ hoa B, từ ứng d ụng B ạn, c ả l ớp vi ết bảng con + Lớp và GV nhận xét, sửa sai, ghi điểm. III. Bài mới : 1. Giới thiệu bài: Trong tiết học hôm nay cô hướng dẫn các con tập viết chữ hoa C. 2. Hướng dẫn viết chữ hoa: "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A - GV hướng dẫn mẫu: + GV đính mẫu chữ hoa C lên bảng - Yêu cầu HS quan sát và trả lời: Chữ hoa C cao mấy dòng li? Chữ hoa C cao 5 dòng li. Chữ hoa C gồm mấy nét? Đó là Chữ hoa C gồm 1 nét là kết hợp những nét nào? của 2 nét cơ bản: cong dưới và cong trái nối liền nhau, tạo thành vòng xoắn to ở đầu chữ. *) GV hướng dẫn quy trình viết: Đặt bút trên đường kẻ 6, viết nét cong dưới rồi chuyển hướng viết tiếp nét cong trái, tạo thành vòng xoắn to ở đầu chữ, phần cuối nét cong trái lượn vào trong, dừng bút trên đường kẻ 2 *) GV viết mẫu : vừa viết vừa nêu cách viết. *) Hướng dẫn HS luyện viết bảng con. - GV uốn nắn, sửa sai. 3/ Hướng dẫn viết cụm từ ứng dụng: 2 em đọc : Chia ngọt sẻ bùi. GV gọi HS đọc cụm từ ứng dụng GV giải nghĩa cụm từ: Phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Yêu cầu HS quan sát tiếp cụm từ C, h, g, b cao 2,5 li. t cao 1,5 li, s ứng dụng cao 1,2 li. Những chữ còn lại cao 1 Những chữ nào cao 2,5 li? Chữ nào li cao 1,5 li?1,2 li? 1 li? *) GV hướng dẫn HS viết chữ " Chia" vaò bảng con, + GV uốn nắn, sửa sai. 4/ Hướng dẫn HS viết vào vở tập viết. HS viết bài vào vở tập viết + GV nhắc nhở HS tư thế ngồi viết, cách để vở, cách cầm bút và quan sát kỹ mẫu trước khi viết bài. + GV theo dõi, uốn nắn. 5/ Chấm- chữa bài: GV chấm 5 bài: nhận xét, tuyên dương những em viết đúng, đẹp. 6/ Củng cố, dặn dò: + GV nhận xét, đánh giá tiết học. Giao bài về nhà. Nhận xét giờ dạy * Ưu điểm: Thời gian phân bố hợp lí. + Bài dạy đi đủ và đúng các bước. + Dạy đúng đặc trưng của một giờ Tập viết. + Giáo viên hướng dẫn HS tỉ mỉ, nhẹ nhàng, tình cảm. + HS nắm được bài và áp dụng viết bài tốt. * Tồn tại : "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A + Giáo viên viết chữ mẫu chữ đẹp, một số học sinh khi vi ết còn ng ồi ch ưa ngay ngắn. + Một số em viết nét chữ chưa đều, cụm từ viết chưa liền mạch. 50% học sinh trong lớp viết chữ còn xấu và sai mẫu quy định. Dự giờ Tiết 2 : Tập viết ( Đ/C Nguyễn Thị Ngoan Lớp 2B) Bài 6: Bài Chữ hoa Đ I. ổn định II. Kiểm tra bài cũ: + GV kiểm tra bài viết ở nhà, nhận xét + 2 HS nhắc lai bài viết trước + 2 em lên bảng viết chữ hoa D và lớp viết cụm từ ứng dụng : Dân giàu nước mạnh. + GV nhận xét, ghi điểm. III. Dạy bài mới: 1. Giới thiệu bài: Bài hôm nay cô hướng dẫn các con tập viết tiếp chữ hoa Đ. - GV gắn mẫu chữ hoa lên bảng 2. Hướng dẫn HS viết chữ hoa: a. Hướng dẫn HS quan sát và nhận xét: Chữ hoa Đ cao mấy dòng li? Chữ hoa Đ cao 5 dòng li. Chữ hoa Đ được viết bằng mắy Chữ hoa Đ gồm 2 nét.Nét1 như chữ nét? Đó là những nét nào? hoa D, nét 2 là nét thẳng ngang (ngắn) - GV nêu quy trình viết: Nét 1 : viết liền 1 nét để tạo thành chữ hoa D. - Nét 2: từ điểm dừng bút của nét 1 lia bút xuống đường kẻ 3 ( gần giữa thân chữ), viết nét thẳng ngang ngắn ( nết viết trùng đường kẻ), để thành chữ hoa Đ. - GV viết mẫu, vừa viết , vừa nêu quy trìh viết cho HS nắm được. - Yêu cầu HS viết bảng con chữ + HS thực hành trên bảng con theo hoa Đ - Đẹp. yêu cầu của GV - GV uốn nắn, sửa sai. b, Hướng dẫn cụm từ ứng dụng: " Đẹp trường, đẹp lớp" + Yêu cầu HS đọc cụm từ trên. 2 học sinh đọc - cả lớp đọc đồng thanh. Con hiểu cụm từ trên như thế nào? + Đưa ra lờ khuyên luôn giữ gìn + Yêu cầu HS nhận xét cụm từ ứng trường lớp sạch đẹp. dụng . + d, g, l cao 2m 5 li, p cao 2 li, t cao Hãy nêu độ cao của các chữ? 1,5 li,các chữ còn lại cao 1 dòng li. - Hướng dẫn HS viết chữ Đẹp cỡ nhỏ. - Hướng dẫn HS viết chữ Đẹp vào bảng con - GV uốn nắn, sửa sai. 3. Hướng dẫn HS viết bài vào vở Tập viết. "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A - GV nhắc nhở HS tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở + HS viết bài vào vở theo yêu cầu -Yêu cầ HS quan sat kĩ mẫu chữ của GV trước khi viết. - GV theo dõi, nhắc nhở. 4. Chấm, chữa bài: - GV thu 7 bài chấm và nhận xét, tuyên dương HS viết bài đạt điểm tốt, nhắc nhở HS còn viết chưa đạt. 5. Củng cố - Dặn dò: - GV nhận xét, đánh giá tiết học. - Giao bài về nhà. Nhận xét tiết dạy * Ưu điểm - Giáo viên đi đúng đặc trưng của phân môn Tập viết. - Thời gian phân bố hợp lí. - GV hướng dẫn mẫu chữ tỉ mỉ, đầy đủ. - Đồ dùng và thiết bị dạy học hợp lí, khoa học - Giáo viên nhẹ nhàng, tình cảm, tự tin. * Tồn tại: - GV viết mẫu chữ hoa chưa chính xác, chưa quan tâm đến các đối tượng HS. - 50% HS trong lớp viết chưa đẹp, sai mẫu, sai khoảng cách, cach đánh d ấu thanh. - 1 số em trình bày chưa sạch sẽ. * Từ 2 tiết dạy trên tôi thấy rằng: để HS nắm đ ược quy trình vi ết ch ữ hoa và áp dụng viết từ ứng dụng tốt thì mỗi giáo viên phải có nhiều s ự đầu tư và nghiên cứu kỹ cho tiết dạy, về phía HS phải có sự cố gắng rèn luy ện để viết đẹp và đúng mẫu chữ. II. 2 5. Nguyên nhân của các lỗi sai và các biện pháp sửa chữa: 1. Nguyên nhân 1: Viết sai mẫu chữ quy định - Hiện tượng mắc lỗi sai này khá phổ biến trong nhà trường, cái khó là ở chữ cái viết hoa, có nhiều nét cong phức tạp. Bên cạnh đó khi giáo viên h ướng dẫn viết thì một số HS không chú ý quan sát, còn hời hợt, xem nh ẹ phân môn này. *Biện pháp: - Để khắc phục được tồn tại này, GV phải đưa ra nhiều hình thức rèn luyện khác nhau. - GV chú trọng vào bước quan sát và nhận xét của HS. - HS có nắm được đặc điểm, cấu tạo của nét chữ, nắm được quy trình ti ến hành viết, biết được cách đặt bút từ đâu? và điểm dừng bút ở chỗ nào? Làm tiền đề vững chắc từng bước để áp dụng thực hành luyện viết tốt. 2. Nguyên nhân 2: - Tính cẩu thả khi thực hành luyện viết: + Nhiều em HS chưa trú trọng vào bài viết, chưa có tính cẩn th ận và chính xác. Các em chỉ viết thật nhanh để cho hết lượng bài được giao, ch ưa hiểu hết được tầm quan trọng của chữ viết. Các em còn coi thường bước quan sát mẫu trước khi viết. * Biện pháp: - Để khắc phục được lỗi là, giáo viên phải đề ra quy chế rõ rệt để HS áp dụng khi thực hành bài viết. - Yêu cầu quan sát thật kĩ mẫu chữ trong vở Tập viết. "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A - Viết bài theo hiệu lệnh của GV là: viết từng dòng, hết một dòng d ừng l ại để tìm xem mẫu chữ nào viết chưa đúng, chưa chuẩn. Sau m ới chuy ển sang dòng khác. - Để thực hiện được điều này GV phải đi quan sát từng HS, đặc bi ệt là phải quan tâm tới những HS yếu, viết chữ xấu. - GV phải chấm, chữa bài thường xuyên, để phát hiện ra cái cẩu th ả c ủa HS để kịp thời uốn nắn các em để các em luyện viết đúng và đẹp hơn. 3. Nguyên nhân 3: - Tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở, xê dịch vở khi viết: Với HS lớp 2, các em mới làm quen với cách cầm bút, cách để vở, cách xê dịch vở và tư thế ngồi viết, vì vậy GV phải chú trọng công vi ệc này trong m ỗi giờ tập viết để uốn nắn kịp thời cụ thể là: * Tư thế ngồi viết: Ngồi lưng phải thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu h ơi cúi, m ắt cách v ở t ừ 25 - 30 cm, hai chân song song thoải mái. * Cách cầm bút: Cầm bút bằng tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở,cầm bút b ằng 3 ngón tay, (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) với độ chắc vừa phải, (không c ầm bút ch ắc quá hay lỏng quá. Khi viết dùng 3 ngón tay di chuy ển bút nh ẹ nhàng t ừ trái sang phải. Cầm bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay, cánh tay c ử động nh ẹ nhàng. Ngoài ra chữ mẫu của GV phải thật chuẩn so với mẫu chữ hiện hành, khi GV hướng dẫn HS luyện viết chữ hoa, GV phải nói và viết cùng một lúc cho HS quan sát và theo dõi, vừa viết vừa nhắc HS lưu ý độ cao, nét gi ống và khác nhau với các chữ đã học.Đối với phần HS luyện viết tên riêng, câu ứng dụng , GV cần hướng dẫn HS luyện viết từng tên riêng trên bảng con, GV uốn n ắn, rút kinh nghiệm. GV cần giúp đỡ trực tiếp đối với HS viết sai, vi ết x ấu không đ ảm bảo yêu cầu của phân môn Tập viết. Khi HS được luyện viết trên bảng con hay vở Tập viết2, GV quan sát các em viết. Chú ý đến tốc độ viết của HS, rèn tính t ỉ m ỉ, c ẩn th ận khi vi ết ch ữ tráng qua loa, viết ẩu. GV căn cứ vào mục đích yêu cầu đặt ra cho t ừng bài theo quy đ ịnh c ủa chương trình để chấm bài Tập viết lớp 2, giúp HS tự nhận th ức đ ược ưu đi ểm (thành công) để phát huy, thấy rõ những thiếu sót (hạn ch ế) đ ể kh ắc ph ục, s ửa chữa kịp thời. Động viên những cố gắng, nỗ lực của HS khi viết chữ. Cách chấm bài Tập viết lớp 2 về cơ bản nhiều điểm giống ch ấm bài chính t ả, đi ểm khác ở chỗ: sau khi GV gạch chân ở dưới những chữ HS viết sai hoặc không đúng mẫu GV có thể viết mẫu chữ đó ra lề vở cho đối chiếu, so sánh tự rút ra "chỗ chưa được" để khắc phục, GV tuyệt đối không gạch đè lên chữ viết của HS. Bên cạnh việc ghi điểm GV cũng càn phải ghi lời nhận xét ngắn gọn th ể hiện sự biểu dương hay góp ý yêu cầu về chữ viết. Thang điểm đánh giá bài viết của HS là thang điểm 10, tuyệt đối không cho điểm 0. * Tổ chức thi viết trước lớp : Trong tiết Tập viết lớp 2 sau mỗi lần hướng dẫn để HS được th ực hành luyện tập tại lớp, GV có thể khuyế khích các em thi viết đúng, đẹp, nhanh tại lớp (Có thể thi sau khi HS đã hoàn thành bài trong vở). * Nêu gương, triển lẫm bài viết đẹp . Dạy, học Tập viết GV sử dụng phương pháp trực quan là vô cùng quan trọng, GV biểu dương những chữ viết đúng, đẹp tại lớp sau khi HS viết chữ trên bảng lớp, bảng con hay trong vở tập viết, GV cho HS xem những bài viết, "Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập viết" Nguy ễn Thị Nhan- Tr ường ti ểu h ọc An Sinh A vở sạch chữ đẹp từ năm học trước, hoặc của GV nhằm kích thích s ự rèn luy ện chữ viết của HS. * Tham gia hội thi viết chữ đẹp của trường, của huy ện, tỉnh, HS t ự kh ảng định chữ viét của bản thân, học hỏi ở bạn bè. * Để rèn chữ đẹp, GV nên hướng cho HS sử dụng bút viết trong giờ Tập viết. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định về loại bút được sử dụng trong trường tiểu học, nhưng gần đây, (nhất là từ khi Bộ GD - ĐT ban hành m ẫu ch ữ viết dùng trong trường tiểu học ) ở những vùng thuận lợi , nhiều HS đã sử dụng bút mực (Bút bi ngòi nước, bút máy ngòi mềm, bút dạ kim...) để viết bài. Dùng loại bút này để tập viết, HS viết chữ nắn nót hơn, nết chữ gọn h ơn..., một số em còn sử dụng bút máy đặc biệt, có khả năng viết kiểu chữ nét thanh, nét đậm . Thực tế dạy phân môn Tập viết ở Trường Tiểu học An Sinh A cho thấy GV quan tâm, nhắc nhở HS thực hiện đúng một số nề nếp, thói quen khi h ọc tập viết.( chuẩn bị bút, mực, bảng con, phấn...), tránh để mực giây, cầm bút đúng cách, viết chữ cẩn thận . Chất lượng viết chữ của các em ti ến b ộ rõ r ệt. Ngoài ra một yếu tố nừa cũng rât quan trọng để cho các em vi ết được ch ữ đ ẹp đó là : bàn ghế phải đúng quy cách, ánh sáng đầy đủ, vở HS được in trên gi ấy t ốt, GV phái có tính cẩn thận và viết chữ đẹp. Về thực tế lớp 2A do tôi chủ nhiệm gồm 29 em. Tôi quy đ ịnh đ ến gi ờ t ập viết và chính tả 100% HS phải viết bằng bút máy bơm mực. Yêu c ầu này đã được tất cả các bậc phụ huynh nhất trí cao. II.3 Chương III: Phương pháp nghiên cứu Kết quả nghiên cứu. II. 3. I: Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 1. Thu thập tài liệu và các phương pháp nghiên cứu. a. Thu thập tài liệu: - Sách dạy và học tập viết ở tiểu học. - Bộ thiết kế bài soạn Tiếng Viết tập 1-2 ( lớp 2) - Tài liệu hướng dẫn giảng dạy Tiếng Việt tập 1-2 ( lớp 2) - SGK Tiếng Việt tập 1-2 .( lớp 2) - Vở tập viết HS tập 1-2 ( lớp 2) -Vở luyện viết lớp 2 tập 1-2
Bạn đang xem bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Rèn Chữ Viết Cho Học Sinh Tiểu Học trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!