Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Đạt Loại C Cấp Huyện Năm Học 2014 mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
SKKN đạt loại C cấp Huyện năm học 2014-2015. Đề tài ” Một vài biện pháp giúp trẻ học tốt môn LQVT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ HỌC TỐT MÔN LÀM QUEN VỚI TOÁN
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tầm quan trọng
Trong thời đại ngày nay, trẻ em luôn được xác định là tương lai của đất nước, là những chủ nhân quyết định vận mệnh đất nước trong một thế kỷ tiếp theo. Quan tâm tới cả chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ là vấn đề nóng được cả xã hội quan tâm hàng năm, khi chuẩn bị bước vào một mùa khai giảng mới.
Theo các nhà tâm lý học, sự phát triển tâm lý – nhân cách là một quá trình kế thừa liên tục những thành tựu của các giai đoạn trước đó. Sự phát triển tâm lý – nhân cách ở lứa tuổi này vừa là sự kế thừa những thành tựu phát triển tâm lý – nhân cách ở lứa tuổi tiếp theo. Trẻ phát triển tốt ở giai đoạn này, sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp theo.
Quá trình hình thành các biểu tượng ban đầu về toán cho trẻ mẫu giáo là điều cần thiết. Góp phần quan trọng cho việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, nên việc dạy học và giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cùng với việc tiếp thu lĩnh hội tri thức của trẻ, vì thế để đạt được hiệu quả cao trong công tác giảng dạy và hình thành được các biểu tượng sơ đẳng ban đầu về toán cho trẻ là một hoạt động thiết thực và quan trọng của việc giáo dục trẻ mầm non. Điều đó có tác dụng thúc đẩy và góp phần tích cực vào việc giáo dục và truyền thụ tri thức giúp cho trẻ phát triển được đầy đủ hơn và toàn diện hơn.
Thực trạng:
Qua tìm hiểu của việc dạy và học, nhằm hình thành kỹ năng về tập hợp – số lượng – phép đếm cho trẻ mầm non. Tôi đã tiến hành khảo sát 28 trẻ thuộc lớp mẫu giáo 4-5 tuổi trường mầm non Đại Quang bằng trò truyện, bài tập và quan sát các hoạt động hàng ngày của trẻ, kết quả cụ thể như sau: 50% trẻ biết đếm; 40% trẻ biết so sánh, thêm bớt; 45% trẻ có kỹ năng xếp tương ứng và sắp xếp theo quy tắc.
Thực trạng của chương trình hình thành các kỹ năng về tập hợp – số lượng phép đếm cho trẻ 4-5 tuổi chiếm số lượng ít so với các lứa tuổi khác, chỉ có 15 tiết về tập hợp – số lượng.
Ngoài ra qua tìm hiểu tôi nhận thấy hiện nay trong trường mầm non còn chưa phát huy được việc sử dụng đồ dùng dạy học ở lớp, còn lãng phí, chưa tận dụng được hết điều kiện cơ sở vật chất ở xung quanh trẻ. Nên việc học những nội dung về tập hợp – số lượng – phép đếm mới chỉ dừng lại trên tiết học mà chưa thực sự lan toả vào các hoạt động khai thác trong cuộc sống.
Để nâng cao chất lượng dạy và học cho trẻ là một quá trình phát triển có hệ thống có kế hoạch, có mục đích các năng lực nhận thức của trẻ.Trang bị cho trẻ hệ thống tri thức sơ đẳng, hình thành nhân cách cho trẻ thì người giáo viên sử dụng cần tổ chức sắp xếp công việc thật khoa học theo cơ sở vận dụng phù hợp là con đường là cách thức mà giáo viên sử dụng để giúp trẻ học tốt môn làm quen với toán.
Lý do chọn đề tài:
Đối với trẻ mầm non, môn Làm quen với toán (LQVT) là môn học rất quan trọng và cần thiết, nó cung cấp vốn kiến thức ban đầu để trẻ bước vào ngưỡng cửa mới của cuộc sống sau này của trẻ. Môn toán đã mang lại cho trẻ sự phát triển tư duy đồng thời thông qua môn LQVT trẻ có thể tìm hiểu, khám phá thêm về thế giới xung quanh mình. Đến với môn LQVT trẻ trở nên tích cực, nhanh nhẹn hơn, trẻ biết đếm, phân biệt nhiều hơn, ít hơn, trẻ biết tách gộp, phân chia nhóm, ngoài ra trẻ có thể xác định được các hình khối, xác định không gian…Như vậy trẻ đã dần hình thành những kiến thức sơ đẳng biểu tượng ban đầu của toán học. Xuất phát từ nhận thức trên nên tôi chọn đề tài: “Một vài biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen với toán”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Tại hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam lần VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trong của ngành giáo dục và đào tạo là “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen tích cực, tự giác và tư duy sáng tạo của học sinh”. Phương pháp dạy học tích cực đã được nước ta áp dụng đồng bộ trên tất cả các trường mầm non của cả nước.
Môn học làm quen với toán khi được giáo viên mầm non tổ chức cho trẻ học tập một cách có mục đích, phù hợp sáng tạo sẽ hỗ trợ trẻ tiếp thu kiến thức một cách tích cực và taọ cảm giác hưng phấn,vui tươi. Giáo viên có thể dạy tích hợp, lồng ghép vào các hoạt động (giò ăn, họat động góc, chơi ngoài trời, trẻ làm bài tập theo nhóm) từ đó giúp trẻ tập trung, phấn khởi trong khi hoạt động, ý thức rõ vai trò của bộ môn toán đã trở thành một hoạt động không thể thiếu được trong trường lớp mầm non và hơn nữa tôi nhận thấy trẻ em bây giờ rất thông minh và lanh lợi. Tôi luôn mong muốn truyền đạt thật nhiều kiến thức cho trẻ, giúp trẻ phát triển hết những khả năng vốn có. Chính vì điều đó tôi đã luôn trăn trở, tìm tòi và sáng tạo, để tìm ra những cách thức hay, những phương pháp tốt nhất cho bài giảng của mình. Trong tất cả các môn học của trẻ tôi đặc biệt yêu thích môn toán, có lẽ vì bản thân bộ môn toán đã mang nhiều thế mạnh.
Để minh chứng cho điều này, chúng ta hãy quan sát quá trình phát triển nhận thức của trẻ em. Sự phát triển tâm vận động, sự phát triển các giác quan, khả năng định hướng và ngôn ngữ của trẻ em tuổi nhà trẻ là điều kiện quan trọng để trẻ tiếp thu lĩnh hội những biểu tượng sơ đẳng về thế giới xung quanh thông qua nhận thức cảm tính và tư duy trực quan ở lứa tuổi mẫu giáo. Và, nhờ có vốn hiểu biết phong phú về thế giới xung quanh dưới dạng những biểu tượng, nhờ có tư duy trực quan, ngôn ngữ của trẻ ở tuổi mẫu giáo phát triển, mà vào lớp một trẻ tiếp thu dễ dàng những tri thức khoa học mang tính khái quát ở trường phổ thông, và tư duy khái quát, tư duy logic phát triển.
Toán học là một môn khoa học cần có độ chính xác cao. Do trẻ ở độ tuổi mẫu giáo chưa có một biểu tượng khoa học nào. Nên nhiệm vụ của giáo viên là phải hình thành cho trẻ các biểu tượng toán học, cung cấp những kỹ năng cơ bản nhất để trẻ có thể vận dụng vào trong thực tế.
Dựa vào mục tiêu và yêu cầu đó, tôi đã nghiên cứu và tìm ra biện pháp giúp trẻ học đạt hiệu quả hơn và phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình thông qua môn học làm quen với toán.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Mỗi môn học đều có vai trò quan trọng góp phần vào việc hình thành nhân cách học sinh. Trong đó môn toán ở trường mầm non giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi toán học cung cấp cho trẻ em những kiến thức đầu tiên, là cơ sở cho việc phát triển kỹ năng tính toán và tư duy, giúp học sinh nhanh chóng hoàn thiện mình. Hiện nay tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp Nhỡ 4 tại Trường Mầm non Đại Quang với tổng số trẻ 28 có những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi:
Đa số phụ huynh còn trẻ nên rất quan tâm đến việc học của con em mình.
Là lớp điểm của trường nên được nhà trường rất quan tâm, thường xuyên chọn lớp tôi tổ chức các chuyên đề trọng tâm của trường và được hội đồng đánh giá cao.
Trẻ ở cùng một độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều chính vì vậy việc dạy trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi.
Cụm trung tâm vừa mới xây dựng, lớp học khang trang, thoáng mát, sạch sẽ, có đầy đủ đồ dùng cho học sinh, bàn ghế nhựa cao cấp…
Bản thân được đào tạo và đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm thực tế nên cũng đã học tập được một số kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy bộ môn LQVT
Khó khăn:
Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con, thường cho con nghỉ học tùy tiện nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến chất lượng học tập của lớp.
Lớp có sĩ số học sinh đông, đa số là trẻ nam nên hay nghịch ngợm, chưa tham gia tích cực vào các hoạt động có chủ đích. Một số trẻ chậm phát triển trí tuệ, ghi nhớ không chủ định chiếm ưu thế… nhưng với môn học làm quen với toán thì thật là khó, chất lượng bộ môn LQVT đầu năm đạt thấp chỉ đạt mức 50%. Điều này khiến tôi phải suy nghĩ nhiều làm sao tạo được hứng thú cho trẻ tham gia học tập một cách tốt nhất.
Với thực trạng như vậy bản thân tôi suy nghĩ tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học, trong đó tập trung cho hoạt động nâng cao chất lượng môn “Làm quen với toán”.
NỘI DUNG THỰC HIỆN:
Biện pháp 1: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, thông tin khoa học ngày càng nhiều. Song thời gian dành cho một tiết học trong trường mầm non không thay đổi. Để theo kịp sự phát triển của xã hội và cung cấp cho học sinh những thông tin mới nhất trong một thời gian có hạn.Vậy việc đổi mới phương pháp dạy học luôn là một vấn đề bức xúc và được mọi người quan tâm. Thực tế cho thấy việc dạy học nói chung và dạy học ở trường mầm non nói riêng đã có nhiều đổi mới về phương pháp, hình thức tổ chức tiết học. Nhưng phương pháp dạy học kích thích tự tìm tòi và khám phá của học sinh đặc biệt được chú trọng đó là việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động nhằm giúp các cháu quan sát sự vật, hiện tựơng một cách trực quan, trẻ có cơ hội trải nghiệm từ đó trẻ nhận thức sâu hơn nội dung bài học. Chính vì vậy tôi tạo môi trường học tập trong lớp cho trẻ 4-5 tuổi hoạt động một cách tích cực góp phần thực hiện tốt phương pháp đổi mới giáo dục mầm non cụ thể như sau:
* Xây dựng các góc hoạt động trong lớp:
Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng hơn. Giúp trẻ tìm hiểu và khám phá cái mới, hoạt động với đồ vật và rèn luyện kỹ năng. Bên cạnh đó trong lớp bố trí các góc yên tĩnh xa góc hoạt động ồn ào
Ví dụ: Góc xây dựng ở xa góc đọc sách
Góc đọc sách Góc xây dựng
* Trang trí lớp và làm đồ dùng đồ chơi:
Việc trang trí trong lớp học rất cần thiết đối với trẻ, bởi trẻ dễ nhớ những hình ảnh trực quan hơn hơn từ ngữ, do vậy để củng cố lại kiến thức đã học cô giáo cần sưu tầm những hình ảnh, tranh trang trí, làm đồ dùng đồ chơi phù hợp với chủ điểm và những nội dung trang trí chú ý đưa những hình ảnh, chữ số, đồ chơi phong phú và đa dạng giúp trẻ hứng thú quan sát và thích hoạt động với đồ vật có như vậy trẻ sẽ ghi nhớ tốt những kiến thức mà cô đã cung cấp.
Cô và trẻ cùng làm đồ chơi trang trí lớp và phục vụ tiết học
Biện pháp 2: Thông qua các trò chơi
Căn cứ vào nhu cầu và khả năng phát triển của trẻ 4-5 đây là lứa tuổi kỳ diệu, trẻ rất hiếu động tò mò, ham học hỏi, tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội. Trong các hoạt động của tuổi mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo giữa hoạt động vui chơi và hoạt động học chưa có ranh giới rõ ràng, khác với người lớn trẻ em thật sự học trong khi chơi, trẻ lĩnh hội các tri thức tiền khoa học trong trường mầm non theo phương châm “chơi mà học, học mà chơi”.
Trẻ là chủ thể tích cực, giáo viên là người tạo cơ hội, hướng dẫn gợi mở các hoạt động, tìm tòi khám phá của trẻ. Trẻ chủ động tham gia các hoạt động đó để phát triển khả năng, năng lực của mình. Trước những vấn đề trên không chỉ cho trẻ hoạt động tích cực trong giờ học mà còn phải cho trẻ hoạt động tích cực ở giờ chơi.
Việc sử dụng trò chơi để củng cố hiểu biết kỹ năng đã thu nhận được của trẻ là quan trọng, trẻ tham gia trò chơi, hoạt động hết mình, được trải nghiệm, rèn luyện và một điều đặc biệt là bản thân trò chơi, bản thân trẻ thấy được sự thiếu hụt của mình, qua đó củng cố lại luyện tập. Chính vì những lý do nêu trên mà ta nói trò chơi giúp trẻ củng cố, mở rộng chính xác hoá những kiến thức, kỹ năng đã thu nhận được.
Nắm vững những vấn đề đó trong việc hình thành cho trẻ các hiểu biết về toán học, tôi cố gắng trong quá trình giảng dạy, chịu khó sưu tầm hình ảnh, đồ dùng qua mạng Internet và tận dụng nguyên vật liệu có tại đia phương để làm đồ dùng phục vụ các bài tập, các trò chơi cho môn học này, luôn nghiên cứu tìm nhiều trò chơi mới trong quá trình đổi mới hình thức tổ chức tiết học.
Ngoài số lượng trò chơi phong phú, mang tính chọn lọc được đưa vào chương trình tôi còn nghiên cứu các trò chơi trong các sách, tài liệu, trong ngôi nhà toán học của Milye … và sáng tạo thêm một số trò chơi nhằm giúp các cháu lĩnh hội tốt kiến thức mà cô giáo đã truyền thụ.
Ví dụ: Thông qua trò chơi “Tìm ô số bí mật” nhằm giúp trẻ trải nghiệm và phát huy trí tuệ cho trẻ
Cách chơi: Cô thiết kế các ô số từ 1-5, sau mỗi ô số là một câu hỏi dành cho cho trẻ, cô cho trẻ lên chọn và kích vào một ô số bất kỳ các câu hỏi xuất hiện, sau đó các cháu lắng nghe cô đọc câu hỏi và tham gia trả lời.
Câu hỏi có thể là: Cô có 4 bông hoa hồng, các em lớp bé tặng thêm cho cô 1 bông hoa hồng nữa. Vậy cô có tất cả bao nhiêu bông hoa hồng? Các cháu cùng nhau hội ý, suy nghĩ để trả lời kết quả.
Như vậy qua trò chơi nhằm củng cố được những chữ số đã học đồng thời phát huy trí tuệ, giúp trẻ thông minh, nhanh nhẹn khi tham gia vào trò chơi.
Hay trò chơi “Điền số còn thiếu vào ô trống”
Cách chơi: Cô yêu cầu trẻ điền những chữ số còn thiếu vào đúng dãy số tự nhiên, sau đó dùng màu để tô vào những chữ số đó.
Qua trò chơi phát huy sự sáng tạo của trẻ, tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia vào tiết học.
Hơn nữa việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động là rất cần thiết bởi vì trẻ mầm non rất thích tò mò tìm hiểu những điều mới lạ, những hình ảnh sinh động, ngộ nghĩnh sẽ thu hút các cháu thì hoạt động sẽ đạt hiệu quả hơn.
Như thông qua hoạt động vui cùng kidsmatr trẻ vừa được chơi vừa được học: Ngôi nhà toán học của Milie trẻ dùng các hình để ghép tạo thành các sản phẩm mà trẻ thích như: ngôi nhà, ô tô tải, hình cây thông v.v…từ sản phẩm mà trẻ ghép được trẻ sẽ biết được ghép bằng những hình nào? VD: Cô có thể hỏi con dùng những hình gì để ghép thành ngôi nhà? …
Ngôi nhà toán học của Milie – Với căn phòng “Bé xíu, bé vừa, và bé bự” Trẻ nhận biết các hình dạng kích thước cơ bản: To, nhỏ, vừa trên các đối tượng cụ thể. Trẻ nhận biết phân biệt các hình dạng, kích thước khác nhau…Biết lựa chọn các cặp đối tượng tương ứng về kích thước.
Phát triển khả năng quan sát, óc sáng tạo tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.
Ngôi nhà Toán học của Milie – Với căn phòng “Máy đếm số”. Trẻ nhận biết các số trong phạm vi 10 trên máy đếm số.Trẻ biết đếm theo số lượng, biết thao tác đếm. Trẻ bước đầu nhận biết về mối tương quan giữa số và nhóm đối tượng, liên hệ đếm các bộ phận trên cơ thể trẻ.
Các cháu đang chơi trò chơi trên máy kidsmatr
Biện pháp 3: Thông qua các hoạt động trong ngày
Trẻ mẫu giáo dễ nhớ nhưng mau quên và trí nhớ không chủ định chiếm ưu thế, chính vì vậy trẻ phải được ôn luyện thường xuyên thông qua các hoạt động trong ngày.
Cô cho cháu điểm danh sĩ số hằng ngày bằng cách đếm sĩ số các bạn trong lớp. Cháu sẽ đếm xem tổ của mình có bao nhiêu bạn? Có bao nhiêu bạn vắng trong ngày? và tổ của bạn có bao nhiêu bạn? Nhằm để củng cố số lượng và so sánh hơn kém.
Lồng ghép môn LQVT nếu có thể vào các bộ môn khác để giúp các cháu tiếp cận thường xuyên
Ở góc chơi tôi sử dụng các tài liệu, tranh ảnh, mô hình, album về toán để giúp các cháu hằng ngày nhìn vào, tiếp xúc nhớ lâu làm quen với những biểu tượng, số lượng, hình khối, kích thước… Ngoài các biện pháp này tôi còn sử dụng phương pháp đàm thoại các góc để hình thành cho trẻ kỹ năng về toán. Cô giáo luôn hoà nhập cùng chơi với cháu, hỏi xem cháu tô được bao nhiêu bông hoa và hãy khoanh tròn số hoa theo yêu cầu của cô. Cháu có thể cùng nhau so sánh, trao đổi đồ vật, đồ chơi của mình, của bạn nhằm luyện cho trẻ kỹ năng đếm, so sánh và tư duy logic phát triển
Với góc xây dựng cô luôn hỏi cháu, cháu xây ngôi nhà nầy được mấy tầng? và sử dụng những khối gì? Đặc điểm các khối nầy như thế nào? Qua đó giúp cháu nhận biết nhanh và khắc sâu hơn về các hình dạng.
Thường xuyên tạo tình huống gợi mở dẫn dắt để trẻ có thể xem xét, quan sát và phát hiện những biểu tượng mới cụ thể để trẻ xác định phía trên – phía dưới; phải -trái; trước- sau
VÍ dụ: Khi dạy trẻ xác định phía trên – phía dưới tôi treo lồng đèn ở trên cao và để có thể nhìn thấy trẻ phải ngẩng đầu lên. Cô hỏi trẻ: lồng đèn ở phía nào của con? Tại sao con biết nó ở phía trên? Trẻ trả lời: Con phải ngẩng đầu lên con mới nhìn thấy chiếc lồng đèn.
Sau một thời gian thực hiện các biện pháp trên, các cháu có nhiều tiến bộ về kỹ năng đếm và nhận biết số lượng, về hình dạng, kích thước cũng như về định hướng không gian. Song phần diễn đạt khi trả lời câu hỏi của cô chưa mạch lạc, cháu chưa sử dụng đúng các thuật ngữ toán học.
Biện pháp 4: Cho trẻ làm quen các thuật ngữ toán học ở mọi lúc, mọi nơi
Ở độ tuổi này các cháu hay bắt chước, lời nói của các cháu thường hay đi ngược lại vấn đề, vốn từ của trẻ còn ít ỏi nhiều lúc trẻ muốn diễn đạt suy nghĩ của mình nhưng không mạch lạc chuẩn xác do đó muốn trẻ có một suy nghĩ chung nhất về môn toán đầu tiên là phải làm sao cho trẻ hiểu được những thuật ngữ về toán học như: Cao hơn – thấp hơn; bên trái – bên phải; trên dưới – trước sau;, to hơn nhỏ hơn; bằng nhau ; làm thế nào để bằng nhau; nhiều hơn – ít hơn…vv .. vv
Có như thế mới thực hiện tốt yêu cầu đề ra và việc làm cho trẻ nắm được các thuật ngữ đó phải giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi nơi để mỗi ngày từng ít, từng ít một trẻ sẽ nhớ và nhận thức đúng từ, đúng nghĩa
Ví dụ: Khi cho trẻ xếp hàng tập thể dục tôi nói: Nữ đứng trước, nam đứng sau. Hay khi xếp hàng vào lớp hoặc ra về tôi nói: Tổ 1 đứng bên tay phải cô, tổ 2 đứng bên tay trái cô.Hay khi tổ chức trò chơi cô nói: Lớp chia làm 4 đội: Đội 1 và 2 đứng phía trên thực hiện trò chơi, đội 3 và 4 đứng phía dưới cổ vũ các bạn.Hay qua tập bài hát ở mọi lúc mọi nơi để chuẩn bị cho bài dạy sắp đến cô nói: Đội nam hát to câu 1,2. Đội nữ hát nhỏ câu 3,4…
Tương tự như vậy qua từng hoạt động diễn ra trong ngày dưới nhiều hình thức qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, câu đố, trò chơi, hoạt động ngoài trời…tôi luôn cung cấp các thuật ngữ toán học đến với trẻ và mong rằng những kiến thức tuy nhỏ bé nhưng sẽ được góp phần cho sự phát triển nhận thức của trẻ sau này
Ngoài ra khi cho trẻ dạo chơi trong sân trường tôi cho các cháu nhặt lá vàng theo số lượng cô giáo qui định và xếp thành hình tròn,vuông, chữ nhật, tam giác…bằng những chiếc lá vàng , cô kiểm tra để kịp thời giúp đỡ những cháu thực hiện chưa đúng yêu cầu
Ví dụ:
Tổ 1 mỗi bạn nhặt cho cô 5 chiếc lá và xếp thành hình tròn, cho cháu đếm
Tổ 2 mỗi bạn nhặt cho cô 8 chiếc lá và xếp thành hình vuông…
Ở hoạt động này cô giáo cho trẻ thoải mái thực hiện yêu cầu một cách tự nhiên, cô phát hiện nhanh những cháu thực hiện chưa chính xác để hướng trẻ sửa sai, không để trẻ sợ hãi khi thực hiện chưa tốt, bằng tình cảm của người mẹ thứ 2 để giáo dục trẻ
Ví dụ: Khi sắp hàng tập thể dục cô nói: Các bạn nữ đứng trước, các bạn nam đứng sau và hướng dẫn cho trẻ đứng đúng vị trí. Hay khi sắp hàng vào lớp cô hướng dẫn: Tổ 1 đứng bên tay phải cô, tổ 2 đứng trước mặt cô và tổ 3 đứng bên trái cô, hay khi dạy cao thấp tôi cho 2 trẻ cao thấp lên nói: Cháu thấp đứng trước mặt cô, cháu cao đứng sau lưng cô, tương tự như vậy qua từng hoạt động diễn ra trong ngày bằng nhiều hình thức khác nhau những bài hát,bài thơ những câu chuyện
Biện pháp 5. Khuyến khích trẻ tự đặt câu hỏi nêu những thắc mắc diễn ra và chia sẻ ý tưởng của trẻ
Thông thường trong các hoạt động dạy học cô giáo hay đặt câu hỏi cho trẻ trả lời, hay áp đặt trẻ mà ít chú ý đến việc khuyến khích trẻ đặt câu hỏi điều nầy dẫn đến hạn chế việc sử dụng ngôn ngữ sẵn có của trẻ cũng như hạn chế việc suy nghĩ, tìm tòi, sử dụng các thuật ngữ toán học…Vì vậy cô luôn khuyến khích trẻ nêu các câu hỏi do cháu nghĩ ra
Ví dụ: Sau khi tìm hiểu về các hình (vuông, tròn, chữ nhật), cô giáo hãy cho trẻ quan sát lại các hình này và có thể đưa ra một lời đề nghị: Các con tự suy nghĩ và hỏi bạn một câu về đặc điểm của hình vuông này, trẻ có thể đặt đúng hoặc chưa đúng nhưng bước đầu đã tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin trong học tập. Bên cạnh đó cô giáo cũng tạo ra nhiều cơ hội khác như khuyến khích trẻ đặt ra các câu đố khác nhau để đố bạn hoặc thi nói nhanh: một trẻ nói số lượng nhóm đồ vật, trẻ khác nói chữ số tương ứng…
Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh
Tất cả mọi công việc của lớp muốn thực hiện đạt kết quả tốt cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh. Để thực hiện tốt công việc nầy tôi thường xuyên gặp gỡ với phụ huynh vào các giờ đón trả trẻ nhằm tìm hiểu và nắm rõ được hoàn cảnh gia đình của từng cháu tìm hiểu cá tính khả năng của từng trẻ để có biện pháp hướng dẫn phù hợp, để các cháu có đủ đồ dùng học tập tôi vận động phụ huynh đóng góp nguyên vật liệu để làm đồ dùng cho cháu học. Đồng thời giúp cho phụ huynh có cơ sở nắm bắt về hình thức tổ chức và phương pháp dạy các cháu học môn LQVT tôi đã tổ chức tiết dạy mẫu trong thời gian đầu năm mời phụ huynh dự để phụ huynh nắm được nhằm giúp trẻ học toán tốt hơn. Mặt khác ngoài việc tham gia các hội thi do trường tổ chức như hội thi “Bé thông minh nhanh trí” … ở lớp tôi cũng tổ chức nhiều hội thi như hội thi “Xem ai tài”, hội thi “Bé khỏe bé ngoan”… trong từng hội thi giáo viên liên hệ với phụ huynh chuẩn bị đồ dùng cho trẻ để phụ huynh hỗ trợ. Trong mỗi lần tổ chức hội thi giáo viên mời phụ huynh của tất cả các cháu trong lớp đến dự. Trong phạm vi nhỏ (lớp học) nhưng đã góp phần trong việc tuyên truyền kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ đến phụ huynh, đặc biệt việc tuyên truyền thực hiện chuyên đề LQVT trong năm học này.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Sau gần 1 năm thực hiện đến nay đa số các cháu trong lớp tôi đã đạt được những kết quả rất khả quan. Trong giờ học toán đầu năm trẻ rụt rè, nhút nhát thì nay gần 95 % cháu đã dần trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn, tự tin thực hiện các yêu cầu của cô đề ra và sẵn sàng chia sẻ cùng cô mỗi khi gặp khó khăn. 85% trẻ biết sử dụng thuật ngữ toán học, 90% trẻ biết sắp xếp tương ứng và sắp xếp theo quy tắc, vốn từ toán học của các cháu càng ngày càng phong phú. 90% trẻ có thao tác, kỹ năng so sánh, thêm bớt, phân biệt…100% trẻ thích tham gia vào giờ học một cách hứng thú. Quan trọng hơn hết là các cháu tiếp thu tốt kiến thức cô truyền đạt và thực hành một cách nhanh gọn, chính xác.
Tỉ lệ trẻ khá giỏi tăng hẳn so với đầu năm, thực tế là đến nay số trẻ khá giỏi về bộ môn toán trong lớp tôi đã đạt 95%. Phụ huynh vui mừng, tin tưởng khi gởi con vào lớp và sẵn sàng phối hợp cùng cô trong mọi hoạt động chăm sóc trẻ.
KẾT LUẬN:
Giúp trẻ học tốt môn toán là nâng cao lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện về 5 lĩnh vực. Để đạt được mục tiêu quan trọng đó chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp giáo dục nhằm đem lại kết quả tốt.
Trước hết qua cách dạy của mình cô giáo cho trẻ nắm và hiểu rõ các thuật ngữ toán học một cách chính xác, sử dụng đúng từ, đúng nghĩa. Mặt khác phải tích cực làm nhiều đồ dùng cho trẻ được khám phá, được trải nghiệm và tạo cơ hội để trẻ tham gia trực tiếp các hoạt động. Giáo viên thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức tiết học dưới dạng tổ chức các trò chơi, thông qua các hoạt động trong ngày hoặc tổ chức cho trẻ thi “Đố vui”…ở mọi lúc mọi nơi cô giáo cần lồng ghép các kiến thức toán để cung cấp cho trẻ.
Vai trò của cô giáo cũng góp phần rất quan trọng tạo cho trẻ tham gia học tập tích cực để nắm được kiến thức bài học, vậy mỗi cô giáo hãy luôn thể hiện mình là vai trò một người mẹ , một người bạn luôn lắng nghe ý kiến và luôn chia sẻ khi trẻ gặp khó khăn. Một yếu tố rất quan trọng không thể thiếu góp phần và sự thành công của trẻ chính là sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh trong cách giáo dục trẻ .
Với tấm lòng yêu nghề mến trẻ, lại luôn được sự giúp đỡ của chị em trong trường cộng với sự cố gắng của bản thân. Song do khả năng còn hạn chế vì vậy đề tài nhất định còn nhiều thiếu sót rất mong được sự góp ý của Hội đồng nghiên cứu khoa học các cấp để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
VII. ĐỀ NGHỊ
Để tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện tốt môn LQVT, kính đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa về việc đầu tư đồ dùng, đồ chơi đầy đủ ở các góc cho trẻ 4-5 tuổi để trẻ học tập và vui chơi, nhằm củng cố và nâng cao chất lượng học tập cho các cháu để các cháu có đủ kiến thức bước vào các lớp tiếp theo.
Những biện pháp giúp trẻ học tốt môn LQVT mà tôi đã trình bày rất dễ dàng thực hiện nhưng đòi hỏi mỗi giáo viên phải có tâm huyết với nghề, luôn tích cực tìm tòi, học hỏi và đặc biệt là phải yêu thương trẻ như chính con đẻ của mình thì chắc chắn sẽ đạt một kết quả như ta mong đợi .
VIII. PHỤ LỤC:
Giờ học môn LQVT của cô và cháu
Giờ thao giảng chuyên đề toán cócác bạn đồng nghiệp tham dự
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn hè năm 2012-2013; 2013-2014; 2014-2015
– Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
MỤC LỤC:
Đặt vấn đề: Trang 1
Tầm quan trọng
Thực trạng
Lý do chọn đề tài
Cơ sở lý luận: Trang 2
III. Cơ sở thực tiễn: Trang 2
Nội dung nghiên cứu Trang 2 – 8
Thông qua các trò chơi
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Thông qua các hoạt động
Cho trẻ làm quen với các thuật ngữ toán học ở mọi lúc, mọi nơi
Khuyến khích trẻ tự đặt những câu hỏi nêu những thắc mắc diễn ra và chia sẻ ý tưởng của trẻ
Kết quả nghiên cứu: Trang 8 – 9
Kết luận: Trang 9
VII. Đề nghị: Trang 9
VIII. Phụ lục: Trang 10
Đại Quang, ngày 20 tháng 3 năm 2015
Người viết
Hồ Thị Như Thủy
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Công Nhận Cấp Huyện Dành Cho Cấp Tiểu Học Năm Học 2014
1. Một số kinh nghiệm dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học
2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Âm nhạc trong trường Tiểu học
3. Bồi dưỡng kĩ năng tập đọc nhạc cho học sinh Tiểu học
II. CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
1. Một vài kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp
2. Công tác chủ nhiệm trong mô hình VNEN
3. Một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 5
4. Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1
5. Một vài kinh nghiệm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 2, lớp 3 trường Tiểu học Hà Huy Tập
6. Một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng học tập
7. Một số biện pháp tổ chức Ngày hội đọc sách tại trường Tiểu học Lý Tự Trọng
8. Xây dựng lớp học thân thiện – học sinh tích cực
9. Một vài biện pháp phát huy tốt vai trò của hội đồng tự quản nhằm nâng cao chất giáo giáo dục.
10. Một số biện pháp giáo dục phẩm chất đạo đức học sinh TH
III. LĨNH VỰC CHUYÊN MÔN
1. Một vài phương pháp giúp học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ phát âm chuẩn Tiếng Việt
2. Một số biên pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 3
3. Phát triển chuyên môn ở trường TH
4. Kinh ngiệm dạy chương phân số cho học sinh DTTS
5. Kinh nghiệm dạy dạng bài giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2
7. Một số kinh nghiệm vận dụng trò chơi học tập dạy môn Địa lí lớp 4
8. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4
9. Một số kinh nghiệm khai thác kênh hình SGK trong giảng dạy phân môn Lịch sử lớp 4
11. Dạy từ đồng âm từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa
12. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn vẽ tranh môn Mỹ thuật
13. Một số kinh nghiệm Giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 trong môn Mĩ thuật.
14. Một số kinh nghiệm giúp HS lớp 3 học tốt phân môn vẽ theo mẫu
15. Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho HS lớp 2,3,4,5 trong môn HĐGD theo mô hình trường học mới VNEN.
16. Một số phương pháp dạy học sinh vẽ theo mẫu bậc tiểu học có hiệu quả.
17. Tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh theo mô hình VNEN.
18. Một vài biện pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi trong môn Thể dục ở trường TH
IV. CÔNG TÁC ĐỘI
1. Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt Sao Nhi đồng
2. TPTĐ-Cầu nối giữa lực lượng trong và ngoài nhà trường
3. Một số kinh nghiệm bồi dưỡng phụ trách sao Nhi đồng
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào kế hoạch nhỏ trường TH
5. Một số kinh nghiệm trong công tác Đội giúp nâng cao hiệu quả hoạt động ở các trường có học sinh dân tộc thiểu số
v. HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊ LỚP
1. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng hoạt động phong trào văn nghệ thể dục thể thao trong nhà trường
2. Một số biện pháp tổ chức HĐNGLL đạt hiệu quả ở trường tiểu học
3. Một số biện pháp bảo vệ môi trường trong trường TH Nguyễn Văn Trỗi
4. Đổi mới hình thức tổ chức của hoạt động thể dục giữa giờ ở trường TH
VI KỸ NĂNG SỐNG
1. Lồng ghép giáo dục môi trường vào chương trình giảng dạy lớp 4, 5
2. Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4
3. Thực hành kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 qua tiết sinh hoạt lớp theo mô hình trường học mới
VII. MÔN TIẾNG VIỆT
1. Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
2. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 3.
3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3
4. Một số kinh nghiệm hướng dẫn HS lớp 4 đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc
5. Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cho HSG Tiếng Việt lớp 5
6. Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN
7. Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn tập làm văn lớp 3
8. Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tập hiệu quả dạng văn tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5
9. Kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực trong môn Tiếng Việt đối với HS lớp 1 DTTS
10. Biện pháp giúp HS phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn LT&C lớp 5
11. Một số biện pháp giúp HS lớp 5 học tập có hiệu quả tập làm văn miêu tả.
12. Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
13. Dạy học từ đồng nghĩa cho học sinh lớp 5 bằng bối cảnh loại trừ nhau
VIII. MÔN TOÁN
1. Rèn kĩ năng học toán cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1
2. Rèn kĩ năng giải các dạng toán điền hình lớp 4
3. Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán trên Internet.
4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán lớp 1
5. Giúp học sinh lớp 4 vận dụng sơ đồ đoạn thẳng để giải một số bài toán
6. Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải toán có lời văn dạng Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó
7. Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn Toán lớp 4
9. Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở lớp 4
10. Kinh nghiệm giúp học sinh ghi nhớ một số mảng kiến thức trong môn toán lớp 5
IX. LĨNH VỰC QUẢN LÝ
1. Hiệu trưởng phối hợp với công đoàn trong công tác quản lý chuyên môn ở trường TH Dray Sáp
2. Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số HSDT
3. Kinh nghiệm bồi dưỡng giáo viên dự thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện
4. Một vài kinh nghiệm trong việc phối kết hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh
5. Giải pháp hiệu quả để huy động và duy trì sĩ số học sinh làm tốt công tác pcgd
6. Một số biện pháp giúp cán bộ quản lý và giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp
7. Một số kinh nghiệm trong quản lý chỉ đạo về công tác “xã hội hóa giáo dục” trong nhà trường
8. Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động Thư viện đạt hiệu quả
9. Một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh tham gia thi giải toán qua internet
10. Hiệu trưởng chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn có sự tham gia của cộng đồng
11. Một số biện pháp quản lí, chỉ đạo việc sử dụng ĐDDH của giáo viên khi lên lớp ở trường tiểu học Lê Hồng Phong.
12. Một vài kinh nghiệm chỉ đạo đổi mới trong sinh hoạt chuyên môn
13. Một vài kinh nghiệm chỉ đạo duy trì tỷ lệ chuyên cần đối với học sinh dân tộc thiểu số”
14. Một số giải pháp xây dựng “trường học thân thiện – Học tích cực” trong trường Tiểu học”
15. Một vài biện pháp trong việc chỉ đạo rèn kĩ năng sống cho HS Tiểu học
16. Kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường Tiểu học
17. Chỉ đạo, tổ chức công tác dạy và học mô hình VNEN ở trường tiểu học.
18. Một số biện pháp chỉ đạo công tác duy trì sĩ số
19. Một số biên pháp chỉ đạo của phó hiệu trưởng đối với các tổ chuyên môn trong nhà trường
20. Một số biện pháp duy trì sĩ số ở trường TH
21. Kinh nghiệm về công tác thi đua khen thưởng trong trường tiểu học
22. Một số kinh nghiệm trong việc thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn tại trường TH Tây Phong
23. Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên
24. Biện pháp huy động xã hội hóa giáo dục ở trường Tiểu học.
25. Một số biện pháp Xây dựng Thư viện đề kiểm tra trong trường TH
26. Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động tổ chuyên môn trong nhà trường
27. Một số biện pháp xây dựng thư viện đề kiểm tra trong trường Tiểu học
28. Giúp GVCN làm tốt công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
29. Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên ở tiểu học.
30. Kinh nghiệm trong việc chỉ đạo công tác chủ nhiệm lớp, vận động các tổ chức cá nhân, các nhà từ thiện xã hội giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn đến trường
31. Kinh nghiệm tổ chức xây dựng thư viện đề kiểm tra trong trường Tiểu học
32. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở trường tiểu học
X. THƯ VIỆN, MÔN TIẾNG ANH, MÔN TIN HỌC
1. ” Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện trường Tiểu học Lê Lợi”.
2. HD học sinh lớp 1 sử dụng thư viện
3. Tổ chức môi trường đọc thân thiện tại thư viện trường Tiểu học
4. Nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc ở thư viện trường học
5. Kiểm tra bài cũ môn Tiếng Anh bậc tiểu học
6. Kinh Nghiệm bồi dưỡng HSG tiếng Anh cho HS tiểu học
7. Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh Tiểu Học thi “giao lưu Tiếng Anh”
8. Phát huy kỹ năng nói trong giờ học tiếng Anh
9. Nâng cao chất lượng dạy học Tin học tiểu học thông qua việc ứng dụng CNTT.
10. Một số biện pháp dạy tốt môn Tin học tiểu học
11. Kinh nghiệm ứng dựng phần mềm Leture maker trong soạn giáo án điện tử và giảng dạy.
12. Kinh nghiệm lựa chọn phần mềm thiết kế bài giảng điện tử
Biện Pháp Rèn Đọc Cho Học Sinh Lớp 2 Trong Giờ Tập Đọc Skkn Loại A Cấp Tỉnh
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là bậc học tạo ra những cơ bản ban đầu và bền vững về tri thức, về kĩ năng cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh, giúp các em học tốt ở bậc học tiếp theo. Chính vì vậy ở Tiểu học yêu cầu phải dạy đủ 9 môn học bắt buộc. Trong những môn học đó môn Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng. Môn Tiếng việt giúp các em tiếp nhận những tri thức ban đầu, sơ giản nhưng rất cần thiết về tiếng Việt phổ thông như: Ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, từ vựng…Trên cơ sở đó rèn những kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp. Phân môn Tập đọc được coi như môn khởi đầu để học tiếp các môn khác. Lúc đầu trẻ học để biết đọc, qua đó dùng đọc để học các môn học khác và để tiếp thu các tri thức của nhân loại. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2012-2013 là “nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục”. Những năm gần đây, cùng với sự đầu tư và phát triển của giáo dục, chất lượng giáo dục ngày được nâng cao. Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên không ngừng học tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong đó có việc đổi mới phương pháp “rèn đọc” cho học sinh. Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh bên cạnh những thành công còn một số hạn chế, nhất là đối với lớp 2, các em mới chuyển từ lớp 1 lên, qua ba tháng nghỉ hè, nhiều em không thường xuyên ôn luyện nên khi bắt đầu vào năm học lớp 2, kỹ năng đọc của một số em còn yếu, dẫn đến kết quả “đọc” của một số lớp chưa cao, đặc biệt là các lớp không phải là lớp chọn. Vì thế giáo viên cần phải dạy đọc bài Tập đọc với giọng thế nào? làm thế nào chữa lỗi “đọc” cho học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn, phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu… để hiểu nội dung văn bản được đọc, để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em. Chính vì lí do trên đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy “đọc” như thể nào để giúp các em thực hiện được nhiệm vụ phân môn Tập đọc. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhất là chúng ta đang sống trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, nếu học sinh đọc yếu, đọc chậm các em sẽ bị hạn chế nhiều trong việc tiếp cận với công nghệ thông tin, các em sẽ thiệt thòi trong giao tiếp, trong việc học tập… Trong suốt quá trình học tập học sinh sử dụng “đọc” rất nhiều, các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa, đọc truyện…chính vì vậy, dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn kĩ năng đọc mà còn phát triển những kĩ năng khác. Qua việc học các bài Tập đọc học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, bước đầu có khái niệm cơ bản về nhân vật, hình ảnh, bố cục…góp phần hình thành và bồi dưỡng cho các em những tình cảm tốt đẹp của con người như tình yêu quê hương đất nước, tình thầy trò, tình bạn bè…, tình yêu Tiếng Việt. Đối với học sinh Tiểu học nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 thì yêu cầu đọc đến đâu hiểu – cảm nhận được đến đó thì quả là một điều cực kì khó, muốn làm được điều đó thì giáo viên phải có những biện pháp để học sinh đọc Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-1-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
được lưu loát, rõ ràng, đọc trôi chảy. Sau đó tuỳ từng bài, từng thể loại giáo viên tìm cách khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu ý tứ, nội dung, nghệ thuật của từng đoạn văn và cả bài để có thể đọc cho đúng, có đọc đúng rồi thì mới luyện cho học sinh đọc hay, đọc diễn cảm được (thực hiện mục tiêu rèn đọc cho học sinh) Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong các tiết Tập đọc ở một số giáo viên trong trường còn gặp khó khăn, còn lúng túng, giờ Tập đọc ở một số lớp còn nhiều gò ép, học sinh “đọc” chưa đạt được kết quả như mong muốn đặc biệt là đối với Tập đọc lớp 2. Là một giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên, một trong những trường luôn dẫn đầu về chất lượng giáo dục của huyện Than Uyên, tôi luôn băn khoăn cần phải làm thế nào để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục qua việc dạy Tập đọc, cần phải có biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 như thế nào để đạt được hiệu quả như mong muốn, nhất là học sinh lớp 2A5 là lớp mà đa số học sinh có học lực trung bình khá (do mục tiêu giáo dục của nhà trường là nâng cao chất lượng mũi nhọn nên đã lựa chọn học sinh khá và giỏi vào các lớp chọn A1, A2). Mặt khác, lớp 2A5 có số lượng học sinh dân tộc nhiều hơn các lớp khác (có 7 học sinh khu 9), một số gia đình học sinh, cha mẹ làm ruộng hặc buôn bán, làm nghề tự do … nên các em ít được sự quan tâm của bố mẹ về học tập, bởi vậy giáo viên phải cố gắng rất nhiều để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc” II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 1. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 2A5 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên. 2. Đối tượng nghiên cứu: Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2A5 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên. 3. Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013. III. Mục đích nghiên cứu 1. Về phía giáo viên: Tìm ra biện pháp giúp học sinh lớp 2 có kỹ năng đọc đúng trong giờ Tập đọc, qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm ở mỗi học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học Tập đọc cho học sinh lớp 2. 2. Về phía học sinh: Các em có kỹ năng đọc đúng, làm chủ được tốc độ đọc; học sinh say mê, hứng thú khi học Tập đọc. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-2-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
1. Giáo viên: – Hệ thống được một số lỗi phát âm, lỗi đọc sai của học sinh lớp 2A5 thường mắc. – Đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 2A5 trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên. – Giúp học sinh nhận thấy việc sửa lỗi “đọc” là cần thiết và có ý thức tự giác sửa lỗi (lỗi phát âm, lỗi diễn đạt) trong khi học trên lớp và cả trong giao tiếp hàng ngày. 2. Học sinh: – Biết lỗi mình thường mắc, biết tự sửa lỗi, tự rèn kỹ năng đọc đúng cho bản thân trong giờ Tập đọc và trong các giờ học khác. – Ý thức tự giác sửa lỗi phát âm, lỗi đọc ở tất cả các môn học và trong giao tiếp hàng ngày.
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-3-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận 1. Đọc là gì? Đọc là quá trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu – ứng với hình thức đọc thành tiếng, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh – ứng với đọc thầm (Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga của MR. Lô-vốp). 2. Ý nghĩa của việc đọc Con người thật là hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta đã biết phần lớn những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng chữ viết, nếu không biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội hiện đại. Không biết đọc con người không được hưởng thụ những thành tựu văn hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ viết. Đặc biệt là trong thời kì bùng nổ thông tin thì đọc càng quan trọng, vì nó sẽ giúp người ta sử dụng tốt các nguồn thông tin. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, con người mới tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp được với thế giới bên trong của con người khác thông qua tác phẩm văn, thơ, bút kí… của họ. Không biết đọc, con người sẽ khó có điều kiện hưởng thụ giáo dục mà xã hội dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Đọc là một kỹ năng quan trọng hàng đầu của con người. Nhờ biết đọc, con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một yêu cầu không thể thiếu được của con người trong thời đại hiện nay. Biết đọc, ngắt câu, đổi giọng cho đúng ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính vì vậy “đọc” có ý nghĩa to lớn ở bậc Tiểu học. Bước đầu trẻ học “đọc”, sau đó trẻ “đọc” để “học”. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó là công cụ để học các môn học khác, đọc tốt giúp các em kĩ năng giao tiếp có giáo dục. Môn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, thể hiện ở bốn chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc không phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết thành âm thanh mà còn là quá trình nhận thức để có kĩ năng thông hiểu những gì mình đọc được. 3. Nhiệm vụ của dạy Tập đọc lớp 2 3.1 Phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh. Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-4-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-5-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
-6-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy chất lượng dạy Tập đọc ở một số lớp 2 (không phải là lớp chọn) trường Tiểu học thị trấn Than Uyên còn chưa đạt được như mong muốn, một số giáo viên còn chưa linh hoạt về phương pháp, hình thức dạy học. Một số ít giáo viên còn chưa chú ý về cách rèn đọc cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 2. Đọc đúng, đọc hay không hoàn toàn đồng nghĩa với đọc nhanh, đọc to, vì nhiều em đọc xong không biết nội dung của đoạn văn, bài thơ mình vừa đọc nói gì. Đọc đúng, đọc hay nghĩa là ngoài yêu cầu đọc đúng chữ, rõ ràng, lưu loát còn phải đọc hiểu, đọc hay, hay – tức là thể hiện được nội dung, sắc thái, cái hay, cái đẹp của bài Tập đọc hoặc của một tác phẩm. Kĩ năng đọc được chia thành 4 mức độ: đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Đối với học sinh lớp 2 yêu cầu cơ bản là đọc đúng, đọc lưu loát, bước đầu đọc hiểu, đó là nền tảng để các em đọc diễn cảm ở các lớp trên. Song một số giáo viên không thành công ở tiết dạy Tập đọc, nguyên nhân quan trọng là phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp. Mặt khác trong quá trình giảng dạy đối với học sinh tiểu học nói chung, đối với phân môn Tập đọc nói riêng, một sô giáo viên chưa đặc biệt chú ý rèn cho học sinh một kỹ năng quan trọng – đó là “Kỹ năng đọc đúng”. Từ đó kỹ năng đọc của học sinh trở nên hạn chế, học sinh đọc lướt lướt, không chú ý đọc kỹ văn bản dẫn đến không hiểu nội dung văn bản và ảnh hưởng đến chất lượng các môn học khác. II. Thực trạng của vấn đề 1. Đánh giá chung Trường Tiểu học thị trấn là một trường luôn dẫn đầu về chất lượng giáo dục, đa số giáo viên có trình độ chuyên môn khá và giỏi, giáo viên nhiệt tình, trăn trở với công việc đặc biệt là việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đa số giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Ban Giám hiệu nhà trường phân công nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với năng lực của mỗi giáo viên. Giáo viên được phân công dạy chuyên khối nên có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhà trường tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của những giáo viên thực hiện có hiệu quả trong năm học… vì thế giáo viên đã tích luỹ, học tập được nhiều kinh nghiệm của đồng nghiệp để áp dụng vào giảng dạy. Nhà trường được trang bị tương đối đủ đồ dùng dạy học, giáo viên tích cực làm và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học, một số giáo viên có khả năng thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong dạy Tập đọc. Học sinh lớp 2 trường Tiểu học thị trấn học đúng độ tuổi, đa số các em được cha mẹ quan tâm đến việc học tập. Các em được học 2 buổi/ngày, các em được rèn đọc nhiều hơn ở buổi chiều. Các em được tiếp cận nhiều với công nghệ thông tin, nhiều em thích đọc thơ, đọc truyện tranh … nên nhiều em đọc thông thạo, trôi chảy và có em còn biết đọc diễn cảm khi học hết lớp 1. Học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập, nhiều em thích học Tập đọc.
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-7-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
2. Thực trạng của việc dạy Tập đọc lớp 2 ở trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên 2.1 Về phía giáo viên Đã nhiều năm dạy Tiểu học và nhiều năm nghiên cứu về phương pháp dạy Tập đọc, đặc biệt là Tập đọc lớp 2, tôi nhận thấy một số ít giáo viên còn phân biệt chưa thật rõ ràng được mục tiêu chính của phân môn Tập đọc lớp 2. Học sinh lớp 2 chỉ cần đọc đúng, phát âm chuẩn và đọc lưu loát một bài Tập đọc là chính, còn phần đọc hiểu các em chỉ cần nắm được ý chính của đoạn, bài hoặc ý nghĩa của bài Tập đọc, phần luyện đọc, giáo viên cần cho học sinh đọc bài nhiều lần, luyện phát âm đúng, phát âm chuẩn, luyện đọc câu, đoạn, bài. Mỗi học sinh trong giờ Tập đọc phải được đọc dưới mọi hình thức từ một, hai đến ba lần. Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời gian dành cho luyện đọc còn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Một số ít giáo viên dạy các lớp không phải là lớp chọn hoặc giáo viên mới chuyển từ vùng sâu, vùng xa về trường chưa thực sự đầu tư, đổi mới phương pháp dạy học nhất là đối với phân môn Tập đọc, chỉ chú ý dạy đủ bước, dạy đều đều cho đến hết bài, chưa biết cách sửa lỗi cho học sinh, chưa sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc … Cách thức tổ chức luyện đọc của một số ít giáo viên còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới” trong cách luyện đọc, việc vận dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi mà học” còn chưa thực sự hiệu quả. Giáo viên chưa hệ thống được lỗi sai của học sinh để tìm biện pháp sửa lỗi cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa kiên trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc, chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện đọc câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc thuộc lòng. Một số giáo viên giọng đọc còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm, có giáo viên còn đọc ngọng, phát âm lệch chuẩn… vì thế chất lượng dạy Tập đọc chưa đạt như mong muốn. Một số ít giáo viên (dạy các lớp chọn) do đề cao quá mức yêu cầu cảm thụ văn học nên đã biến giờ Tập đọc thành giờ giảng văn, cô giảng là chính, trò chỉ nghe, dành ít thì giờ luyện đọc. Trong khi giảng nội dung hầu hết giáo viên sử dụng câu hỏi sách giáo khoa là chính, chưa biết bóc tách câu hỏi, chẻ nhỏ câu hỏi, đặt thêm câu hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh, nên không gây được hứng thú học tập cho học sinh. Các nguyên nhân trên dẫn đến một số học sinh không thích học Tập đọc, chất lượng “đọc” của học sinh chưa được cao. Vì vậy việc tìm ra biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 tôi thấy là thiết thực 2.2 Về phía học sinh Trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Một số học sinh phát âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x; tr/ch; l/n; l/đ; … một số vần anh/ăn; uôi/ôi, ươn/ơn… Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời rạc, chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; chưa cảm thụ được cái hay, cái đẹp Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-8-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
của bài văn, bài thơ. Kĩ năng đọc đúng, đọc hay của các em lớp 2 còn yếu, các em đọc một cách thụ động. Nhiều học sinh khá hơn cố gắng đọc hay, đọc diễn cảm song vì không có kĩ năng đọc đúng, không biết nên nhấn giọng chỗ nào, ngắt nhịp thơ ra sao, giọng đọc các câu phân loại theo kiểu câu như câu kể, câu hỏi, câu cảm… phải đọc như thế nào nên vẫn không đạt kết quả. 3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. 3.1 Giáo viên: – Chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy Tập đọc, chưa biết hệ thống, phân loại đối tượng học sinh để tìm biện pháp rèn đọc cho từng nhóm đối tượng. – Chưa biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy đọc phù hợp, chưa đổi mới hình thức luyện đọc dẫn đến học sinh nhàm chán, không hứng thú học tập đọc. Giáo viên chưa kiên trì trong việc sửa lỗi cho học sinh. – Chưa có biện pháp rèn kỹ năng đọc phù hợp, hiệu quả cho học sinh. – Chưa xây dựng được thời gian biểu của tiết dạy cho hợp lí, xử lí các tình huống trong giờ dạy chưa thật linh hoạt. – Chưa tích cực làm và sử dụng đồ dùng dạy học, hoặc sử dụng đồ dùng dạy học chưa thật hiệu quả. – Một số giáo viên phát âm lệch chuẩn (ngọng n/l) nên không phát hiện ra học sinh phát âm sai để sửa lỗi cho các em. – Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy, số ít giáo viên mới ở vùng khó khăn chuyển về chưa quen với đối tượng học sinh. – Giáo viên tiểu học phải dạy nhiều môn học (9 môn học) nên việc tập trung đầu tư cho phân môn Tập đọc chưa nhiều. 3.2 Học sinh: Học sinh lớp 2, mới từ lớp 1 lên, các em còn nhỏ, hay quên, trí nhớ chưa bền. Các em chưa có tính kiên trì trong sửa lỗi. Các em trong lớp có nhiều đối tượng khác nhau, mỗi học sinh thường mắc những lỗi đọc khác nhau, một số em mắc lỗi phát âm lẫn lộn từ giao tiếp trong gia đình (cha, mẹ nói ngọng). Ở lớp 1 các bài tập đọc còn ngắn, thường là dễ nhớ, dễ thuộc, và nội dung tìm hiểu bài chỉ gồm những câu hỏi đơn giản, học sinh ít phải tư duy, thời gian dành cho luyện đọc rất nhiều. Ở lớp 2, các bài Tập đọc thường dài hơn, những bài đầu tuần thường dạy trong 2 tiết, nếu giáo viên không biết hướng dẫn luyện đọc thì các em rất chóng chán, không tận dụng được thời gian để phát huy hết khả năng đọc của mỗi học sinh. Lớp 2A5 là lớp có nhiều học sinh dân tộc (nhiều nhất khối lớp 2), lớp có chất lượng đầu năm thấp nhất khối (sau khi thi chọn học sinh khá giỏi vào lớp chọn, số học sinh còn lại chia vào 3 lớp 2). Số lượng học sinh khảo sát đầu năm môn Tiếng Việt chỉ đạt 21/26 em từ trung bình trở lên trong đó có 5 em yếu phần đọc. III . Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
-9-
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Xác định rõ nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên tôi đã tiến hành một số biện pháp sau: 1. Biện pháp 1: Khảo sát thực tế phân loại đối tượng học sinh Khảo sát kỹ năng đọc của học sinh lớp 2A5 đầu năm (khảo sát không tính điểm) Cụ thể, tôi đã khảo sát thực tế việc đọc của các em qua một đoạn văn. Giáo viên chép lên bảng đoạn văn sau Xuân về Thế là mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa hồng, hoa huệ thơm nức. Trong không khí không còn ngửi thấy hơi nước lạnh lẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ hết những cái áo lá già đen thủi. Các cành cây đều lấm tấm màu xanh. Những cành xoan khẳng khiu đương trổ lá, lại sắp buông toả ra những tán hoa sang sáng, tim tím. Ngoài kia, rặng râm bụt cũng sắp có nụ. Giáo viên lần lượt gọi từng học sinh đọc bài, với thang điểm 10. Cụ thể: Điểm giỏi (điểm 9-10): Học sinh đọc lưu loát, biết nhấn giọng đúng chỗ, ngắt nghỉ phù hợp, bước đầu biết đọc diễn cảm. – Điểm Khá (điểm 7- 8 ): Học sinh đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đôi chỗ còn có thể chưa phù hợp. – Điểm trung bình (điểm 5,6): Học sinh đọc đúng tiếng, từ đôi chỗ còn chưa lưu loát, mắc 4 đến 5 lỗi. – Điểm yếu (dưới 5): Học sinh đọc còn sai nhiều. Sau khi cho học sinh trong lớp đọc bài, có một số lỗi như sau: Xuân bề Thế là mùa xuân mong ước lá lến! Lầu tên, từ trong vờn, mùi hoa hồng, hoa huệ thơm lức. Trong không khí không còn ngựi tấy hơi nớc nạnh néo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng vì đã cợi bọ hết nhứng cái áo đá già len tụi. Các cành cây đều đấm tấm màu xanh. Những cành xoan khẳng khiu đương chộ lá, lại sắp buông toả ra nhứng tán hoa sang sáng, tim tím. Ngoài kia, dặng dâm bụt cúng sắp có lụ. Đánh giá sau khảo sát cụ thể như sau: Tổng số học sinh dự kiểm tra
26
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
2
7,7
6
23,0
13
50,0
5
19,3
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 10 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Qua khảo sát thực tế, tôi tiến hành lập danh sách, phân loại học sinh mắc lỗi theo nhóm như sau: Tổng số học sinh
n/l
26
Ngọng thanh
Sắc/ngã
Hỏi/nặng
Đọc nhỏ
Đọc liến thoắng
(đọc sai âm đôi)
2/26
4/26
4/26
2/26
2/26
5/26
8/26
3/26
7,7
=15,3
=15,3%
=7,7%
=7,7,5%
=19,1%
=30,6%
=11,5%
Cụ thể: + Về lỗi phát âm: Các em chủ yếu ngọng về âm đầu và thanh, ngọng vần ít hơn. Cụ thể: học sinh chủ yếu lẫn âm l/n: 2 em (phần nhiều ảnh hưởng do phát âm từ gia đình bố mẹ học sinh); có 4 em người dân tộc Thái phát âm ngọng v/b; đ/b; t/th (ngọng phát âm địa phương), trong 4 em ngọng âm đầu còn có 2 em ngọng thanh sắc/ngã; hỏi/nặng; còn 2 em ngọng vần ươn/ơn, ươc/ơc; iên/ên + Về lỗi diễn đạt: Cả lớp có 2 học sinh đọc trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có diễn cảm, 6 em đọc rõ ràng, ngắt nghỉ tương đối phù hợp, 13 em đọc được bài tuy nhiên đôi khi vẫn còn ngắt, nghỉ chưa đúng chỗ, chưa biết ngắt câu dài, vẫn ngọng âm, còn 5 em vừa đọc vừa đánh vần, đọc chậm và còn mắc cả lỗi phát âm (ngọng âm đầu và thanh), trong lúc đọc còn dừng lại để đánh vần, không đảm bảo tốc độ. Còn 3 em đọc được bài nhưng đọc liến thoắng, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đọc ào ào cho hết bài, còn 8 em đọc nhỏ. Sau khi khảo sát, phân loại đối tượng tôi tiến hành lập danh sách theo dõi, tập trung các nhóm học sinh mắc lỗi để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng riêng. Lập bảng theo dõi mức độ tiến bộ trong phát âm, những ưu khuyết điểm còn mắc phải trong từng bài, từng tuần để từng bước dứt điểm. Thông qua bảng thống kê giáo viên nắm được mức độ mắc lỗi của học sinh trong lớp từ đó có kế hoạch sửa lỗi cho từng nhóm học sinh trong từng tiết học, bài học, theo từng loại lỗi khác nhau. Tóm lại: Bước khảo sát thực tế việc đọc của học sinh nhằm tìm ra để phân loại các nhóm mắc lỗi khác nhau để biềm biện pháp khắc phục, sửa lỗi cho học sinh. Đây là bước rất quan trọng để thực hiện tốt việc “rèn kĩ năng đọc” cho học sinh. 2. Biện pháp 2: Yêu cầu đối với giáo viên 2.1 Chuẩn bị bài trước khi lên lớp
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 11 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
2.1.1 Tập đọc mẫu Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài Tập đọc: Xác định chuẩn kiến thức kỹ năng của bài, nắm chắc nội dung và ý nghĩa bài Tập đọc, đặc biệt là thể loại bài Tập đọc, từ đó hình thành cách đọc, giọng đọc, cách ngắt hơi, nghỉ hơi, cách ngắt nhịp câu thơ, cách lên giọng, xuống giọng … cho phù hợp. Đọc bài thành tiếng ít nhất hai đến ba lần để tự kiểm tra giọng đọc, cách ngắt hơi, nghỉ hơi, … của mình đã phù hợp chưa để kịp thời điều chỉnh cho bước đọc mẫu của giờ Tập đọc. Giáo viên phải tập cho bản thân mình có giọng đọc mẫu thật chuẩn. Đọc mẫu cho các em trong giờ Tập đọc là vô cùng quan trọng nó góp phần quyết định đến chất lượng đọc của các em trong giờ Tập đọc đó. Giáo viên đọc mẫu phải đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đảm bảo tốc độ và diễn cảm, vì đây chính là cái đích về kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Qua bài đọc mẫu của giáo viên còn diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc (đây chính là phương pháp trực quan tốt nhất đối với học sinh lớp 2) Nếu giáo viên còn phát âm chưa chuẩn nên gạch dưới những tiếng từ mình hay mắc lỗi để khi đọc chú ý uốn nắn kịp thời tiến tới đọc chuẩn khi đọc mẫu trước học sinh. 2.1.2 Phân tích nội dung bài Tập đọc qua hệ thống câu hỏi cuối bài Giáo viên phải trả lời được các câu hỏi vì các câu trả lời này sẽ giúp cho giáo viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập đọc. Trong một số bài Tập đọc giáo viên có thể dùng thêm một số câu hỏi dẫn dắt trước khi vào các câu hỏi chính, có thể chia câu hỏi trong sách giáo khoa thành các câu hỏi nhỏ, sắp xếp, hệ thống lại các câu hỏi cho phù hợp (tránh những câu hỏi vụn vặt). 2.1.3 Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học – đặc biệt là lựa chọn biện pháp rèn đọc cho học sinh Tuỳ từng bài Tập đọc, giáo viên lường trước các từ khó, phát âm dễ lẫn để lựa chọn nhóm đối tượng luyện đọc nhiều hơn. Ví dụ bài tập đọc có nhiều âm đầu khó, hay có vần dễ lẫn để chọn nhóm học sinh hay mắc lỗi đó luyện đọc kĩ hơn. Lựa chọn hình thức luyện đọc ở phần đọc đoạn, bài hay phần đọc lại sau tìm hiểu nội dung, có thể chọn các hình thức dạy học như: Trò chơi, thi đọc tiếp sức, thi đọc đối đáp… để học sinh không nhàm chán. Cách luyện đọc nhóm cũng cần linh hoạt, không nhất nhất cứ nhóm đôi. Bài có 3 đoạn chúng ta có thể luyện đọc nhóm ba, bốn đoạn thì luyện đọc nhóm 4. Đến phần thi đọc nhóm trước lớp cũng cần thay đổi linh hoạt, có thể thi chọn mỗi nhóm một em thi đọc, cũng có thể thi đọc đồng thanh cả nhóm … Tóm lại là giáo viên phải linh hoạt để tiết học sinh động. 2.1.4 Bước soạn bài – Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài Tập đọc bám sát Chuẩn kiến thức kỹ năng cơ bản. Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 12 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
– 13 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Bước 2: Đọc thành tiếng hai lần, đầu tiên đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng câu (biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm) để sau đó tiến tới đọc diễn cảm, đọc hay. Bước 3: Đọc kỹ phần chú giải (có thể hỏi cha mẹ, anh chị những từ nào chưa hiểu trong bài Tập đọc). Bước 4: Tập trả lời câu hỏi dưới bài Tập đọc. Trước khi trả lời nên đọc toàn bộ câu hỏi một lần, suy nghĩ động não trả lời từng câu sao cho gọn, đủ ý (Có thể viết vào vở chuẩn bị bài). Bước 5: Đọc thành tiếng lần cuối sao cho đúng, giọng đọc phù hợp với nội dung của bài Tập đọc. 2.4 Kiểm tra đánh giá thường xuyên. Sau mỗi bài Tập đọc, giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh học ở nhà theo yêu cầu, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra việc học ở nhà đối với các em. Sau mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì giáo viên cần đánh giá kiểm tra trình độ của học sinh rồi ghi lại vào bảng theo dõi, từ đó giáo viên điều chỉnh lại phương pháp giảng dạy hoặc giúp học sinh điều chỉnh lại cách học sao cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao. Mặt khác xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích được cô giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cô giáo, luôn cố gắng làm nhiều việc tốt để được cô giáo chú ý, khen ngợi nên việc động viên, khen ngợi kịp thời có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn. Giáo viên cần hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ liễu trước cả lớp. Đối với những em chậm tiến bộ nên nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách khắc phục chứ không phê bình gay gắt, không xúc phạm đến học sinh, không để học sinh chán nản, không thích học Tập đọc. 2.5 Dự giờ đồng nghiệp. Trong trường có rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm dạy Tập đọc, những giáo viên mới về trường nên tích cực đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp. Sau mỗi tiết dự giờ rút kinh nghiệm với giáo viên trực tiếp giảng dạy, bổ sung kiến thức, phương pháp cho bản thân mình. Phần nào chưa rõ, chưa hiểu có thể trực tiếp hỏi giáo viên giảng dạy để hiểu thấu đáo hơn. Tóm lại: Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng, chi tiết, dự phòng được một số tình huống sư phạm khi giảng dạy và hướng giải quyết, xây dựng được kế hoạch dạy học phù hợp với bài tập đọc, phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. 3. Biện pháp 3: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giờ Tập đọc cho cho học sinh lớp 2A5. 3.1 Luyện đọc đúng (dùng cho nhóm lỗi phát âm ngọng) Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 14 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
– Học sinh đọc đúng tức là đọc một cách chính xác, không có lỗi, nghĩa là không đọc thừa, thiếu tiếng, không đọc theo cách phát âm địa phương, lệch chuẩn, đọc đúng chính âm. – Giáo viên cần hướng dẫn học sinh có tâm thế để đọc: Tư thế đứng đọc ngay ngắn, hít sâu, thở ra chậm để lấy hơi. + Luyện cho học sinh biết đọc đúng chính âm: – Rèn đọc đúng là rèn cho học sinh thể hiện chính xác âm vị Tiếng Việt. – Đọc đúng các phụ âm đầu: lạnh lẽo chứ không phải nạnh nẽo; thơm nức chứ không phải thơm lức; lấm tấm, đen thủi, rì rào không đọc thành đấm tấm; len tủi; đì đào… – Đọc đúng vần: phân việt và đọc đúng các vần có âm đôi ươ, uô, iê. Ví dụ: vườn, nước, đầu tiên… chứ không đọc là vờn, nơc, lầu tên…, – Đọc đúng thanh: phân biệt giữa thanh sắc với thanh ngã; thanh nặng với thanh hỏi. Ví dụ: Những ≠ nhứng; đỏ ≠ đọ, cởi bỏ ≠ cợi bọ… Biện pháp: Trước tiên giáo viên cần luyện cho học sinh nói, đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt, tiếp đó chúng ta cần nắm các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm: + Chữa lỗi phát âm theo mẫu: Rèn cho học sinh kỹ năng nghe. Học sinh phát âm sai, giáo viên phát âm chuẩn, yêu cầu học sinh nghe và đọc lại chính xác theo mẫu. Giáo viên cho học sinh quan sát khẩu hình miệng cách bật âm thanh, rồi học sinh làm theo mẫu. Giáo viên có thể để học sinh có giọng đọc chuẩn đọc mẫu để học học phát âm sai đọc lại theo, cho học sinh gạch chân tiếng có âm mình hay lẫn để luyện phát âm riêng những tiếng đó. + Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: cho học sinh phân tích cấu tạo tiếng: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối từ đó đánh vần đủ để đọc đúng, không bỏ âm cuối hoặc âm đệm, hoặc lẫn các âm cuối (có thể cho học sinh vẽ lại mô hình cấu tạo vần, đưa vần vào mô hình đã học ở lớp 1) + Chữa lỗi bằng âm trung gian, chữa lỗi phát âm bằng cách tìm tiếng, từ có chứa âm dễ lẫn: ví dụ: “no” khác với ” lo” bằng cách tìm từ có tiếng “no”, “lo”: ăn no, no nê, .. lo lắng, lo sợ, “đỏ” khác với “đọ”: màu đỏ, hoa đỏ … khác với đọ sức, so đọ …, cũng có thể giáo viên dùng tranh ảnh (hoặc hình ảnh khi dạy giáo án điện tử) để học sinh phân biệt, ví dụ phân biệt vần ơn/ươn: hình ảnh vườn rau, vườn cây với hình ảnh đàn bướm vờn hoa… + Chữa lỗi theo nhóm: Khi học đến bài tập đọc nào có nhóm học sinh mắc lỗi nhiều trong bài thì giáo viên phải tập trung vào nhóm học sinh đó để sửa lỗi ngay, cố gắng, kiên trì với từng học sinh, có thể cho học sinh gạch chân chữ mình hay đọc sai để khi đọc đến đó nhớ đọc cho đúng. Giáo viên cần chú ý kiên trì chữa lỗi phát âm sai cho học sinh trong lớp ở tất cả trong các tiết học khác, trong khi giao tiếp hàng ngày.
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 15 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Tóm lại: Để hướng dẫn học sinh đọc đúng giáo viên phải luyện cách phát âm đúng. Giáo viên phải kiên trì, liên tục có hệ thống. Nhiều học sinh phát âm ngọng ngại không muốn đọc sợ các bạn cười, giáo viên phải giải toả tâm lí, phân tích để các bạn cùng giúp đỡ, giáo viên nên lựa chọn hình thức sửa lỗi trong đọc nhóm đôi, học sinh tự phát hiện tự sửa lỗi cho nhau. 3.2 Luyện đọc nhanh – đọc lưu loát (dùng cho nhóm học sinh đọc nhỏ, đọc chậm – đọc ê, a, nhóm học sinh đọc liến thoắng) Theo thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học kì khác nhau: Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng / phút. Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng / phút. Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng / phút. Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng / phút. Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, đọc nhanh là nói đến mức độ đọc về mặt tốc độ. Vấn đề đọc nhanh chỉ xảy ra sau khi đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ vừa đọc vừa đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng, không thể hiện được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời. Khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn. Khi đọc cho người khác nghe thì phải đọc tốc độ kịp thời cho người nghe hiểu được. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Biện pháp: Hướng dẫn học sinh nắm được tiêu chí cường độ đọc: Đọc to: là đọc đủ nghe, rõ ràng, không có nghĩa là gào lên. Những học sinh đọc quá nhỏ cần yêu cầu học sinh đọc sao cho các bạn ở xa nhất lớp vẫn nghe rõ. Giáo viên cần rèn cho học sinh ngay cả khi nói, khi trả lời câu hỏi cũng phải to đú nghe, rèn trong mỗi bài Tập đọc, trong các bài học khác, trong giao tiếp…. đến khi học sinh có thói quen đọc to. Luyện cho học sinh không đọc ê a, ngắc ngứ, đọc lặp lại. Tốc độ đọc đảm bảo theo yêu cầu, không đọc nhanh quá hay chậm quá. Muốn vậy phải luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc: Trước hết phải luyện cho học sinh đọc không bỏ sót tiếng, bỏ sót dấu thanh; không thêm tiếng, bớt tiếng; không lạc dòng. Để làm được điều này giáo viên phải yêu cầu học sinh thật kiên trì, bước đầu có thể cho các em dùng que chỉ để chỉ vào từng chữ đọc cho chính xác, khi đã quen mặt chữ rồi thì chỉ dùng mắt để nhìn chữ đọc cho đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu đúng, chính xác để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều khiển tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc (có thể gõ thước làm nhịp cho học sinh giữ nhịp đọc). Đối với những em còn đọc ê a hoặc đọc liến thoắng giáo viên cần chỉ ra chính xác lỗi đọc sai của các em rồi từ từ hướng dẫn các em sửa theo mẫu của giáo viên. Phần luyện đọc này thường thực hiện khi các em luyện đọc thành tiếng. Đối với học sinh đọc liến thoắng giáo viên tập cho học Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 16 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
sinh có thói quen đọc đúng nhịp bằng cách cho các em đọc theo nhịp gõ thước của cô giáo, còn đối với học sinh đọc chậm (đọc ê,a) thì giáo viên sẽ cho học sinh đọc từng câu, từng đoạn nhanh dần lên cho kịp bắt nhịp với các bạn khác. Ngoài ra cần sử dụng triệt để hình thức đọc thành tiếng nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của thầy của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách đọc bài Tập đọc trước và dự tính sẽ đọc trong thời gian mấy phút. Định tốc độ đọc như thế nào còn phụ thuộc và độ khó của bài đọc. Ví dụ: Bài: Bím tóc đuôi sam (Tuần 4) học sinh có thể đọc trong vòng 2 đến 3 phút. Tốc độ đọc nhanh dần lên, đến bài ” Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” (Tuần 25) bài này chỉ yêu cầu đọc trong gần 2 phút. 2.3 Luyện đọc hiểu (dùng cho tất cả các nhóm học sinh trong lớp) – Dạy học sinh đọc hiểu là dạy học sinh đọc có ý thức, hiệu quả đó đo được bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản. – Kết quả của đọc hiểu là giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là gồm toàn bộ những gì mình đọc được. Muốn đọc hiểu được văn bản thì học sinh phải biết ngắt, nghỉ đúng. Ví dụ: Bài: “Trên chiếc bè” (Tiếng Việt 2-Tập 1) Một học sinh đọc to, cả lớp đọc thầm đoạn: “Mùa thu …mặt nước” Giáo viên yêu cầu học sinh tự phát hiện những câu dài: – Mùa thu mới chớm/ nhưng nước đã trong vắt/ trông thấy cả hòn cuội trắng tinh/ nằm dưới đáy.// – Những anh gọng vó đen sạm,/ gầy và cao/ nghênh cặp chân gọng vó/ đứng trên bãi lầy/ bái phục nhìn theo chúng tôi// Sau đó giáo viên treo những câu dài đã viết trên bảng phụ (hoặc trên màn hình nếu dạy trình chiếu) Học sinh tự xác định cách ngắt hơi, nghỉ hơi, nhấn giọng ở các từ ngữ của các câu đó. Giáo viên hướng dẫn và tổng kết lại cách đọc rồi cho học sinh gạch dưới các từ ngữ cần nhấn giọng và gạch chéo giữa các cụm từ cần ngắt nghỉ. Sau đó cho học sinh luyện đọc lại. Điều này đã giúp học sinh nắm bài một cách có ý thức, chủ động và phát huy khả năng cảm thụ văn học của các em. Hoặc bài: ” Mẹ” (Tiếng Việt 2-Tập 1): Hướng dẫn học sinh đọc bài thơ theo nhịp 2/4 và 4/4, đến câu thơ 7 và 8 học sinh giỏi tự phát hiện ra cách ngắt nhịp câu thơ khác những câu trước. Những ngôi sao/ thức ngoài kia (3/3) Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.(3/5) Biện pháp: Người giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu được nội dung bài tập đọc bắt đầu phải hiểu được các từ trong bài đọc. Giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh đọc tiếng từ khó, câu khó bằng cách đọc mẫu chính xác rồi cho học sinh luyện đọc lại sau đó mới yêu cầu các em đọc hoàn chỉnh câu, đoạn, bài. Những học sinh khá giỏi có thể sau khi giáo viên đọc tự phát hiện ra cách Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 17 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
– 18 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 19 –
Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc-
Ở bài này giáo viên chú ý nhóm học sinh đọc ngọng vần ươn/ương, uôn/ ôn; ay/ai trong phần luyện đọc câu; sửa lỗi nhóm đọc liến thoắng, giữ nhịp đọc cho học sinh đọc đúng nhịp trong phần đọc đoạn, bài và phần đọc lại. Tiết 3: Bác sĩ Sói (tuần 23) Bài này giáo viên rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh và luyện đọc diễn cảm (vẫn kết hợp sửa lỗi cho học sinh). Kết quả cụ thể: 1. Lớp dạy thực nghiệm (áp dụng sáng kiến) Tổng số học sinh
26
Tuần 8
Tuần 17
6
23,1
6
23,1
4
4
15,3
4
15,3
3
4
15,3
4
15,3
5
19,1
4
8
30,6
3
11,5
2
7,7
11,5
2
7,7
2
7,7
1
3,8
15,3
3
11,5
2
7,7
7
26,9
5
19,1
3
11,5
3
11,5
3
11,5
0
15,3
Đánh giá: Kết quả lớp thực nghiệm: Ở lớp 2A5 (lớp thực nghiệm) qua từng thời kỳ học sinh có chuyển biến về chất lượng đọc. Song nhóm học sinh mắc lỗi về diễn đạt thì có hiệu quả hơn, còn nhóm sai về lỗi phát âm, nhất là ngọng âm đầu còn chưa có chuyển biến nhiều. Đầu năm: Tỉ lệ học sinh đọc lưu loát ít, còn nhiều học sinh đọc ngọng, phát âm lẫn lộn, đặc biệt còn nhiều học sinh đọc ê a, có một số em cả học sinh đọc liến thoắng. Giữa kỳ 1: Nhiều học sinh thích học phân môn Tập đọc hơn. Tỉ lệ học sinh đọc ngọng đã giảm, học sinh đọc lưu loát hơn, số học sinh đọc ê a, hoặc đọc liến thoắng giảm. Các em bước đầu biết đọc đúng và đọc hiểu, bên cạnh đó vẫn còn học sinh đọc ê a, ngắc ngứ, đánh vần. Cuối học kỳ I: Học sinh thích học phân môn Tập đọc nhiều hơn. Số học sinh đọc ngọng giảm, học sinh đọc lưu loát hơn, số học sinh đọc ê a, hoặc đọc Thái Thị Thanh – Giáo viên trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên
– 20 –
Năm Học Mới Và Giải Pháp Duy Trì Trường Học Đạt Chuẩn Quốc Gia
GD&TĐ – Đến nay, toàn tỉnh Phú Thọ có 630 trường đạt chuẩn quốc gia (tỷ lệ 68,6%); tỉ lệ kiên cố hóa trường lớp học là 85,6 % (mầm non 64,1%, tiểu học 83,1%, THCS 95,9%, THPT 98%), cao hơn mức bình quân chung của cả nước.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Hà Kế San, lãnh đạo Sở GD&ĐT cùng các sở, ngành kiểm tra thực tế xây dựng trường chuẩn quốc gia tại huyện Tam Nông (Ảnh:phutho.vn)
Với một tỉnh miền núi, trung du còn nhiều khó khăn, con số trên thể hiện nỗ lực không nhỏ của ngành Giáo dục địa phương này.
Thực hiện xã hội hóa, huy động tối đa nguồn lực
Nói về giải pháp duy trì trường học đạt chuẩn quốc gia, việc đầu tiên ông Nguyễn Minh Tường – Giám đốc Sở GD&ĐT Phú Thọ – chia sẻ là đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục tại các địa phương có điều kiện.
Thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để khắc phục tình trạng trường, lớp học chưa được kiên cố hóa ở khu vực có điều kiện KT-XH khó khăn; đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học; mở rộng quy mô lớp học để giảm sĩ số học sinh ở khu vực thành thị.
Cùng với đó, tiến hành kiểm tra, rà soát, đánh giá nghiêm túc thực trạng các tiêu chuẩn của trường học đạt chuẩn quốc gia (định kỳ 2,5 năm và 5 năm) theo quy định, lập hồ sơ trình đoàn kiểm tra của UBND tỉnh.
“Hiện nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh tiếp tục rà soát, quy hoạch, tạo quỹ đất đáp ứng yêu cầu tối thiểu về diện tích cho mỗi cơ sở giáo dục theo quy định.
Bên cạnh đó, tôi cho rằng, các cấp, ngành cần tập trung bố trí, huy động, lồng ghép các nguồn lực, tận dụng tối đa việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động nguồn vốn ngân sách cấp huyện, xã và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo tiêu chuẩn của trường học đạt chuẩn quốc gia ở mỗi cấp học, quan tâm tới giáo dục miền núi” – ông Nguyễn Minh Tường chia sẻ thêm.
Gắn trách nhiệm với người đứng đầu mỗi cơ sở giáo dục
Nhấn mạnh giải pháp này, ông Nguyễn Minh Tường đồng thời cho biết, cần triển khai đồng bộ các giải pháp để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn,…tạo điều kiện cho các đối tượng (học sinh, giáo viên) được thụ hưởng các điều kiện của một trường chuẩn quốc gia ở mức độ cao nhất.
Địa phương, ngành Giáo dục, các cơ sở giáo dục thường xuyên rà soát, đánh giá số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ, có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn đảm bảo đáp ứng yêu cầu và tương xứng với vị thế trường học đạt chuẩn quốc gia; thực hiện triệt để phân cấp quản lí theo quy định.
“Năm học mới 2017 – 2018, Phú Thọ tiếp tục thực hiện rà soát hệ thống trường lớp, xây dựng kế hoạch duy tu, bảo dưỡng, đảm bảo cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đối với các trường thực hiện dạy học 2 buổi/ngày. Tiếp tục thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2014 – 2015, lộ trình đến năm 2020.
Trong thời gian tới tiến hành xác định thực trạng và nhu cầu về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho từng đơn vị; xây dựng kế hoạch tổng thể chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị trường học đồng bộ với lộ trình đổi mới chương trình giáo dục phổ thông” – Giám đốc Sở GD&ĐT chia sẻ.
Bạn đang xem bài viết Skkn Đạt Loại C Cấp Huyện Năm Học 2014 trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!