Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Toàn Diện Trong Trương Tiểu Học mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRIỆU LỘC ——***—— SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TOÀN DIỆN TRONG TRƯƠNG TIỂU HỌC Người thực hiện: Trịnh Văn Thường Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Triệu Lộc SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý giáo dục HẬU LỘC NĂM 2018 MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 I. Phần mở đầu 1 2 1. Lí do chọn đề tài: 1 3 2. Mục đích nghiên cứu: 2 4 3. Đối tượng nghiên cứu: 2 5 4.Phương pháp nghiên cứu: 2 6 5. Những điểm mới 2 7 II. Phần nội dung 3 8 1. Cơ sở lý luận 3 9 2. Thực trạng địa phương – Nhà trường 4 – 5 10 3. Biện pháp thực hiện 6 – 16 11 4. Hiệu quả : 17 12 III. Kết luận và kiến nghị 18 13 1. Kết luận 18 14 2. Kết luận – kiến nghị 18 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Giáo dục và Đào tạo có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc bồi dưỡng con người phát triển toàn diện (Đạo đức – Trí tuệ – Thể chất – Thẩm mỹ). Nó là con đường cơ bản nhất để hình thành nhân cách người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8 ( Khóa XI) về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục. Mục tiêu đối với giáo dục phổ thông: “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015”. Bậc tiểu học được coi là nền tảng của hệ thống giáo dục phổ thông. Chất lượng giáo dục phổ thông còn phụ thuộc nhiều vào kết quả giáo dục của bậc học, do đó yêu cầu giáo dục tiểu học phải làm sao để có kết quả và chất lượng tốt nhất. Để đạt được điều đó một trong những giải pháp của ngành đã đề ra là “Tiếp tục đổi mới Nội dung – Phương pháp giáo dục, tăng cường cơ sở vật chất – Thiết bị dạy học, xây dựng môi trường giáo dục an toàn – thân thiện, đồng thời giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh trong các trường học ”. Để thực hiện được mục tiêu của bậc học và nhiệm vụ trọng tâm của các năm học đề ra, đòi hỏi mỗi cán bộ làm công tác quản lý trường học phải nhiệt tình và thể hiện lương tâm trách nhiệm trước công việc; thật sự năng động, sáng tạo, có năng lực, dám nghĩ, dám làm để cải tiến phương pháp quản lý, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Nhận thức rõ nhiệm vụ: Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục của nhà trường lên một bước tiến mới cần tập trung đổi mới phương pháp “ Bồi dưỡng đội ngũ về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và nghiệp vụ chuyên môn. Đổi mới công tác tham mưu về công tác xã hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất, thư viện thiết bị đáp ứng các tiêu chuẩn trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ II. Nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống. Xuất phát từ nhận thức về “vị trí giáo dục của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước”. Với trách nhiệm là Hiệu trưởng nhà trường, đứng trước tình hình thực tế về cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục của nhà trường còn gặp nhiều khó khăn và yếu kém. Tôi đã suy nghĩ và tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân yếu kém; tập trung nghiên cứu, tìm giải pháp và tổ chức thực hiện trong hai năm học 2016 – 2017 và 2017 – 2018 góp phần tích cực nâng cao hiệu quả giáo dục của nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu: – Tham mưu với lãnh đạo địa phương đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học – Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể xã hội, Hội cha mẹ học sinh xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đồng thời tăng cường giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh. – Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, tích cực tự học tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. 3. Đối tượng nghiên cứu: – Nghiên cứu về vị trí địa lý, tình hình phát triển kinh tế, trật tự an toàn xã hội tại địa phương xã Triệu Lộc. – Nghiên cứu nội dung chương trình, các văn bản chỉ đạo của các cấp về giáo dục bậc Tiểu học. – Nghiên cứu đội ngũ giáo viên – Học sinh trường Tiểu học. 4. Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp quan sát, khảo sát thực tế về tình hình cơ sở vật chất trang thiết bị dạy và học trong nhà trường. – Quan sát, khảo sát thực tế trật tự an toàn xã hội tại địa phương xã Triệu Lộc. – Quan sát, khảo sát chất lượng dạy và học trên lớp và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. – Phương pháp phân tích tổng hợp, thuyết trình tranh luận. – Phương pháp tổ chức nghiệm thu, so sánh đối chứng tổng hợp. 5. Điểm mới trong công tác nghiên cứu: – Thu hút, huy động nhiều lực lượng trong và ngoài nhà trường cùng tham gia các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. – Vai trò giáo dục giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm. – Từng bước làm thay đổi quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục rèn luyện của học sinh. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất , thẫm mỹ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. Vì kết thúc quá trình học tập của bậc học, học sinh tiểu học phải đạt được những chuẩn kiến thức, kĩ năng cơ bản. Vì vậy quản lý mục tiêu giáo dục là sự phối hợp điều khiển các tác động có chủ định vào đối tượng giáo dục (học sinh) để các khía cạnh của mục tiêu giáo dục được thực hiện một cách đồng bộ. Cùng với xu thế thế giới đang có sự thay đổi sâu sắc về mọi mặt khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin phát triển như vũ bảo, tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, quy tắc sống cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt là thế hệ trẻ, các em dể dàng học theo, bắt trước một số thói hư tật xấu du nhập từ bên ngoài. Vì vậy giáo dục kỹ năng sông cho học sinh tiểu học là một yêu cầu cần thiết đã và đang được triển khai trong các nhà trường. Giáo dục kỹ năng sống cần trang bị cho học sinh những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các tình huống trong cuộc sống. Công tác quản lý trường tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch đạt kết quả cao. Để nâng cao được chất lượng trong nhà trường, đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải luôn nhiệt tình, sáng tạo đề ra những giải pháp tích cực, kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương. Cán bộ quản lý, đứng đầu là người Hiệu trưởng phải làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, với lãnh đạo phòng Giáo dục và Đào tạo, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội; tranh thủ mọi nguồn lực tập trung xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học; đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục và công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Bởi có điều kiện tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu nghiên cứu và môi trường giáo dục lành mạnh thân thiện; thu hút được nhiều lực lượng xã hội cùng tham gia làm công tác giáo dục; kích thích được đội ngũ giáo viên trong nhà trường dành nhiều tâm huyết, sáng tạo trong giảng dạy sẽ tạo những động lực tích cực để nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mỗi năm học, đội ngũ cán bộ quản lý phải bám sát vào nhiệm vụ trọng tâm của năm học. Tổ chức triển khai sâu sắc các văn bản chỉ đạo của Đảng – Nhà nước và của Ngành đến toàn thể cán bộ giáo viên, giúp giáo viên nhận thức đúng và đầy đủ nhiệm vụ năm học. Đề ra phương hướng mục tiêu, xây dựng kế hoạch sát với điều kiện thực tế của nhà trường; huy động các nguồn lực sẵn có ( Nhân lực, vật lực, tài lực….) để tổ chức thực hiện các giải pháp đạt kết quả cao theo kế hoạch đề ra. Phát động sâu rộng các phong trào thi đua, tổ chức sơ kết nhân rộng những điển hình tiên tiến. 2. THỰC TRẠNG ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHÀ TRƯỜNG. Thực tế ở địa phương Triệu Lộc – Hậu Lộc trong những năm gần đây cùng với sự phát triển chung của đất nước cũng đã có những bước khởi sắc về phát triển kinh tế. Cùng với những mặt mạnh của phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương cũng đã xuất hiện một số tụ điểm chơi Gemas và một số tai tệ nạn xã hội khác. Một bộ phận nhỏ học sinh đã tham gia vào các trò chơi vô ích, dẫn đến nghỉ học vô lý do, không chịu khó học tập, kết quả học tập sa sút. Là một địa phương có đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua, có diện tích đồi 357 ha/ 912,8 ha chiếm 39,1 % tổng diện tích chung của xã nên có diện tích trồng rừng lớn và các hồ nước nằm sâu trong các thung lũng núi bao quanh, có khu di tích lịch sử Quốc gia ( Đền Bà Triệu). Khu vực thị tứ Quán Dốc là đầu mối luôn trung chuyển lưu thông hàng hóa nông, lâm, thủy sản của huyện đi các tỉnh trong nước và biên giới Trung Quốc; có đồi núi, rừng cây và một số hồ nước nằn khuất sâu trong các thung lũng và đặc biệt từ năm 2017 lưu lượng phương tiện tham gia giao thông rất đông do công nhân đi làm tại nhà máy may xã Châu Lộc trùng với thời gian học sinh đến trường nên đã có một số trường hợp đã bị va quệt khi tham gia giao thông. 2.1. Cơ sở vật chất nhà trường: – Cuối tháng 8 năm 2016 tôi được phân công công tác tại trường Tiểu học Triệu Lộc. Thực tế cơ sở vật chất nhiều hạng mục đã xuống cấp: Hệ thống chiếu sáng, quạt mát, bàn ghế học sinh, bảng biểu trong các phòng học đã bị hư hỏng nhiều; sách trong thư viện và trang thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu và bị hư hỏng gây khó khăn trong việc đổi mới phương pháp dạy học và công tác quản lý chất lượng giáo dục của nhà trường. – Phòng thiết bị, đồ dùng dạy học còn sử dụng trong một phòng với diện tích 12 m2 rất khó khăn trong việc quản lý và sử dụng. – Hệ thống thoát nước trong khuôn viên nhà trường chưa có nên thường hay ngập úng về mùa mưa, các bồn cây trên sân trường đã bị long, nứt và đổ vỡ gây khó khăn tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoài giờ lên lớp. – Nhà để xe chưa đảm bảo diện tích và đã bị xuống cấp, hư hỏng phần mái che. 2.2.Về chất lượng đội ngũ: – Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng và cơ cấu bộ môn ( chưa có giáo viên Âm nhạc, Thể dục), đặc biệt một số giáo viên trong nhà trường luôn biến động do luân chuyển về thành phố Thanh Hóa nên phần nào không ổn định về tư tưởng để cống hiến lâu dài. Công tác bồi dưỡng đội ngũ về Đổi mới phương pháp dạy học – Ứng dụng CNTT, sử dụng ĐDDH còn bị xem nhẹ, công tác kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục chưa được quan tâm đúng mức. – Chất lượng đội ngũ giáo viên không đồng đều về nghiệp vụ chuyên môn, một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết, say sưa với nghề nghiệp, còn lười suy nghĩ trong việc đổi mới phương pháp dạy học, chưa chịu khó sử dụng phương tiện thiết bị – Đồ dùng dạy học, việc ứng dụng CNTT trong công tác giảng dạy hiệu quả chưa cao, chưa phấn đấu vươn lên để trở thành giáo viên giỏi các cấp, lớp có chất lượng cao. 2.3. Công tác quản lý. – Công tác bồi dưỡng đội ngũ về chính trị tư tưởng chưa được thường xuyên, có một số giáo viên chưa vượt khó vươn lên, hay có tư tưởng ỷ lại. Công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ còn mang nặng tính hình thức, chưa tập trung vào giải quyết những vấn đề khó trong quá trình ĐMPPDH. – Công tác kiểm tra đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên có biểu hiện xem nhẹ. Công tác nhận xét chữa bài của học sinh trên lớp chưa thường xuyên, việc phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành chưa được chú trọng. – Công tác sinh hoạt chuyên môn chưa phát huy được tính sáng tạo, thiếu tập trung phân tích cấu trúc nội dung chương trình, nội dung bài học và phương pháp, hình thức dạy học. – Công tác giáo dục kỹ năng sống còn chưa được quan tâm đúng mức, nên kỹ năng ứng xử trong giao tiếp và kỹ năng xử lý các tình huống trong cuộc sống còn nhiều hạn chế. – Công tác thi đua khen thưởng còn bị xem nhẹ, chưa khơi dậy lòng nhiệt tình và sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong điều kiện thực tại, chưa xây dựng được những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến. 2.4. Công tác xã hội hóa giáo dục. – Sự lãnh chỉ đạo của Cấp uỷ Đảng – Chính quyền địa phương đối với sự nghiệp giáo dục chưa phát huy được nội lực trong nhân dân, chưa tập hợp được nhiều lực lượng xã hội ở địa phương tham gia giáo dục. Công tác chỉ đạo thực hiện phổ cập giáo dục – xóa mù chữ chưa triệt để dẫn tới một số phụ huynh do nhận thức chưa đầy đủ nên buông lỏng nề nếp học tập của con em mình. – Do điều kiện kinh tế của nhiều gia đình học sinh còn gặp khó khăn. Một số phụ huynh đã đi làm ăn xa với thời gian dài, gửi con nhờ ông bà, cô, dì, chú, bác chăm hộ nên việc quan tâm, chăm sóc, quản lý học sinh tại gia đình còn nhiều bất cập. – Do mặt trái của nền kinh tế thị trường, tại địa phương đã xuất hiện nhiều tụ điểm chơi Gemas và một số tai tệ nạn khác…đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, thời gian học tập của học sinh. 2.5. Tổng hợp kết quả thực trạng: 2.5.1.Chất lượng giáo dục. Năm học HT CHT Xếp thứ HSG SL TL SL TL 2015 – 2016 296 99,3 2 0,7 30 2016 – 2017 295 100 0 26 2.5.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên. Năm học TSGV Loại Giỏi Loại Khá Loại TB Loại Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 2015 – 2016 15 5 33,3 6 40,0 4 26,7 0 2016 – 2017 16 6 31,25 7 43,5 3 18,7 0 2.5.3. Cơ sở vật chất Năm học Tổng số lớp Tổng số phòng học Phòng chức năng 2016 – 2017 11 13 ( 2 phòng học đặc thù) 1 phòng truyền thống, 1 phòng TV, 1 kho TB 2017 – 2018 11 13 ( 2 phòng học đặc thù) 1 phòng truyền thống, 1 phòng TV, 1 kho TB. Từ thực tiễn ở nhà trường, điều kiện kinh tế và môi trường giáo dục tại địa phương. Tôi đã tập trung nghiên cứu “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong trường tiểu học”. 3. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN 3.1 Biện pháp thứ nhất: Thực hiện tốt công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng – Chính quyền địa phương. Trong hai năm học vừa qua, Tôi đã tập trung thực hiện kịp thời công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng – Chính quyền địa phương, Phòng GD&ĐT Hậu Lộc về kế hoạch phát triển giáo dục của nhà trường. Trong quá trình tham mưu, tôi đã cụ thể hoá các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng – Nhà nước và Ngành Giáo dục đã đề ra. Đó là: tu sửa cơ sở vật chất đảm bảo đủ phòng học, đủ bàn ghế để tất cả học sinh được học 2 buổi / ngày, xây dựng các phòng chức năng; đầu tư kinh phí mua sắm thiết bị – Đồ dùng dạy học; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục và công tác thi đua khen thưởng. Để thực hiện đạt kết quả cao kế hoạch đã đề ra, Tôi đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền; phối hợp chặt chẽ với đài truyền thanh xã “viết” và “đưa” các tin bài về Chủ trương – Chính sách của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục trên hệ thống đài truyền thanh của xã, thôn xóm. Với nội dung: Thực hiện phổ cập giáo dục – xóa mù chữ; công tác “ Tu sửa cơ sở vật chất đảm bảo các tiêu chuẩn trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ II, phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; phong trào xã hội hóa giáo dục….. Nhằm giúp nhân dân nhận thức đúng vị trí, vai trò giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Từ công tác tuyên truyền và tổ chức Chuyên đề, tổ chức Hội thảo đã có sức lan tỏa lớn trong quần chúng nhân dân. Vì vậy trong 2 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Cấp ủy – Chính quyền địa phương và sự tham gia đóng góp của cha mẹ học sinh, cơ sở vật chất của nhà trường từng bước đã được cải thiện. Tháng 9 – 10 năm 2016 đã tu sửa bàn ghế học sinh, hệ thống chiếu sáng trên các phòng học cao tầng đảm bảo đủ bàn ghế, ánh sáng để tổ chức học 2 buổi / ngày. Tháng 3/2017 Ủy ban nhân dân xã và Hội cha mẹ học sinh đã tập trung xây dựng hệ thống thoát nước và khuôn viên trường học theo hướng xanh, sạch, đẹp. Tháng 8 năm 2017 Hội cha mẹ học sinh đã xây dựng nhà để xe cho cán bộ giáo viên và học sinh với diện tích 167 m2. Tổng kinh phí đầu tư xây dựng và tu sửa cơ sở vật chất gần 135.000.000 đồng. Than mưu tích cực với lãnh đạo địa phương về xây dựng “Quy ước” phối hợp giữa các lực lượng đoàn thể xã hội, Cấp ủy chi bộ các thôn với nhà trường. Tổ chức hội nghị “Chuyên đề” về phát triển sự nghiệp giáo dục một lần/ năm nhằm đánh giá chất lượng giáo dục một cách sâu sắc. Gắn vai trò trách nhiệm giữa Nhà trường – Thôn xóm và các tổ chức đoàn thể xã hội về phong trào giáo dục chung của xã nhà. Thông báo kết quả học tập của học sinh về cấp ủy thôn để biểu dương kịp thời những gương học tốt nhân rộng điển hình; đồng thời có biện pháp phối hợp cùng nhà trường giúp đỡ học sinh gặp khó khăn. 3.2 Biện pháp thứ hai : Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. 3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong việc “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đội ngũ giáo viên có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Để nâng cao được chất lượng đội ngũ của nhà trường, tôi đã tổ chức “Hội thảo” đánh giá thực trạng đội ngũ về phẩm chất đạo đức lối sống, lương tâm nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm, tinh thần vượt khó và chuyên môn nghiệp vụ. Trao đổi đánh giá khách quan, chính xác về hiệu quả công tác của mỗi giáo viên. Phân tích làm rõ những ưu điểm và những tồn tại hạn chế, giúp giáo viên nhận thức đúng, có ý thức phấn đấu vươn lên trong công tác. Đồng thời tổ chức “Hội thảo” áp dụng những sáng kiến kinh nghiệm hay, phù hợp với nhà trường với đối tượng học sinh như: Sáng kiến kinh nghiệm tự làm và sử dụng ĐDDH hiệu quả của cô giáo Vũ Thị Xuân; kinh nghiệm Ứng dụng CNTT trong các giờ học của thầy giáo Lê Trong Long; kinh nghiệm về ĐMPPDH nhằm phân hóa đối tượng học sinh để bồi dưỡng năng khiếu, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành của cô giáo Nguyễn Thị Bích; kinh nghiệm xây dựng nề nếp và tổ chức các tiết sinh hoạt tập thể, tổ chức HĐNGLL của cô giáo Hoàng Thị Hạnh (GV – TPTĐ). Thông qua hội thảo mỗi giáo viên đã nhận thức đúng và đầy đủ hơn về mục tiêu giáo dục của bậc học và chủ trương đổi
Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp Hai Viết Chữ Đẹp
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xưa có câu: Nét chữ nết người. Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Nền tảng của việc viết chữ đẹp cho học sinh là cấp tiểu học. Giáo viên tiểu học là người có ảnh hưởng nhiều nhất trong việc viết chữ của học sinh. Bởi vậy vấn đề rèn chữ viết cho học sinh tiểu học là vô cùng quan trọng. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như với mọi người.
Trong những năm gần đây, việc rèn luyện chữ viết cho học sinh tiểu học được các cấp lãnh đạo, ban giám hiệu nhà trường và phụ huynh quan tâm. Chính vì thế việc rèn luyện chữ viết cho học sinh được đặt lên hàng đầu, mà khởi đầu là học sinh lớp một, hai. Bộ Giáo Dục đã nhiều lần ban hành những quy định về thay đổi chữ viết ở tiểu học nhằm giúp học sinh viết chữ đẹp và có thẩm mĩ hơn. Mỗi lần thay đổi như vậy, học sinh phải viết đúng theo như mẫu mới. Nhưng thực trạng chữ viết của học sinh hiện nay còn xấu. Các em còn viết sai, viết chưa đúng độ cao con chữ, viết chưa đều nét,…Có những học sinh làm bài tốt nhưng do chữ viết xấu nên làm ảnh hưởng đến chất lượng bài làm của mình, bên cạnh đó các em trình bày bài vở cũng như bài làm không sạch sẽ , điều đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng học môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Bản thân là một giáo viên dạy lớp Hai, tôi muốn tìm một số biện pháp nhằm giúp học sinh viết chữ đúng mẫu và đẹp hơn.
III.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Đầu năm học, khi nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp 2, thực tế tình trạng chữ viết của học sinh còn rất xấu. Thứ nhất vì các em là học sinh lớp Một mới lên. Thứ hai, qua ba tháng nghỉ hè các em ít được quan tâm về việc luyện viết chữ, có học hè chăng thì các em cũng chỉ được trang bị về mặt kiến thức là chủ yếu. Vì vậy tôi nghĩ: Việc rèn chữ viết cho học sinh là một trong những việc được đặt lên hàng đầu. Qua một thời gian nghiên cứu tôi đã tìm ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 tôi đang phụ trách viết chữ tiến bộ hơn, đẹp hơn, góp phần vào việc học được tốt hơn.
IV.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1 Đồ dùng học tập
2. Cơ sở vật chất
3.Dạy những nét cơ bản trong những giờ tập viết
4.Tư thế ngồi viết
5.Rèn chữ viết thường xuyên trong các giờ học
6.Luyện viết chữ đẹp vào cuối mỗi tuần
7.Chữ viết của giáo viên
8.Tổ chức thi viết chữ đẹp trong lớp
9. Chấm điểm Giữ vở rèn chữ cuối tháng
Đồ dùng học tập của học sinh cụ thể là viết, vở, bảng con là một trong những yếu tố quan trọng góp phần cho việc viết chữ đẹp. Vở cho học sinh học tập cần phải chọn những cuốn vở trắng, có dòng kẻ rõ ràng, vở không bị lem mực và bề mặt giấy không nhám. Khi sờ bàn tay ta có cảm giác mát và mịn màng. Bút để viết phải chọn loại bút tốt, mực xuống đều, không nhiều quá và cũng không ít quá. Chọn loại bút thon, vừa với bàn tay cầm của học sinh lớp hai. Nếu bút to quá học sinh sẽ khó điều khiển bút trong khi viết và làm cho các em dễ mỏi tay. Các em viết được ít dòng đầu sau đó sẽ viết cẩu thả hơn. Bảng con phải mua bảng có dòng kẻ rõ, mặt bảng không quá trơn để khi viết khỏi bị trượt.
2. Cơ sở vật chất
Thứ nhất là bàn học của học sinh cần phải vừa tầm, không quá cao hoặc quá thấp. Ghế khớp với độ cao của bàn. Mặt bàn bằng phẳng, nhẵn. Thứ hai là ánh sáng phải đầy đủ. Muốn vậy lớp học phải có cửa sổ rộng đúng theo tiêu chuẩn học đường, phải có điện thắp sáng khi cần thiết.
Khi dạy tập viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, vừa hỗ trợ vừa là phương tiện cho việc học môn tập viết của học sinh. Những đồ dùng này chính là mẫu để các em nhìn mà viết đúng mẫu. Bởi vì mẫu bao giờ cũng to và rõ ràng, dễ thấy.
b.Phần giảng dạy của giáo viên trên lớp.
Cơ bản là giáo viên tiểu học đã nắm được mẫu chữ viết. Tuy nhiên tỷ lệ giáo viên viết chữ đẹp chưa cao. Một số giáo viên khi viết còn tuỳ tiện, viết theo thói quen của mình. Việc chuẩn bị cho một tiết dạy tập viết trên lớp chưa chu đáo. Trong môn Tiếng Việt, đa số chưa thực sự coi trọng phân môn tập viết, chưa tạo sự hứng thú cho học sinh khi học, giáo án chưa thể hiện cụ thể khi phân tích nét. Chính vì thế khi dạy tập viết, yêu cầu đầu tiên là việc phân tích nét cần phải tỉ mỉ, rõ ràng. Khi phân tích chữ mẫu, phải phân tích từng nét, có thể giáo viên viết riêng các nét cấu tạo nên chữ để giới thiệu cho học sinh dễ nhận thấy. Sau đó nối các nét lại với nhau để tạo con chữ hoàn chỉnh.
Những đồ dùng trực quan nhà trường cấp là mẫu rất đẹp để học sinh nhìn chung con chữ nhưng cũng chưa đủ to và rõ các dòng kẻ để học sinh ngồi ở những dãy cuối lớp thấy, nên tôi còn làm thêm một số đồ dùng khác bằng bìa cứng, kẻ đậm từng dòng kẻ, phóng to từng nét chữ để học sinh quan sát dễ dàng hơn. Học sinh mới thấy được điểm đặt bút, điểm dừng bút…
Khi viết, chữ mẫu phải đúng và đẹp. Học sinh tiểu học nhất là những lớp đầu cấp bao giờ cũng coi mẫu của giáo viên là nhất. Chữ giáo viên như thế nào là chữ học trò như thế đó. Vì vậy giáo viên cần thận trọng khi viết mẫu. Trong khi hướng dẫn phân tích nét, nói đến nét nào, tôi đưa ngay nét đó, dùng que chỉ và giới thiệu tên nét. Sau đó cho học sinh nhắc lại tên các nét cấu tạo nên con chữ. Cuối cùng, giáo viên hỏi: Muốn viết được con chữ đó ta viết mấy nét, đó là những nét nào? Học sinh trả lời được là các em đã nắm được cấu tạo con chữ. Tiếp theo là hướng dẫn viết.
Giáo viên cho học sinh nêu điểm đặt bút đầu tiên, viết nét nào trước, nét nào sau
dừng bút ở đâu.VD: Dạy con chữ D viết hoa. Hỏi:
-Con chữ D viết hoa có độ cao mấy ô li ? ( 5 li )
-Chữ D hoa gồm có mấy nét ? ( 2 nét: nét lượn 2 đầu và nét cong phải)
-Đặt bút ở đâu? (đường kẻ 6)
-Viết nét nào trước ? (nét lượn hai đầu)
-Viết nét nào sau ? (nét cong phải)
Giáo viên giảng và vừa viết mẫu: Đặt bút trên đường kẻ 6, viết nét lượn hai đầu theo chiều dọc rồi chuyển hướng viết tiếp nét cong phải, tạo vòng xoắn nhỏ ở chân chữ, phần cuối nét cong lượn hẳn vào trong, dừng bút ở dòng kẻ 5.
Mặc dù học sinh đã học những nét cơ bản ở lớp Một, nhưng nếu viết các nét cơ bản không đúng thì dẫn đến việc viết xấu, viết sai là điều tất nhiên. Bởi vậy tôi luôn ôn lại nét cơ bản trong khi dạy tập viết.
c. Liên kết nét trong chữ ghi tiếng
-Để học sinh viết đúng, viết nhanh và viết đẹp, cần hướng dẫn quy trình viết chữ liền mạch, viết các con chữ theo thứ tự từ trái sang phải sau đó mới viết dấu phụ và dấu thanh. Để viết liền mạch thì việc liên kết nét là hết sức quan trọng. Các em phải có kỹ năng rê bút một cách thành thạo để nét chữ không bị run.
Học sinh thường viết chưa đẹp trong các trường hợp sau:
+Nối các con chữ viết thường khi không có nét liên kết.
VD: na, bà, xoa,…
+Chữ viết thường đứng sau chữ viết hoa.
VD: Xa xa, Trước,…
-Cách viết: Trong trường hợp như vậy các em cần tạo nét phụ, nối từ con chữ này với con chữ kia. Ngoài ra, cần chú ý viết dấu thanh. Dấu sắc, dấu huyền viết không dài quá. Dấu ngã, dấu hỏi viết nhỏ lại. Tất cả đều phải đặt đúng vị trí trên hoặc dưới âm chính. Phải chấn chỉnh ngay khi các em đặt dấu thanh tuỳ tiện.
4.Tư thế ngồi và cách cầm bút
Để giúp các em viết được các con chữ, chữ đúng mẫu , đẹp thì tư thế ngồi và cách cầm bút cũng không kém phần quan trọng. Ngồi phải thẳng lưng, đầu hơi cúi, ngực không tì vào bàn, khoảng cách giữa mắt và vở chừng 25 – 30 cm, không để người nghiêng một bên, (Giáo viên có thể đi từng bàn sửa cách ngồi và nêu tác hại của việc ngồi không đúng tư thế, những lần sau các em tự ngồi đúng tư thế.)
-Vở phải đặt hơi nghiêng về bên trái một góc nhỏ (Giáo viên hướng dẫn cho từng em).
-Cách cầm bút: Cầm bút bằng 3 ngón: ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải. Ngón trỏ đặt lên trên thân bút, ngón trái đặt lên bên trái của đầu ngón trỏ, ngón giữa đặt dưới bút, không cầm bút thấp quá hoặc cao quá, không cầm bút chặt quá hoặc lỏng quá sẽ dẫn đến khó khăn trong việc điều khiển bút, làm cho chữ viết xấu đi.
5. Rèn chữ viết thường xuyên trong các giờ học
Việc rèn chữ viết không phải chỉ riêng trong giờ tập viết mà chúng ta cần phải rèn thường xuyên trong khi học các môn học khác.
VD: Dạy chính tả, yêu cầu cơ bản là học sinh viết đúng chính tả. Nhưng viết đúng chính tả mà chữ viết lại không đúng độ cao, không đều nét thì tất nhiên bài viết sẽ không đạt điểm tối đa. Vì vậy trong tiết chính tả, viết bảng con hay viết vở tôi đều nhắc nhở các em viết đúng độ cao, đều nét. Từ đó tạo cho các em thói quen phải viết đúng. Ngoài ra còn phải hướng dẫn cách trình bày đúng bài văn xuôi hoặc bài thơ, bài viết mới vừa đúng và đẹp mắt. Bài nào viết chữ cẩu thả, tôi trừ điểm ngay để lần sau các em sẽ cố gắng hơn.
Đối với học sinh tiểu học nói chung, và học sinh lớp Hai nói riêng, ý thức tự giác của các em chưa cao, có chăng thì cũng một số rất ít em học sinh khá, giỏi. Vì thế trong khi viết bài, giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở các em viết đẹp, viết đúng, viết cẩn thận. Tuyệt đối khi đọc bài cho học sinh chép hoặc học sinh chép bài ở bảng, tôi luôn đi quanh lớp quan sát từng em để nhắc nhở các em viết cẩn thận, không nên ngồi một chỗ chấm bài hoặc làm việc khác. Giáo viên chỉ cần lơ đãng trong khoảng thời gian 2-3 phút, học sinh phát hiện ra cô giáo không để ý đến mình thì lúc đó các em sẽ viết cẩu thả, viết cho xong để ngồi chơi. Đó là tâm lý của học sinh tiểu học.
6. Luyện viết chữ đẹp vào cuối mỗi tuần
Những biện pháp nêu trên cũng chưa đủ để học sinh viết chữ đẹp. Ngoài những tiết học, vào cuối mỗi tuần, tôi dành khoảng 30 phút cho học sinh luyện viết chữ vào vở riêng. Có thể một đoạn của bài văn xuôi hoặc một đoạn thơ.
Cách viết: Giáo viên viết chữ thật chân phương, đẹp, ngay ngắn, đều nét, đúng độ cao ở bảng, học sinh nhìn bảng chép bài vào vở. Sau khi viết xong, tôi kiểm tra lại bài của từng em, chấm và chọn một số bài để tuyên dương, khen ngợi. Những em được khen sẽ rất thích và càng hứng thú hơn trong việc luyện viết chữ đẹp.
7.Chữ viết của giáo viên
Chữ viết của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết của học sinh. Học sinh tiểu học thường có thói quen bắt chước. Giáo viên viết đẹp thì học sinh viết đẹp, giáo viên viết cẩu thả, học sinh cũng bắt chước viết cẩu thả. Vì vậy, trong những tiết học trên lớp, mặc dù nội dung viết bảng của một số tiết hơi nhiều nhưng bản thân tôi cũng phải cố gắng viết chữ chân phương, đúng cỡ. Có như vậy thì việc rèn chữ viết cho học sinh của chúng ta mới có hiệu quả.
Có một lần tôi dạy tiết toán, khi học sinh đọc đề toán xong, một số em nêu tóm tắt bài toán. Do tôi viết nhanh cách tóm tắt của học sinh lên bảng nên chữ viết không được đẹp cho lắm. Đến khi viết đề tóm tắt vào vở và làm bài, nhìn quanh một lượt, tôi thấy hầu như các em viết chưa đẹp và có phần cẩu thả, không giống như những tiết học vừa rồi. Từ đó tôi mới nghiệm ra rằng: rõ ràng là học sinh cũng bắt chước cô giáo và đó cũng là bài học để sau này tôi có thêm một kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh.
8.Tổ chức thi viết chữ đẹp trong lớp
Cuối mỗi tuần tôi đều tổ chức thi viết chữ đẹp trong lớp. Tôi chọn một đoạn văn hoặc một đoạn thơ, ghi lên bảng, cho học sinh viết bài trong vòng khoảng 20 phút, sau đó chọn mỗi tổ một em viết đẹp nhất thi với nhau để chọn ra học sinh viết đẹp nhất lớp. (Chọn giải nhất ở tổ và giải nhất, nhì, ba ở lớp. Tất cả các giải đều có thưởng để khuyến khích học sinh.) Đối với những em chưa đạt giải nhưng có tiến bộ hơn lần trước, tôi đều thưởng cho các em để động viên khuyến khích các em. (Phần thưởng có thể là một viên phấn màu, một cây bút,…nhưng cũng đủ để cho các em cảm thấy ham thích luyện viết chữ đẹp.
9. Chấm điểm giữ vở rèn chữ
Cuối mỗi tuần tôi đều chấm điểm rèn chữ giữ vở để biết sự tiến bộ của từng em, để theo dõi và uốn nắn cho các em. Cách chấm: chấm toàn bộ các loại vở rồi xếp loại vào vở học.
VI. KẾT QUẢ
Sau ba tháng tôi thực hiện các biện pháp nêu trên một cách thường xuyên, Nếu so với đầu năm học, nhiều em viết quá xấu, không đúng dòng kẻ, không đúng độ cao, thì giờ đây tỉ lệ học sinh viết đúng, viết đẹp hơn trước khá cao. Không những vậy mà tốc độ viết cũng nhanh hơn.
Cụ thể:
– Nhiều em viết đẹp, sạch sẽ, đúng mẫu.
– Nhiều em viết đúng độ cao.
– Trước đây nhiều em viết chữ không ngay hàng, không đúng độ cao, nét chữ ngoệch ngoạc thì bây giờ các em đã tiến bộ hơn rất nhiều.
VII. KẾT LUẬN
Để việc rèn chữ viết cho học sinh lớp hai đạt hiệu quả thì giáo viên phải:
-Tận tâm, nhiệt tình trong mỗi tiết lên lớp.
-Thường xuyên rèn chữ viết mẫu để học sinh bắt chước.
-Những chữ nào học sinh hay viết sai, giáo viên chịu khó phân tích kĩ từng
nét, theo dõi, sửa sai cho từng em.
-Chuẩn bị đồ dùng dạy học trong giờ tập viết đầy đủ.
-Luôn tạo sự hứng thú cho học sinh trong khi luyện viết, thi viết chữ đẹp để các em ham thích và có sự cố gắng.
– Coi đây là việc làm thường xuyên.
– Tuyên dương, khen thưởng kịp thời đối với những em có cố gắng nhiều và tiến bộ rõ rệt trong quá trình luyện viết chữ.
VIII. ĐỀ NGHỊ
1.Bàn ghế học sinh ngồi phải đúng độ cao, kích cỡ.
2. Phòng học phải có đủ ánh sáng khi cần thiết.
Nội dung sáng kiến mà tôi đã nêu trên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp, bổ sung của tổ chuyên môn và ban giám hiệu nhà trường.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Kim
Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Bảo Vệ Bản Thân Cho Trẻ 5
1.1. Lí do chọn đề tài Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Như chúng ta đã biết, Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với con trẻ. Điều này đòi hỏi mỗi trẻ đều phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ chính bản thân mình. Ngay khi trẻ sinh ra, bố mẹ đã cố gắng tạo ra môi trường an toàn cho trẻ. Giai đoạn trẻ bước đi thành thạo và làm chủ được những hoạt động của mình: chạy, nhảy,.. việc hướng cho trẻ những việc an toàn và không an toàn bắt đầu hình thành. Theo thời gian, những kỹ năng ấy ngày càng nhiều thêm bởi tính tò mò và khả năng làm chủ hành động của trẻ. Bất cứ một sự vật nào hiện ra đều trở thành một đề tài thu hút đối với trẻ, đó được coi là cơ hội để mở rộng kiến thức nhưng đồng thời cũng có thể là mối nguy hại khôn lường đối với trẻ. Việc trang bị cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có thể an toàn hơn và tự tin hơn để khám phá cuộc sống muôn màu. Song trên thực tế hiện nay xã hội phát triển mạnh đồng nghĩa với việc trẻ em đứng trước nhiều mối nguy hiểm. Bởi vậy, cha mẹ thường sợ hãi tìm cách ngăn cấm con trước các rủi ro nhưng lại quên giải thích cho trẻ hiểu nguyên nhân và cách phòng vệ, hậu quả xảy ra. Điều này khiến trẻ dễ thành nạn nhân nếu như không được trang bị kiến thức tự bảo vệ bản thân. Mặt khác,Trẻ em luôn hiếu kỳ, tò mò và luôn muốn khám phá những điều mới lạ. Nhưng lại chưa có kỹ năng để thu thập thông tin, phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra với bản thân mình. Vì vậy, dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân giúp trẻ tư duy, phán đoán được những nguy hiểm có thể xảy ra và tìm các tránh xa. Hoặc trẻ tự vạch cho mình một khu vực đảm bảo an toàn để khám phá, tìm hiểu mọi thứ. Dạy trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có khả năng xử lí tình huống, biết lên tiếng kêu cứu và tìm đến những sự trợ giúp đúng khi cần. Trẻ được trang bị kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ tự tin hơn và làm chủ được cuộc sống của mình. Là một người giáo viên mầm non, bản thân nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục các kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ trước thực trạng xã hội hiện nay. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi” để nghiên cứu nhằm góp phần vào việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng bảo vệ cơ thể cho trẻ. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ cơ thể cho trẻ 5 – 6 tuổi. Nhằm góp phần vào việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp đó là: Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ 5- 6 tuổi lớp mình và qua các giờ dự hoạt động của đồng nghiệp. Phương pháp thu thập thông tin: Tôi thực hiện cuộc phỏng vấn với giáo Phương pháp thống kê, toán học: Từ nhưng thông tin và số liệu thu thập được, tôi thống kê, chọn lọc những thông tin, phân loại rồi tính toán đưa ra những kết quả xác thực nhất phục vụ cho việc nghiên cứu. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận Kỹ năng bảo vệ bản thân là gì? Kỹ năng bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự việc xung quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an toàn. Hiện nay, cả nước có trên 4,8 triệu trẻ em (theo số liệu của Bộ GD&ĐT) được chăm sóc, giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non (GDMN). Nhiệm vụ bảo vệ an toàn cả thể chất lẫn tinh thần cho trẻ nhỏ được cho là quan trọng hàng đầu, bên cạnh đó còn phải giáo dục trẻ biết cách bảo vệ bản thân trước những mối nguy hiểm ngoài xã hội. Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ… Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng này, trong đó việc thiếu kỹ năng bảo vệ bản thân là nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó, việc dạy kỹ năng bảo vệ bản thân (hay còn gọi là kỹ năng sống) cho trẻ là rất cần thiết. Kỹ năng bảo vệ bản thân là một trong những nhóm kỹ năng sống (KNS). Theo Bộ Giáo dục & Đào tạo, thống nhất quan điểm của UNICEF, kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống… Bên cạnh, trẻ em đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục KNS cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ năng sống thay đổi theo nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, trong quá trình dạy kỹ năng sống, phải xem xét các yếu tố văn hóa và xã hội có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hay lựa chọn hành động. KNS được học tốt nhất thông qua các hoạt động tích cực của trẻ, đối với trẻ mầm non, trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ. Để giáo dục KNS cho trẻ một cách hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng các biện pháp như: Làm gương, trải nghiệm, trò chơi, trò chuyện, đàm thoại… Giáo dục KNS cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham quan… Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những KNS cần thiết với cuộc sống của trẻ. KNS cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục KNS cho trẻ mầm non. Kỹ năng sống còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để có được KNS trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè. Những năm gần đây nhu cầu học kỹ năng sống, các chuẩn mực đạo đức của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc giáo dục con em mình. Tuy nhiên, về mặt lý luận, cũng như thực tế cho thấy, kết quả của giáo dục kỹ năng sống, phẩm chất nhân cách, đạo đức cho trẻ em cần sự phối hợp của nhiều yếu tố (gia đình, nhà trường, xã hội). Đã từ lâu vấn đề này đã được đặt ra và đến nay nó vẫn là câu hỏi lớn! Sự “bùng nổ” nhu cầu học kỹ năng sống của trẻ được các bậc phụ huynh rất quan tâm,và cũng là nổi trăn trở của bản thân. 2.2. Thực trạng. Năm học 2016 – 2017, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi, với tổng số 30 trẻ. Trẻ nam là 18; trẻ nữ là 12. Trong quá trình thực hiện tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 2.2.1. Thuận lợi. Nhà trường được công nhận trường đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 2. Trường đạt chuẩn quốc gia, có khuôn viên rộng, khang trang, sạch sẽ, có đầy đủ trang thiết bị, đồ chơi cho trẻ. Lớp học đủ diện tích, có các góc chơi, đồ chơi phong phú hấp dẫn trẻ. Số trẻ trên lớp: 30 trẻ. Trong đó trẻ nam: 18; Trẻ nữ: 12. Trẻ đi học chuyên cần, tỷ lệ bé ngoan cao, hầu hết trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn thích tham gia hoạt động góc. Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, có năng lực có trình độ chuyên môn trên chuẩn, luôn cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện và tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ. 2.2.2. Khó khăn. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên tôi đã gặp những khó khăn đó là: Trẻ 5 – 6 tuổi là độ tuổi hiếu động, khả năng tiếp nhận tiếp nhận thông tin nhanh, vì vậy trẻ dễ và nhanh tiếp nhận những kỹ năng xã hội không tốt. Hầu hết trẻ có cha mẹ làm nghề nông và công nhân nên thời gian dành chăm sóc con chưa nhiều. Một số trẻ khi ở nhà được bố mẹ nuông chiều và chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ nên các kĩ năng bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm của trẻ còn hạn chế. Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động ít giao lưu trong các hoạt động. Trong lớp có trẻ còn nói ngọng, nói lắp, rối loạn hành vi, khả năng kiềm chế hành vi, cảm xúc kém. Từ khó khăn, thuận lợi nêu trên, trước khi áp dụng các biện pháp mới tôi đã tiến hành khảo sát thực tế các kỹ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi như sau: Bảng 1: Kết quả khảo các kỹ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi (Thời điểm tháng 9 năm 2016) TT Nội dung đánh giá Kết quả Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % 1 Kỹ năng an toàn khi chơi 20 67 10 33 2 Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể 15 50 15 50 3 Kỹ năng ứng xử khi bị lạc 16 53 12 47 4 Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông 16 53 14 47 Qua kết quả khảo sát, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp tốt nhất để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ. 2.3. Biện pháp. 2.3.1. Giáo viên xác định được những kỹ năng bảo vệ bản thân cơ bản cần giáo dục cho trẻ 5 – 6 tuổi. Đối với tâm sinh lý trẻ em 5 – 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu và thực trạng xã hội hiện nay cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: Kỹ năng an toàn khi chơi; Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể; Kỹ năng ứng xử khi bị lạc; Kỹ năng an toàn khi tham giao giao thông. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp bản thân tôi cũng như các giáo viên khác lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ . 2.3.2. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động học. + Kỹ năng an toàn khi chơi. Ví dụ: Trong giờ “làm quen đồ dùng, đồ chơi trong gia đình” sau khi cho trẻ làm quen, nhận biết các đồ dùng, đồ chơi như: phích nước, ổ điện, bếp ga, đồ dùng nhà bếp, cầu thang…; đồ chơi của bé trong gia đình: ô tô, máy bay, sách, ở, bút, tranh ảnh…. của trẻ tôi sẽ cho trẻ chơi trò chơi “Phân loại đồ dùng nguy hiểm, không nguy hiểm đối với trẻ”. Ví dụ: Chủ đề trường mầm non Hoạt động “Làm quen đồ dùng, đồ chơi trong trường mầm non”. Tôi cũng cho trẻ tìm hiểu, làm quen với các đồ dùng, đồ chơi trong lớp, ngoài trời. Sau đó cho trẻ chơi trò chơi phân loại đồ dùng, đồ chơi bé được chơi và không được chơi. Ví dụ: Hoạt động ngoài trời, trước khi trò chơi tự do trên sân trường giáo viên cần phải nhắc nhở trẻ nên chơi như thế nào cho an toàn. Ngoài ra, trong lớp tôi treo những bức tranh có nội dung giáo dục trẻ nên chơi ở chỗ nào, không nên chơi ở chỗ nào, không đụng vào các ổ điện, quạt trong lớp học và cũng như ở trong gia đinh trẻ. + Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể Ở Việt Nam, vấn đề cho con tìm hiểu về vấn đề này chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề khá nhức nhối trong xã hội hiện nay. Để đảm bảo cho trẻ có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể, giáo viên cần trang bị cho con những kiến thức cần thiết. Giáo viên hãy giúp con hiểu được thế nào là hành động xâm phạm thân thể, nếu bị xâm hại cơ thể các con nên ứng xử ra sao. Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” tôi lồng ghép trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ thể bé, giáo dục trẻ những bộ phận không được ai đụng đến ngoài bố mẹ, bà, dì và y tá hay bác sỹ khám bệnh cho trẻ khi có bố mẹ ở đấy. * Nếu một đứa trẻ bị ai đó chạm vào vùng kín một cách không phù hợp, bé có thể kể cho một người lớn đáng tin cậy của bé một cách chính xác. Từ đó, người lớn sẽ quan tâm và có biện pháp ngăn ngừa kịp thời. * Nếu một đứa trẻ nói với kẻ có ý định xấu: “Dừng lại ngay! Không được chạm vào âm đạo của tôi”, kẻ đó biết rằng bé đã được trang bị kiến thức về an toàn cơ thể. Một đứa trẻ như thế sẽ ít có nguy cơ trở thành mục tiêu của những kẻ xâm hại. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ chuẩn xác gọi tên “các bộ phận riêng tư” sẽ giúp bảo vệ các em khỏi nạn xâm hại trẻ em. * Gọi tên chuẩn xác các bộ phận riêng tư trên cơ thể ngay từ đầu giúp bố mẹ dễ dàng giải thích cho trẻ hiểu sự thay đổi trên cơ thể chúng khi bước vào giai đoạn dậy thì. Sẽ không có sự e ngại hay lúng túng nào nữa. * Nếu bộ phận sinh dục của trẻ bị tổn thương hay xuất hiện dấu hiệu bệnh nào đó, sẽ dễ dàng hơn để trẻ mô tả triệu chứng cho giáo viên, người thân hoặc bác sĩ khi biết dùng thuật ngữ chính xác. * Nói tránh, gọi tên vùng kín bằng tên gọi khác dễ khiến trẻ suy nghĩ rằng có cái gì đó xấu xa đối với các bộ phận riêng tư đó…. Việc này có thể ẩn chứa hiểm họa vì chúng dẫn trẻ tới việc tin rằng, chúng phải giữ kín bất cứ động chạm thiếu phù hợp nào vào vùng kín của mình. Tranh: Minh họa các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể trẻ. Ngoài ra, giáo viên cần phải dạy trẻ học cách tự bảo vệ bản thân theo “Quy tắc 5 ngón tay” vô cùng đơn giản và dễ thuộc. Ngón cái - gần mình nhất – tượng trưng cho những người thân ruột thịt trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột. Bé có thể ôm hôn những người này hoặc đồng ý đề các thành viên trong nhà ôm hôn, thể hiện tình yêu thương, tắm rửa khi bé còn nhỏ. Nhưng khi đã lớn, bé sẽ tự tắm và thay quần áo trong phòng kín. Ngón trỏ - tượng trưng cho thầy cô, bạn bè ở trường lớp hoặc họ hàng của gia đình. Những người này có thể nắm tay, khoác vai hoặc chơi đùa. Song chỉ dừng lại ở đó. Còn nếu ai chạm vào “vùng đồ bơi”, bé sẽ hét to và gọi mẹ. Ngón giữa - người quen biết nhưng ít khi gặp như hàng xóm, bạn bè của cha mẹ. Những người này, bé chỉ nên bắt tay, cười và chào hỏi. Ngón áp út – người quen của gia đình mà bé mới gặp lần đầu. Với những người này, bé chỉ nên dừng lại ở mức vẫy tay chào. Ngón út - ngón tay xa bé nhất – thể hiện cho những người hoàn toàn xa lạ hoặc người có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an.Với những người này, bé hoàn toàn có thể bỏ chạy, hét to để thông báo với mọi người xung quanh. + Kỹ năng ứng xử khi bị lạc Dạy trẻ biết tự bảo vệ mình cực kỳ quan trọng nên phải bắt tay ngay, thực hiện luôn từ khi trẻ con nhỏ, chứ không phải thụ động đến khi mọi sự xảy ra rồi mới lo lắng cuống cuồng. Để dạy được trẻ, cần kiên nhẫn từng ngày, rất kỳ công chứ không chỉ là dặn dò suông. Tạo tình huống, giáo viên và trẻ cùng trao đổi: *Không đi theo người lạ: + Đặt vấn đề: Nếu những người không quen biết nói đưa con đi mua kẹo bánh, bim bim, đồ chơi hay đưa con về nhàthì con sẽ làm gì? + Kỹ năng bé cần biết: Nói “không” với người lạ mặt. Người lạ mặt cố nài ép, dụ giỗ con thì con cần đến chỗ chú bảo vệ, chú công an, ghé vào đồn công an gần nhất hoặc chạy vào một cửa hàng ở gần đó nhờ giúp đỡ. Khi đang ở ngoài chỗ đông người mà bị ép đi theo, con hãy hô thật lớn, kẻ xấu sẽ tự đi. *Bị lạc + Đặt vấn đề: Khi đang đi chơi tại trung tâm thương mại, công viên, hay đi mua sắm, con bị lạc bố mẹ thì con sẽ làm gì? + Kỹ năng bé cần biết: Nếu vừa bị lạc bố mẹ khi đang mua sắm hoặc vui chơi thì con hãy đứng yên một chỗ, nơi mà bố mẹ con dễ dàng nhìn thấy, không chạy lung tung. Nhờ một người bên cạnh liên lạc vào số di động, điện thoại bànBất kỳ số nào mà con có thể nhớ. Nếu bị lạc bố mẹ từ lúc nào mà con cũng không biết thì con cần hỏi người xung quanh và tìm đến các phòng trung tâm của khu thương mại, công viênđể nhờ họ đọc loa tìm bố mẹ. Khi con bị lạc trên đường, nếu có thể, hãy tìm đến sự giúp đỡ của một chú công an và đến đồn cảnh sát để bố mẹ có thể tìm thấy con. * Không nhận bất cứ cái gì từ người lạ + Đặt vấn đề: Có người lạ đến cho con ăn kẹo, bánh, uống sữa hay đồ chơicon sẽ làm gì? + Kỹ năng bé cần biết: Tuyệt đối không được nhận/cầm/ăn. Không tiếp tục đứng gần, nói chuyện hay tiếp xúc với người đó nữa, hãy đi ra chỗ người thân, bạn bè, chỗ đông người Kể cho bố mẹ, người thân đang ở bên cạnh ngay. *Dạy trẻ thuộc số điện thoại của bố (mẹ) hoặc cả hai. Điều đầu tiên là giáo viên cần có số điện thoại của cha mẹ trẻ, đánh số điện thoại đó và dán vào cánh cửa tủ cá nhân của trẻ. Trong hoạt động làm quen chữ số hoặc ôn các chữ số đã học, giáo viên cho trẻ tìm những chữ số đó có trong số điện thoại của cha mẹ trẻ không, tiếp theo cho trẻ tự tìm hiểu xem số nào đứng trước, tiếp đến số nào. Có thể có những chữ số chưa được làm quen thì giáo viên cần giới thiệu cho trẻ biết. Như vậy, để dạy trẻ những kỹ năng ứng xử khi bị lạc giáo viên cần phải thường xuyên tạo tình huống cho trẻ được tham gia, trải nghiệm. + Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông Đây là một kỹ năng quan trọng đối với trẻ khi tham gia vào xã hội. Giáo viên nên giúp trẻ hiểu được một số loại biển báo cơ bản, một số loại đường cơ bản, một số người có vai trò trong việc điều hành giao thông, cách sang đường cũng như cách đi qua các ngã ba, ngã tư. Ví dụ: Chủ đề “Giao thông” Khi dạy bài “Luật lệ giao thông” cô nhấn mạnh cho trẻ biết đâu là vỉa hè, đâu là lòng đường, người đi bộ phải đi trên vỉa hè, người đi xe phải đi dưới lòng đường. Khi đến ngã tư người đi bộ phải qua đường đúng làn đường quy định. Khi qua ngã tư có tín hiệu đèn đỏ thì dừng lại, tín hiệu đèn xanh thì mới được qua đường. Khi dạy bài “Phương tiện giao thông” giáo viên cần dạy trẻ biết cách để an toàn khi đi trên các phương tiện giao thông như: Phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, khi đi xe ô tô không được đưa tay thò đầu ra ngoài cửa sổ, phải đợi xe dừng hẳn mới lên hoặc xuống xe, không đùa nghịch dưới lòng, lề đường. Nếu được đi máy bay phải thắt dây an toàn và chú ý làm theo hướng dẫn của nhân viên trên máy bay, khi đi tàu thuyền phải mặc áo phao cứu hộ. Ví dụ: Làm quen bài thơ “Cháu dắt tay ông”, truyện “Qua đường” Trong bài thơ, truyện muốn giáo dục trẻ khi đi qua ngã tư đường phố, qua bài thơ, câu truyện này giáo viên có thể cho trẻ chơi trò chơi “ngã tư đường phố”
Một Số Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt Ở Trường Thpt Hồng Quang
Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới, mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo hơn. Trong nhà trường, các tổ chức đoàn thể cũng có nhận thức đúng về tầm quan trọng của đạo đức và công tác giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo như: Số học sinh học giỏi, khá, học sinh có hạnh kiểm tốt, khá ngày càng nâng lên, đã góp phần tạo nên những thành quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Ngành: “Nâng cao dân trí – Đào tạo nhân lực – Bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, đây đó, còn có những hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động xấu trực tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có lúc, có nơi đã xâm nhập vào trong trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, thậm chí đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, rượu chè bê tha, cờ bạc, có lối sống tha hóa, buông thả, số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách, tác động xấu tới các giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục đạo đức học sinh, đến an ninh trật tự xã hội, gây nỗi đau, và là vấn đề đáng lo ngại cho các bậc cha mẹ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nhân dân ta cũng có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” Các câu nói trên đều khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của phẩm chất đạo đức trong sự nhìn nhận, đánh giá, sự tồn tại và phát triển của mỗi người nói riêng và xã hội nói chung. Mục tiêu cơ bản của giáo dục là xây dựng một thế hệ trẻ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn cao, có thể chất cường tráng, có tâm hồn trong sáng lành mạnh, có khả năng thích ứng và kỹ năng sống cao. Bởi vậy, bất kỳ cơ sở giáo dục nào cũng rất quan tâm về giáo dục hạnh kiểm cho học sinh.
Ở nước ta, sự nghiệp giáo dục đào tạo đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt (HSCB). Vấn đề này đã trở thành mối quan ngại của dư luận, nhất là với gia đình và nhà trường.
HSCB, trường nào cũng có. HSCB không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là thế lực đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường.
Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó có trường THPT Hồng Quang- Lục Yên- Yên Bái.
sinh cá biệt tại lớp chủ nhiệm. 3. Một số biện pháp giáo dục HSCB trong nhà trường. 3.1. Đối với GVCN lớp có học sinh cá biệt. - Bản thân người GVCN phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của mình. Người GVCN hơn ai hết cần phải có trí tuệ, có lương tâm, có uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín. - Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm vì cuộc sống nội tâm của học sinh ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi do các quá trình tâm lý chưa ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống .... - Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương học sinh và luôn luôn xác định phương châm "Vì sự nghiệp trăm năm trồng người" và "Tất cả vì học sinh thân yêu". - Biết tự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức của người kỹ sư tâm hồn. - Có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục HSCB, chúng ta cần làm những việc như là: + Xác định đúng đối tượng thông qua phản ảnh của lớp, của GV bộ môn và của dư luận. + Phân loại: Học sinh cá biệt về học tập hay học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống + Tìm hiểu nguyên nhân. Tìm hiểu sở trường, tính cách, hoàn cảnh của HS. Chúng ta nên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh đó như: thu nhập hàng ngày của gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như thế nào? Có êm ấm hạnh phúc hay không? Có nhiều ý kiến bất đồng hay không... mục đích là để hiểu rõ học sinh này. + Lựa chọn phương pháp, lên kế hoạch thực hiện mục tiêu giúp HS từ cá biệt trở về bình thường thậm chí là tốt. + Thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm. 3.1.1. Những điều nên tránh - Không cô lập học sinh cá biệt đối với tập thể. - Không xúc phạm và làm tổn thương danh dự của học sinh trước tập thể.Một lời nói cũng cần phải thận trọng. - Không quá khắt khe xử lý mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật nặng nề, đe dọa, thành kiến. Không dùng lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, nói như một nhà sư phạm "không cần dùng búa để mổ một con gà". - Một điều tối kỵ đối với học sinh cá biệt, đó là không được đánh học sinh- dù chỉ là một cái tát tay. Bởi theo lời giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, thì "Quả đấm không phải là khoa học". - Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh cá biệt. Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của học sinh- dù nhỏ cũng đáng trân trọng và phải ghi nhận. 3.1.2. Những điều nên làm 3.1.2.1. Dùng tình cảm để cảm hóa các em Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo... Để hiểu học sinh "cá biệt", trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng "thuật ngữ" của các em. Đó là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận thức... Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông". Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, nhưng không nên xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì chúng ta hãy tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Còn đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì ta không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ, cũng cần xử lí trên cơ sở giáo dục các em, để các em biết nhận lỗi và tạo những việc làm cụ thể, giao cho em đó thời gian thử thách, cho em đó có cơ hội chuộc lỗi, làm một việc tốt. 3.1.2.2. Kiên trì tạo niềm tin Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em! Để điều hành được học sinh "cá biệt", người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi. Từ cảm giác được thầy cô không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên và tặng trái tim, ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng đối với tập thể lớp, từng bước hòa mình vào tập thể, góp phần đưa tập thể lớp tyheem nhiều tiến bộ. Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng khiến cho học sinh sẽ có tâm lý bất cần "Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta". Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, thầy cô sẵn sàng khích lệ, động viên mình khi mình gặp khó khăn trong gia đình, cuộc sống cũng như những bế tắc trong học tập. GVCN cần giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn ban đầu là phải thức dậy sớm hơn một chút để không phải đi học muộn, mình học yếu thì nên chịu khó, chăm chỉ làm bài tập hơn các bạn. Khi học, nếu mệt hoặc không thấy vào đầu thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi học tiếp, không nên cố gắng quá sức. Như vậy, giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà. 3.1.2.3. Biết chấp nhận và yêu thương Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ trong hồi ức "Người thầy" đã kể: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy được xem là "bãi rác" cho những học sinh không đủ trình độ vào trường trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học sinh lên tiếng: "Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?". Frank McCourt nói ông cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức và luân lý, mà không có cách giải quyết tình huống... "ném bánh mì". Cuối cùng, ông quyết định... ăn chiếc bánh. Ông viết: "Đó là hành xử đầu tiên của tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố mắt nhìn tôi đầy nét thán phục... Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...". 3.1.2.4. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình Giáo dục HSCB còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau "mới" hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình. Thầy, cô biết "cuốn" học sinh vào trò chơi học tập, việc làm đó sẽ "lấp đầy" khoảng thời gian "chết", trò không "nhàn cư" nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin ngay trong tiết học. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những yêu cầu về bài tập ở nhà. Hoặc trả lời tỉ mỉ, cụ thể những câu hỏi hay những thắc mắc của các em, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khinh rẻ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình, Cả thầy cô giáo cũng ghét mình, coi mình là người thừa trong tập thể lớp. Giáo dục HSCB là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán giả- tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một "món ăn", nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn- bỏ học. 3.1.2.5. Phải biết tác động vào động cơ học tập Tác động vào động cơ học tập để các em thấy rõ tầm quan trọng của việc học. Có thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học- chỉ mới mấy tuổi đầu không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Ngược lại những em có học thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng tiến thân, bạn bè ngưỡng mộ phải trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở mặt. 3.1.2.6. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của HS. Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích. Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để "đất" cho các em thể hiện tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt. 3.1.2.7. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội. Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ HS. Tổ chức các buổi ngoại khóa tuyên truyền giáo dục học sinh trong các giờ sinh hoạt lớp hoặc các giờ học tự chọn. Thường xuyên thăm gia đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, HS và PHHS. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình. 3.2. Đối với giáo viên bộ môn Mỗi một giáo viên bộ môn, hãy cố gắng dạy tốt môn học của mình, hãy chú ý đến mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh yếu, kém, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn để tận tình giúp đỡ các em, giúp cho các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mà mình đã truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng tiết dạy, chú ý ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả để kích thích sự ham học, hứng thú của học sinh đối với tiết học, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn học như: Văn học, Lịch sử, Địa lý, Sinh học và đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất, đạo đức, về quyền và nghĩa vụ công dân, sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và thực hiện những hành vi đúng đắn phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. 3.3. Đối với Đoàn thanh niên Tăng cường công tác quản lý nề nếp học sinh trong các buổi đầu giờ, giữa giờ và tan ca. Có mặt ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm có thể xảy ra đối với học sinh. Thành lập các đội Thanh niên cờ đỏ nhằm đôn đốc nhắc nhở các trường hợp hoạc sinh vi phạm, theo dõi các lượt vi phạm của học sinh các lớp trừ điểm, đánh vào thi đua Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt tập thể, các hoạt động phong trào nhân dịp chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Từ đó, lôi kéo các em tham gia để các em nhận thấy"Mỗi ngày đến trường là một ngày vui" từ đó tạo niềm hứng khởi cho các em trong hoạt động và học tập. 3.4. Đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh Cần quan tâm thường xuyên đến việc học tập của con cái cả ở trường và ở nhà. Thường xuyên giữ mối lien lạc với GVCN hoặc qua các kênh thong tin để nắm tình hình học tập của con, từ đó có biện pháp nhắc nhở, uốn nắn, xử lý cho kịp thời, phù hợp. Có thể thấy, việc giáo dục HSCB không phải chỉ là trách nhiệm của một người mà cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 4. Hiệu quả của SKKN Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên trong công tác chủ nhiệm (Từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015) tôi đã thu được nhiều kết quả đáng mừng từ công tác chủ nhiệm: - Tập thể lớp liên tục đạt được tuần học tốt, xếp thứ 1,2,3 trong khối đại trà. - Được tuyên dương và nhận thưởng trong các đợt tổng kết phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn trong năm do Đoàn Thanh niên và Nhà trường phát động. - Đạt giải trong Hội chợ Ẩm thực chào mừng ngày Thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, làm tập san chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11. - Nhiều em tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao. Trong đó có cả những HSCB. - Trong số các học sinh cá biệt, đã có nhiều em vươn lên đạt nhiều thành tích trong học tập và rèn luyện. Có em đã đạt học sinh tiên tiến và mạnh dạn đăng ký tham gia ôn đội tuyển HSG. - Tập thể lớp không còn hiện tượng học sinh đi học muôn, vi phạm các nội quy của nhà trường, của Đoàn thanh niên và của tập thể lớp đề ra. - Không còn hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức, tham gia đánh nhau, không có học sinh bị ra Hội đồng kỷ luật của nhà trường. Kết quả cụ thể như sau: * Kết quả đối chứng: Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Học kỳ I- Năm học 2013- 2014: SL Học lực Hạnh kiểm Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 39 9 23 27 69,2 3 7,8 18 46,1 17 43,5 3 7,8 1 2,6 * Kết quả thể nghiệm: Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Năm học 2013- 2014. SL Học lực Hạnh kiểm Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 39 10 25,6 28 71,8 1 2,6 20 51,3 17 43,5 2 5,3 0 0 Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 11A4- Học kỳ I- Năm học 2014- 2015. SL Học lực Hạnh kiểm Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 38 12 31,6 24 63,2 2 5,2 18 47,4 19 50 1 2,6 0 0 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía phụ huynh, gia đình. Có thể nói, giáo dục đạo đức cho học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể nên phải đảm bảo chặt chẽ của quy trình quản lý giáo dục. Quy trình giáodục đạo đức học sinh là một quy trình mang tính toàn vẹn và thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá kết quả. Tuy rằng mỗi chức năng có vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen và bổ sung cho nhau; thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo cơ sở, điều kiện cho các chức năng tiếp theo. Để thực hiện hiệu quả công tác giáo dục đạo đức học sinh thì bên cạnh việc xây dựng những nội quy kỷ luật học sinh, cần phải xây dựng nội quy kỷ luật lao động của giáo viên, cần tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực trong nhà trường, giáo viên có quan hệ đồng nghiệp thân thiết, tương trợ, đoàn kết lẫn nhau, có môi trường sống lành mạnh, sự mẫu mực trong sinh hoạt, lối sống của giáo viên sẽ là tấm gương soi sáng và có tác dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh. Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn khi toàn Đảng, toàn dân ta đang tích cực tham gia cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh". Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Giáo dục đạo đức học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà trường có vai trò định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử, là vinh dự và trách nhiệm mà xã hội giao cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành giáo dục và đào tạo nói chung. KIẾN NGHỊ Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi có hiệu quả tôi xin có một vài ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau: Thứ nhất, về phía Nhà trường: - Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện, xây dựng CSVC, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy " Mỗi ngày đến trường là một ngày vui". - Xây dựng chuyên đề về giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường. - Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường. - Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lí hiệu quả nhất. Thứ hai, về phía Giáo viên chủ nhiệm: - Cần thực hiện hết chức năng và nhiệm vụ của mình. - Phải có lòng vị tha và hết lòng yêu thương học sinh như người cha đối với con cái. Cố gắng xây dựng tập thể lớp tự quản tốt. Thứ ba, về phía Đoàn thanh niên: cần phát động nhiều phong trào để thu hút học sinh tham gia và phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Thứ tư, về phía Gia đình học sinh: - Cha mẹ, ông bà nên sống mẫu mực để làm gương cho con cháu. - Cha mẹ, ông bà cần phải quan tâm đến con cháu nhiều hơn từ tâm tư, nguyện vọng đến việc học và hãy bỏ tư tưởng phó mặc con mình cho nhà trường. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình TCLLCT-HC. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc cáckhóa VIII, XI. 3. Tài liệu bồi dưỡng công tác chủ nhiệm trường trung học, tác giả chúng tôi Thị Tố Oanh, trường Cán bộ quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh- năm 2012. 4. Hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT của Sở giáo dục và đào tạo Yên Bái. 5. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trunghọc phổ thông có nhiều cấp học. 6. Thông tư số: 08/TT ngày 21/03/1988 của Bộ giáo dục hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh. 7. Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT, thông tư ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông. ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊNBạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Toàn Diện Trong Trương Tiểu Học trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!