Xem Nhiều 3/2023 #️ Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành # Top 10 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG QUA TRÒ CHƠI CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS LUẬN THÀNH Người thực hiện: Nguyễn Thị Oanh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Luận Thành SKKN thuộc lĩnh vực: Giáo dục kỹ năng sống THANH HÓA NĂM 2019 MỤC LỤC Mục Tên đề mục Trang 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung 2 2.1 Cơ sở lí luận 2-3 2.2 Thực trạng vấn đề 3-4 2.3 Giải pháp thực hiện 4-12 2.4 Hiệu quả của sáng kiến 12-14 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14-15 3.2 Kiến nghị 15 16 Tài liệu tham khảo 16 17 Phụ lục 1. Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Rèn luyện kỹ năng sống(KNS) cho học sinh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của cà thế hệ trẻ. Chính vì vậy, học sinh, đặc biệt là lứa tuổi học sinh THCS cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng phát triển cá nhân một cách tốt nhất. Nội dung giáo dục KNS trong trường học lần đầu tiên được Bộ GD&ĐT  nhắc đến trong năm học 2008 – 2009 với chủ trương xây dựng “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Từ đó, việc giáo dục KNS đã được quan tâm sớm hơn một bước và đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động giáo dục trong Nhà trường nhằm hướng đến giáo dục toàn diện cho học sinh, giúp các em rèn luyện KNS vững vàng trong cuộc sống.  Hiện nay xã hội càng ngày càng phát triển, kéo theo đó là nhiều tệ nạn xã hội, học sinh lại đang rất thiếu hụt kỹ năng sống, đặc biệt là trẻ em thuộc khu vực miền núi khó khăn như xã Luận Thành. Sự thiếu hụt này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như tai nạn thương tích ở trẻ em (đuối nước, tai nạn giao thông, điện giật, bỏng, ngộ độc, động vật cắn…), bạo lực học đường, trẻ em nữ bị xâm hại tình dục Học sinh THCS đang non nớt, kinh nghiệm sống chưa có, suy nghĩ và hành động thường bột phát, bốc đồng, nếu không có kỹ năng sống thì khó có khả năng ứng phó và giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và học tập, từ đó dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Xã Luận Thành là một xã nằm ở trung tâm phía Nam của huyện, có đường Hồ Chí Minh chạy qua nên đời sống kinh tế tương đối phát triển. Gia đình học sinh có quan tâm đến việc học của con em nhưng vì lo phát triển kinh tế nên không dành nhiều thời gian và điều kiện giáo dục, quản lý con cái, thậm chí phó mặc cho Nhà trường. Nhà trường THCS Luận Thành đã tổ chức một số hoạt động giáo dục KNS cho HS nhưng do nhiều hoạt động chuyên môn, số lượng học sinh đông, kinh phí eo hẹp không thể thường xuyên tổ chức được. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ dựa chủ yếu vào việc lồng ghép vào hoạt động giáo dục và các tiết học trên lớp nhưng thời gian gò bó, các hình thức giáo dục chưa phong phú nên hiệu quả chưa cao. Trong những năm gần đây, nhận thấy một bộ phận không nhỏ học sinh kỹ năng giao tiếp kém, nhiều học sinh có ý định bỏ học, ham chơi đua đòi, không chú tâm vào việc học, hay vi phạm ATGT, dễ bị tai nạn rủi ro do thiếu hụt KNS và thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đinh. Trước tình hình đó, cần đưa ra các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh làm sao tiết kiệm được thời gian, kinh phí, thu hút được học sinh mà vẫn có thể linh hoạt sử dụng trong bất cứ hoạt động giáo dục nào. Và giáo dục KNS qua trò chơi là một lựa chọn tối ưu vì đây là hình thức giáo dục gây hứng thú mạnh mẽ cho học sinh. Các em vừa học, vừa chơi nhưng vẫn bổ ích, thiết thực. Từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Luận Thành qua một số trò chơi” để thực hiện. Với đề tài này, tôi mong muốn tạo thêm sân chơi bổ ích cho học sinh, góp phần tăng cường giáo dục KNS cho các em, giúp ích cho các em trong quá trình học tập và sinh sống. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Từ tình hình thực tế việc giáo dục KNS tại đơn vị, tôi đưa ra một số giải pháp rèn luyện, giáo dục KNS cho học sinh, giúp các em biết vận dụng nó để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, trong học tập một cách hiệu quả, giúp các em phát triển một cách toàn diện Góp phần đa dạng hóa hình thức giáo dục KNS cho học sinh tại đơn vị, tiết kiệm thời gian, kinh phí, nâng cao hiệu quả giáo dục KNS nói riêng, giáo dục học sinh trong Nhà trường nói chung. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về một số biện pháp rèn luyện KNS thông qua các trò chơi tập thể cho học sinh trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục của Nhà trường. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Giáo dục KNS cho học sinh có rất nhiều phương pháp. Nhưng đề tài chỉ dừng lại ở việc rèn luyện KNS cho học sinh qua trò chơi tại đơn vị nên chỉ sử dụng một số phương pháp như: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu: Các văn bản của ngành về giáo dục KNS cho HS, các tài liệu về giáo dục KNS để làm căn cứ thực hiện đề tài. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Sử dụng phương pháp này để tìm hiểu lí do học sinh thiếu KNS, số lượng và lí do học sinh hay vi phạm các nội quy, thiếu tự tin, chán học, hay chống đối, có hành động, suy nghĩ cực đoan + Phương pháp thống kê: Sử dụng PP này để nắm được tỉ lệ có KNS của học sinh khi thực hiện khảo sát thực tế trước và sau khi thực hiện đề tài. + Phương pháp thực hành: Sử dụng phương pháp này trong quá trình rèn luyện kĩ năng cho HS, qua việc khảo sát kết quả việc thực hiện đề tài. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận Trong môi trường không ngừng biến động con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội, trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột. [1 ] Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành quan tâm chủ yếu tới cung cấp kiến thức cho học sinh. Chương trình như vậy được xây dựng theo hướng tiếp cận nội dung dạy học, khác với một chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực, tức là xuất phát từ các năng lực mà mỗi học sinh cần có trong cuộc sống và kết quả cuối cùng phải đạt các năng lực ấy bằng việc xây dựng chuẩn đầu ra về năng lực mà học sinh cần phải đạt được sau một quá trình dạy – học. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu học sinh học xong phải thể hiện được, làm được; biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống, … Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng. Theo đó, nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá đều phải hướng tới năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập, trong cuộc sống; coi trọng rèn luyện kỹ năng sống. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một số hoạt động hướng tới việc rèn luyện năng lực cho học sinh như: Tổ chức Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA với cách đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống; tổ chức cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễnỞ Việt Nam, với Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục KNS vào trường học cùng với các môn học và các hoạt động giáo dục.[ 2] Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục KNS với các hoạt động giáo dục vốn đã được lồng ghép vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi trường, phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên, tạo nhiều cơ hội và điều kiện để triển khai giáo dục KNS. 2.2 Thực trạng vấn đề 2.2.1. Thuận lợi Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông; hướng dẫn tích hợp giáo dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học phổ thông nên cán bộ quản lý và giáo viên trong trường đã nắm được cơ bản việc giáo dục KNS cho học sinh. Một số hoạt động giáo dục KNS đã được Nhà trường chú ý thực hiện trong khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Giáo dục KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh. Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện trong một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và các hoạt động trải nghiệm. Việc giáo dục KNS cho HS trong Nhà trường được sự quan tâm và hỗ trợ của tổ chức “Tầm nhìn thế giới” nói chung và CT PTV Thường Xuân nói riêng. 2.2.2. Khó khăn, hạn chế Khi thực hiện giáo dục KNS, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,). Tổ chức giáo dục KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,…) cho nên thiếu cơ sở vật chất, kinh phí để thực hiện. Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh chưa được nhận thức một cách đúng mức trong ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục KNS, còn ngại suy nghĩ, đổi mới trong phương pháp giáo dục học sinh. Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà không hoặc ít quan tâm giáo dục KNS cho học sinh. Mặt khác thời lượng tiết học là 45 phút rất nhanh nên giáo viên không có đủ thời gian lồng ghép giáo dục cho học sinh. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến giáo dục con em, còn phó mặc cho Nhà trường. Ngoài ra, việc rèn luyện kĩ năng mềm cần tiến hành thông qua những hoạt động tích cực thực tiễn, trong khi nhiều học sinh vẫn quen với lối học thụ động. Học sinh của trường đa số xuất thân từ nông thôn nên khả năng thích ứng với xã hội hiện đại của các em còn yếu, các hiểu biết về kĩ năng mềm ở các em hầu như là chưa có. Số lượng học sinh trong trường quá đông, gần 500 học sinh, mà giáo dục và rèn luyện KNS cần cho học sinh trải nghiệm nên việc giáo dục KNS cho toàn bộ học sinh là việc vô cùng khó và không có hiệu quả. Hình thức giáo dục KNS cho HS còn nghèo nàn, chưa thu hút và hấp dẫn được học sinh do không đủ thời gian và kinh phí tổ chức. Vì những khó khăn trên nên hiện nay việc triển khai các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh như thế nào cho hiệu quả là vấn đề trăn trở của nhà trường và các giáo viên đang trực tiếp làm công tác giảng dạy và giáo dục. 2.3. Giải pháp thực hiện 2.3.1. Một số vấn đề chung a. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết về cuộc sống. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thử thách, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua chính là do các em thiếu những kĩ năng cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ  năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. b. Một số phương pháp giáo dục KNS cho học sinh phổ thông thường được sử dụng: – Phương pháp động não – Phương pháp sắm vai(trải nghiệm) – Phương pháp trò chơi – Phương pháp vẽ tranh Có nhiều phương pháp giáo dục KNS cho học sinh, mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm riêng. Trong các phương pháp trên thì phương pháp sắm vai và trò chơi là hai phương pháp học sinh rất yêu thích. Tuy nhiên phương pháp sắm vai để có hiệu quả thì phải xây dựng tình huống, có phục trang, đạo cụ phù hợp, số học sinh tham gia được ít nên việc sử dụng phương pháp trò chơi sẽ có hiệu quả hơn. c. Sử dụng phương pháp trò chơi trong giáo dục KNS cho học sinh * Mục đích: Phương pháp trò chơi giúp cho quá trình học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan nhàm chán nhằm lôi cuốn học sinh tham gia vào quá trình học tập một cách tự nhiên, hứng thú, có tinh thần trách nhiệm, đồng thời xua tan sự căng thằng trong học tập. * Các bước thực hiện: – Lựa chọn trò chơi phù hợp – Chuẩn bị phương tiện(nếu cần) – Lựa chọn không gian phù hợp – Huy động sự tham gia của người chơi – Giới thiệu tên trò chơi, luật chơi – Hướng dẫn chơi – Chơi thử – Tổ chức chơi – Xử lý theo luật chơi – Rút ra ý nghĩa của trò chơi(qua sử dụng các câu hỏi vấn đáp, gợi mở để học sinh rút ra được kỹ năng sống qua trò chơi)[4 ] * Lưu ý khi sử dụng phương pháp trò chơi – Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, đảm bảo mọi người đều có thể được tham gia – Trò chơi phải phù hợp(với đặc điểm, trình độ học sinh, hoàn cảnh thực tế của lớp học, phù hợp với KNS cần giáo dục) – Chú ý phát huy tính tích cực của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tự tổ chức chơi. – Cuối trò chơi phải có hệ thống câu hỏi để học sinh rút ra KNS cần giáo dục.[5] * Những hoạt động giáo dục có thể sử dụng phương pháp trò chơi để giáo dục KNS – Qua tiết ngoại khóa trên lớp: Với tiết học ngoại khóa thời gian và không gian thuận lợi hơn nhưng chú ý không quá ồn và vận động mạnh làm ảnh hưởng đến lớp khác. – Qua các hoạt động ngoại khóa(sinh hoạt câu lạc bộ, các hoạt động tập thể), không gian và thời gian không bị hạn chế nên chọn các trò chơi vận động, có nhiều người tham gia để tạo không khí thoải mái cho học sinh. Tùy vào từng hoạt động mà giáo viên lựa chọn trò chơi phù hợp làm sao vừa khắc sâu nội dung hoạt động vừa kết hợp giáo dục KNS cho học sinh có hiệu quả. 2.3.2. Phương pháp giáo dục KNS cho học sinh qua một số trò chơi Bất cứ trò chơi lành mạnh nào nếu vận dụng tốt đều có thể dùng để giáo dục KNS cho học sinh. Trong đây, tôi xin được giới thiệu một số trò chơi dễ thực hiện trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục ở trường phổ thông. a. Giáo dục “Kỹ năng hợp tác ” qua trò chơi “ Vượt biển” Mục đích của trò chơi này là giúp học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc hợp tác, từ đó giáo dục kỹ năng hợp tác cho các em. Chuẩn bị: Một số tờ giấy báo, không gian chơi đủ rộng Trò chơi tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Giới thiệu luật chơi Giáo viên chia học sinh thành các nhóm(chia ngẫu nhiên qua trò chơi “Kết bạn”), chia cho mỗi nhóm một tờ báo cũ, quy định khoảng sân(lớp) là biển, tờ báo là thuyền để vượt biển. Khi trò chơi bắt đầu, giáo viên cho các học sinh xung quanh sân vừa đi vừa hát. Giáo viên hô “Bão biển” thì tất cả học sinh phải chạy về đứng gọn trên thuyền, ai không đứng gọn trên thuyền thì bị loại. Khi giáo viên hô “Bão tan”, mọi học sinh lại đi xung quanh sân, lúc này thuyền bị rách nên chỉ còn lại một nửa tờ báo, khi có hiệu lệnh “Bão biển” thì lại phải chạy ngay về thuyền. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy càng về sau càng khó(thuyền càng ngày càng nhỏ). Nhóm nào bảo tồn được số người sau cùng sẽ thắng cuộc. Bước 2: Chơi thử: Giáo viên cho học sinh chơi thử 2-3 lượt cho học sinh nắm rõ luật chơi. Bước 3: Tổ chức chơi Giáo viên cho học sinh chơi khoảng 3-5 lượt, tìm ra đội chơi thua nhanh nhất để “thưởng” bằng một hình thức vui nào đó. Bước 4: Rút ra ý nghĩa của trò chơi(giáo dục KNS): – Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên đưa ra một số câu hỏi để học sinh rút ra ý nghĩa trò chơi: ? Để giành được thắng lợi trong trò chơi vừa rồi thì mội thành viên trong nhóm cần phải làm gì?( cần nhanh chóng chạy về thuyền, bám chặt vào nhau, chung sức giữ cho nhau đứng vững trên thuyền) ? Nếu trong nhóm có 1 người không bám chắc hoặc đứng không vững thì nhóm có đứng vững được không? Nhóm sẽ làm gì để đứng vững trên thuyền?(nhóm không thể đứng vững nếu một thành viên không kết hợp tốt, những thành viên còn lại sẽ hỗ trợ giúp cho bạn bám chắc và đứng vững ) ? Thuyền muốn đứng vững thì các em nên phân công nhiệm vụ như thế nào?(bạn to khỏe đứng giữa làm trụ, các bạn nhỏ, yếu đứng xung quanh, tất cả trong và ngoài đều giữ chặt lấy nhau thành một khối) Giáo viên kết luận: Kỹ năng hợp tác là một kỹ năng rất quan trọng với mội chúng ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Kỹ năng hợp tác là cùng chung sức, giúp đỡ, hỗ trợ nhau để đạt đến một mục đích chung. Hợp tác giúp chúng ta có thêm sức mạnh, vượt qua khó khăn, có được nhiều thành công. Muốn hợp tác tốt mỗi người cần phải biết tôn trọng, chia sẻ, lắng nghe các thành viên khác trong nhóm, có tinh thần trách nhiệm, luôn hỗ trợ mọi người trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ chung. b. Giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức” qua trò chơi “Soi gương” Mục đích của trò chơi này là học sinh nhận thức được rằng muốn thấy được vẻ bề ngoài của bản thân thì rất dễ bằng cách soi gương, nhưng để nhận biết được bên trong mỗi người thì cần có kỹ năng tự nhận thức bản thân. Trò chơi tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Phổ biến luật chơi – GV cho học sinh đứng thành vòng tròn xung quanh mình. Cử ra hai người quan sát để phát hiện người làm không đúng(luân phiên) – Luật chơi: Người quản trò đứng giữa vòng tròn làm động tác nào thì những người xung quanh phải làm theo nhưng làm ngược chiều(giống hình ảnh trong gương). Nếu ai làm cùng chiều với người quản trò thì sẽ được “thưởng” Bước 2: Chơi thử: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi thử để học sinh nắm rõ luật chơi Bước 3: Tổ chức trò chơi: Giáo viên thực hiện các động tác( ví dụ như chải đầu soi gương, đánh răng, trang điểm, dắt xe. ) khoảng 3-5 lượt để tìm ra những người chơi chưa đúng để “thưởng” bằng một hình thức vui nào đó. Bước 4: Rút ra ý nghĩa của trò chơi(giáo dục KNS): – Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên đưa ra một số câu hỏi để học sinh rút ra ý nghĩa trò chơi: ? Để nhận ra vẻ bề ngoài của bản thân thì chúng ta phải làm gì?(soi gương) ? Việc soi gương có giúp chúng ta nhìn thấy đặc điểm bên tro

Skkn Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Học Sinh Thcs

MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Trong xã hội phát triển mạnh mẽ đầy thách thức hiện nay, nếu thiếu kỹ năng sống sẽ thiếu khả năng phân tích xử lý các tình huống khó khăn, xuống cấp về đạo đức, nhận thức và ứng xử lệch lạc, có phản ứng tiêu cực, dễ rơi vào bế tắc, không tự mình kéo lên được,… Trong khi đó, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Năm học 2008 – 2009 với chủ trương xây dựng “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”, nội dung giáo dục KNS trong trường học lần đầu tiên được Bộ GD&ĐT nhắc đến. Đặc biệt, ở một số trường học ngoài công lập, trường học quốc tế, việc giáo dục KNS đã được quan tâm sớm hơn một bước và đã trở thành một bộ môn chính khóa. Do vậy, đề tài “Giáo dục KNS cho học sinh THCS” đã thực hiện, nhằm hướng đến giáo dục toàn diện cho HS, giúp các em rèn luyện KNS vững vàng trong cuộc sống.

II. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS.

III. Khách thể nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu là học sinh THCS.

IV. Đối tượng khảo sát. Đối tượng khảo sát là trường THCS Nguyễn Viết Xuân, Thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương.

2. Phương pháp khảo sát, phỏng vấn qua bàng hỏi. Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về thực trạng giáo dục KNS cho học sinh THCS. Để đo mức độ hình thành KNS cho học sinh THCS.

3. Phương pháp thống kê toán học. Phương pháp thống kê toán học dùng để xử lý các kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi.

4. Phương pháp xử lý thông tin. Phương pháp xử lý thông tin: để xây dựng các luận cứ, khái quát hoá để phục vụ cho việc chứng minh.

5. Phương pháp nghiên cứu lý luận. Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục và giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, tổng hợp những tư liệu, tài liệu lý luận về giáo dục KNS.

VI. Cơ sở lý luận Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm cùa Nhà nước ta về giáo dục kỹ năng cho HS.

VI. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 4 chương và phần kết luận, kiến nghị. Chương 1. Khái quát về kỹ năng sống. Chương 2. Thực trạng về kỹ năng sống của học sinh. Chương 3. Vai trò và tác động của KNS đối với học sinh THCS. Chương 4. Phương thức và phương pháp tiếp cận giáo dục KNS cho học sinh THCS.

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ KỸ NĂNG SỐNG 1.1. KỸ NĂNG LÀ GÌ? Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI KỸ NĂNG SỐNG. 1.2.1. Khái niệm kỹ năng sống. Khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo tồ chức UNESCO định nghĩa ” kỹ năng sống” là: khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có đầy đủ khả năng đối phó có hiệu quả với nhu cầu và thách thức cùa cuộc sống hằng ngày. Nói một cách dễ hiểu, đó là khả năng nhận thức của bản thân (giúp mỗi người biết mình là ai, sinh ra để làm gì, điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, mình có thể làm được làm gì?)

1.2.2. Phân loại kỹ năng sống. Kỹ năng sống được chia làm hai loại: kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.  Kỹ năng cơ bản gồm: kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng,…  Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: các khả năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp,… Ở các lớp THCS, kỹ năng nâng cao được xem trọng nhiều, còn kỹ năng cơ bản được xem trọng ở các lớp đầu cấp tiểu học. KNS được học qua 3 môi trường cụ thể, đó là: học từ những người truyền thụ trực tiếp kiến thức cho mình, học từ sách báo, truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng khác, học từ những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên xã hội. Hay nói cách khác, KNS có trong 3 môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội.

1.3. Giáo dục kỹ năng sống và sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 1.3.1. Giáo dục KNS là gì? Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức đã được biết và thái độ, giá trị ( HS

suy nghĩ, cảm thấy tin tưởng được) thành hành động thực tế một cách tích cực và mang tính chất xây dựng. Giáo dục KNS cho HS không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi đơn giản, mà giáo dục KNS là việc hướng đến làm thay đổi các hành vi. Có nghĩa là, GD cho các em có cách sống tích cực trog xã hội, là xây dựng và thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực, phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp HS có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp. Mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh THCS không dừng lại ở việc làm thay đổi nhận thức cho HS bằng cách cung cấp thông tin, tri thức mà tập trung vào mục tiêu xây dựng hoặc làm thay đổi hành vi của HS theo hướng tích cực, mang tính xây dựng đối với các vấn đề đặc ra trong cuộc sống.

1.3.2. Sự cần thiết phải giáo dục KNS cho học sinh THCS. Cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn, thử thách để con người vượt qua. Vì vậy, mỗi con người cần phải trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Là một nhà giáo dục tương lai, một con người của xã hội, chúng ta cần phải thấy rõ vai trò của việc trang bị KNS cho HS. Học sinh THCS (1216 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về thể chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Tuổi dậy thì các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi, chóng vui chóng buồn. Mâu thuẫn giữa ý muốn thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ, muốn khẳng định mình trong gia đình lẫn ngoài xã hội với ý thức “các em vẫn còn là trẻ con” trong suy nghĩ của các bậc cha mẹ, thầy cô đã nảy sinh những xung đột mà các em chưa được trang bị kỹ năng cần thiết để ứng phó và giải quyết. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phạm pháp ở thanh thiếu niên, đặc biệt ở độ tuổi THCS, ngày càng gia tăng đến mức độ đáng báo động trong xã hội. Vì vậy, giáo dục KNS là con đường ngắn nhất, giúp các em định hướng về cách sống và hành động một cách tích cực. Nắm được KNS, các em sẽ dễ dàng áp dụng những kiến thức lý thuyết, những “cái mình biết”, “cái mình tin tưởng”,.. vào thực tiễn thành những hành động tích cực, giúp các em thích ứng nhanh nhẹn với những sự thay đổi ngày càng nhanh của xã hội, vững bước tương lai.

* Nhóm kỹ năng sống cần thiết cho khối học sinh THCS  Kỹ năng tự phục vụ bản thân  Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời  Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả  Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc 

Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân

 Kỹ năng giao tiếp và ứng xử  Kỹ năng hợp tác và chia sẻ 

Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông

 Kỹ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống  Kỹ năng đánh giá người khác.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG ĐÓ.

2.1. THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ . Thời gian qua, báo chí đã phản ánh khá nhiều về thực trạng thanh thiếu niên thiếu hụt về kỹ năng xử lý, ứng phó với tình huống xảy ra trong cuộc sống nên đã rơi vào bế tắc, không thể tự kéo mình lên được, như: giết bạn vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bỏ nhà đi bụi, bạo lực học đường, nữ sinh tham gia vào các đường dây mại dâm, hoặc tự vẫn chỉ vì thầy cô, cha mẹ trách mắng,… Thực trạng cho nền giáo dục ở nước ta hiện nay là quá chú trọng vào việc giảng dạy kiến thức, sách vở, quản lý GD bằng những quy tắc cứng nhắc mà xem nhẹ việc GD về KNS, đạo đức cho học sinh. Chính vì thế mà Việt Nam là một trong những nước đứng đầu về bạo lực học đường. Công tác giáo dục KNS cho HS chưa được đầu tư đúng mức về tài liệu, cơ sở vật chất giảng dạy. Nội dung, cách thức giáo dục KNS đơn điệu, sơ sài, chưa thu hút được sự quan tâm tham gia của các em HS. Bản thân giáo viên cũng còn thiếu KNS nên khó đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục KNS cho HS. Vì vậy, với không ít cơ sở GD, giáo dục KNS là nhiệm vụ bất đắc dĩ, và kết quả “được hay không thì tùy”. Về phía các đoàn thể xã hội khác, nhìn chung đều có tham gia vào công tác này, nhưng chưa thực sự quan tâm đúng mức. Đặc biệt, về phía gia đình, vì nhiều nguyên nhân mà hầu hết các bậc phụ huynh đều đẩy việc giáo dục KNS con em mình cho nhà trường, không quan tâm đến con em mình trong nhận thức về KNS. Trong khi đó, GD trong gia đình là nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất.

Hầu hết đề tài nghiên cứu trước đây đều có chung nhận định: học sinh thời nay năng động, tự tin, mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình và thường có mức yêu cầu cao đối với bản thân. Kết quả nghiên cứu cho thấy các em bước đầu hình thành những quan niệm cơ bản về kỹ năng sống, phần đông nhận thức được kỹ năng sống là hành vi con người thể hiện khi ứng phó với những tình huống diễn ra trong cuộc sống, dựa trên những phẩm chất tâm lý và kinh nghiệm cá nhân. Bên cạnh đó, các em cũng nhận định được nguyên nhân chính dẫn đến việc thiếu kỹ năng sống là do chưa có sự hòa hợp trong giao tiếp giữa các em với cha mẹ, thầy cô. Đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi lối sống, quan niệm sống từ bạn bè cùng lớp, cùng trường và từ các phương tiện thông tin đại chúng (mạng Internet, báo chí, diễn đàn…). Tuy nhiên, chỉ mới dừng ở việc nhận thức, đa số học sinh vẫn chưa tiếp cận được những biện pháp rèn luyện để hình thành kỹ năng sống. Điều này cần sự nỗ lực từ nhiều phía: gia đình, nhà trường và chính bản thân học sinh. Có nhiều HS học rất giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, các em chỉ biết ăn, ngủ, học và vui chơi, trong khi đó khả năng giao tiếp rất kém. Qua khảo sát thực nghiệm đối với nhóm HS trường THCS Nguyễn Viết Xuân. Để có những nhận xét, đánh giá chính xác, nhóm thực hiện đề tài đã đưa ra một phiếu khảo sát nhằm tìm hiểu thực trạng và nhu cầu cần được giáo dục KNS cho học sinh THCS. Nội dung của phiếu như sau:

Câu 5: Tôi có khuynh hướng làm những gì tôi nghĩ mình có thể làm được hơn những gì tô tin là đúng? a. Không bao giờ b. Hiếm khi c. Thỉnh thoảng d. Thường xuyên e. Luôn luôn Câu 6: Bạn kiểm soát những tình huống mới một cách khá thỏa mái và dễ dàng? a. Không bao giờ b. Hiếm khi c. Thỉnh thoảng d. Thường xuyên e. Luôn luôn Câu 7: Bân được rèn luyện kỹ năng sống ở đâu? a. Nhà trường b. Gia đình c. Bạn bè d. Tất cả Câu 8: Bạn thường rèn luyện kỹ năng sống của mình bằng cách nào? a. Trong hoạt động vui chơi với bạn bè b. Trong học tập ở nhà trường c. Trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình d. Trong công việc hàng ngày

Câu 9: Bạn được trường tổ chức giáo dục kỹ năng sống bao lâu một lần? a. Thường xuyên (một tuần một lần) b. Thỉnh thoàng (một tháng một lần) c. Hiếm khi d. Không bao giờ Câu 10: Trong tiết học, giáo viên có kết hợp giữa việc dạy kiến thức trong bài học với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hay không? a. Thường xuyên b. Thỉnh thoảng c. Hiếm khi d. Không bao giờ

* Kết quả điều tra 100 học sinh trong trường: Đánh giá tổng hợp (10 câu hỏi cho 100 HS): Câu 1 2 3

8

19,5

13,8

14,6

52,0

e

Nhận xét về kết quả điều tra cho thấy: hầu hết các em biết được tầm quan trọng của KNS trong cuộc sống hiện nay, và có những nhận thức đúng đắn về việc tiếp xúc và giải quyết các tình huống. Nhưng, hầu hết các em chưa được tiếp cận một cách thường xuyên và giáo dục đúng đắn về các KNS. Vì vậy, các em cần phải được rèn luyện và giáo dục đúng đắn về KNS.

2.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG ĐÓ.  Về phía HS: chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết để nhận thức về bản thân và đối phó với các tình huống đến từ các mối quan hệ xã hội và sự biến đổi tâm sinh lý của bản thân và sự biến đổi của môi trường.  Về phía gia đình: chưa nhận thức được đầy đủ về nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho HS, còn lơ là, không quan tâm đến các em, chưa thật sự gương mẫu cho các em noi theo, phó mặc nhiệm vụ cho giáo viên và nhà trường.  Về phía nhà trường: chưa quan tâm đầy đủ đến công tác giáo dục KNS cho học sinh, chưa đưa công tác này thành kế hoạch cụ thể, chưa có công tác tổ chức và hướng dẫn thực hiện cho GV. GV thì chưa được trang bị đầy đủ về KNS và tmầ quan trọng của công tác giáo dục KNS cho HS, chưa biết cách tổ chức giáo dục KNS phù hợp cho từng lứa tuổi.

 Về phía xã hội: ngày càng có nhiều tệ nạn xã hội nguy hiểm, các khu vui chơi giải trí lành mạnh hco HS ít được đầu tư phát triển, nhiều tụ điểm không lành mạnh mọc lên ngày càng nhiều,… Từ đó những nguyên nhân đó, nhóm nghiên cứu đề tài có một số đề nghị như sau:  Đầu tiên là từ phía bản thân của các em cần phải có ý thức tự giác, tự ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS đối với bản thân, tích cực học tập, tìm hiều, từ đó đề ra cho mình các biện pháp và phương hướng rèn luyện có hiệu quả.  Về phía gia đình cần phải quan tâm, theo dõi các em, luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em có thể phát triển một cách toàn diện những khả năng của bản thân, phát triển trí tuệ và thể chất, để các em có cơ hội học tập và rèn luyện KNS cho bản thân.  Về phía nhà trường cần phải quan tâm, cú ý đến việc rèn luyện KNS cho các em. Chú ý kết hợp hài hòa giữa việc giáo dục kiến thức với giáo dục đạo đức, KNS cho HS. Nhà trường cẩn tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt ngoại khóa. Tham quan, du lịch,..để các em có điều kiện tiếp xúc với thực tế, gặp những hợp mà tự bản thân các em suy nghĩ và giải quyết,…Từ đó, giúp các em rèn luyện KNS tốt hơn.  Xã hội cần phải quan tâm, tạo điều kiện cho các em vui chơi, giải trí, nhằm tăng cường việc rèn luyện KNS.

CHƯƠNG 3.

VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KỸ NĂNG SỐNG ĐỐI VỚI HỌC SINH THCS 3.1 Vai trò của kỹ năng sống Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết định sự thành công của con người, kỹ năng sống đóng góp đến khoảng 85%. Theo UNESCO ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chuyên nghiệp… Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc, và thành đạt là ước mơ không quá xa vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những KNS cần thiết và hữu ích. Kỹ năng sống tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. Kỹ năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Khối lượng kiến thức của chúng ta trở nên lỗi thời nhanh chóng trong thời đại mới. Trong môi trường không ngừng biến động con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội, trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột.

Cuộc đời là một hành trình mà bằng cấp chuyên môn giống như một bệ phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực đẩy con người vươn lên tầm cao thành đạt. Cần lưu ý rèn luyện kỹ năng sống là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Do đó, không phải vì kỹ năng sống có tầm quan trọng rất lớn mà cố đưa vào chương trình giảng dạy cho HS nhiều chuyên đề mang tính lý thuyết. Điều cần thiết là làm cho mọi người ý thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và lồng nó vào các môn học. Những người đã đi làm thì cần bổ sung một vài chuyên đề cần thiết mà bản thân c

3.2 Tác động của kỹ năng sống đối với học sinh trung hoc cơ sở * Nhận thức Giúp học sinh THCS có tri thức hiểu biết về các giá trị truyển thống của dân tộc, cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại, củng cố và mở rộng thêm kiến thức đã học trên lớp, có ý thức chính trị, đạo đức, pháp luật và lối sống lành mạnh, ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản than, gia đình, nhà trường và xã hội, có ý thức định hướng nghề nghiệp cho tương lai,… * Kỹ năng Tiếp tục rèn luyện kỹ năng cơ bản đã được hình thành, trên cơ sở đó phát triển thành một số năng lực chủ yếu như: năng lực tự hoàn thiện, khả năng thích ứng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, năng lực hoạt động chính trị xã hội, nang9 lực tở chức, quản lý, năng lực hợp tác, chia sẻ, thương lượng, nhằm giúp cho học sinh sống một cách an toàn, khỏe mạnh, thích ứng với cuộc sống không ngừng biến đổi. * Thái độ Giúp cho HS có lý tưởng sống vì ngày mai lập nghiệp, có niềm tin vào tương lai, có ý thức và tinh thần tự hào dnâ tộc. Biết tỏ thái độ trước những vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm với những hành vi của bản thân, đấu tranh tích cực với những biểu hiện sai trái của bản thân và của người khác để tự hoàn thiện mình, biết cảm thông và tha thức hco những sai lầm của người khác. Bồi dưỡng cho các em tính tích cực, chủ động, sang tạo tham gia các hoạt động tập thể, giáo dục cho các em tinh thần đoàn kết hữu nghị,..

dự án… ví dụ học về môi trường, trẻ có thể đi du khảo, tham gia làm sạch đường phố…học về trật tự an toàn giao thông, trẻ có thể bày những trò chơi về luật đi đường, quan sát tình hình giao thông rồi nhận xét.

4.1. Phương pháp động não * Mô tả phương pháp Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắnnảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ít để (lôi ra) một danh sách các thông tin. * Cách tiến hành Có thể tiến hành theo các bước sau: – GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm. – Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. – Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp. – Phân loại các ý kiến. – Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng. – Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không. * Những yêu cầu sư phạm – Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của học sinh. – Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.

4.5. Phương pháp nghiên cứu tình huống (hai nghiên cứu các trường hợp điền hình) * Mô tả phương pháp Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống ” thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản * Các bước tiến hành Các bước nghiên cứu tình huống có nghĩa là :

Skkn Một Số Biện Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Học Sinh

MỤC LỤC Nội dung

I. Tên sáng kiến kinh nghiệm II. Tên tác giả sáng kiến kinh nghiệm III. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 1. Giải pháp cũ thường làm

a. Đặc điểm tình hình của nhà trường

4

b. Thực trạng công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

2. Giải pháp mới cải tiến a. Tăng cường công tác chỉ đạo, định hướng công tác giáo dục kỹ năng

7

sống b. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tích hợp qua các môn học

8

c. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua giờ sinh hoạt của giáo

9

viên chủ nhiệm d. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động ngoài giờ do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức 3. Hiệu quả đạt được sau khi cải tiến IV. Kết luận và kiến nghị

1. Kết luận

14

2. Kiến nghị

15

I. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một trong những nội dung của phong trào ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Thiết nghĩ, đây cũng là một trong những nội dung quan trọng trong mục tiêu giáo dục toàn diện 1

trong mỗi nhà trường. Trong xu thế phát triển xã hội, thế giới đã và đang có những biến đổi sâu sắc về mọi mặt tác động đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Một số chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, phẩm chất đạo đức, lối sống của con người cũng bị ảnh hưởng bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Thế hệ trẻ hôm nay dẽ dàng học đòi, bắt chước, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu từ xã hội, từ mạng Internet…Trong các nhà trường, học sinh có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tệ nạn xã hội, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình…đồng thời kĩ năng thực hành giao tiếp, kĩ năng phục vụ bản thân còn yếu, kém. Thực tế này đã khiến các nhà giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT. Nhiều nước phát triển trên thế giới, thanh thiếu niên được học những kỹ năng sống về những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống và họ biết cách đối diện và đương đầu với những khó khăn, biết cách vượt qua những khó khăn, cũng như biết cách tránh những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực giữa người và người, biết cách đối phó thích ứng với các tai nạn như cháy, nổ, động đất, thiên tai. Như vậy, việc giáo dục”kỹ năng sống” cho học sinh, đặc biệt là học sinh THPT là vô cùng cấn thiết . Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã xây dựng và triển khai các chuyên đề giáo dục KNS ở các cấp học, ở mọi lứa tuổi. Chương trình giáo dục KNS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp được bắt đầu bằng những kỹ năng đơn giản, đời thường gần gũi với các em, như: chào hỏi, bắt tay, cám ơn, xin lỗi, quan sát, lắng nghe, giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành luật an toàn giao thông…Một loạt các chuyên đề giáo dục kĩ năng sống, được ứng dụng phù hợp với quá trình phát triển tâm lý tuổi vị thành niên, giúp các em tự rèn luyện nhân cách và khả năng tự lập và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ, Ngành, và Sở GD&ĐT Ninh Bình, trường THPT Gia Viễn A trong những năm vừa qua đã và đang triển khai chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường có đã khơi dậy “sức mạnh nội tâm” tiềm ẩn 2

trong mỗi HS, giúp các em nhận ra giá trị của mình, để biết cách điều chỉnh hành vi, thái độ, biết “sống có trách nhiệm”, “sống có văn hoá”, biết cách “tự bảo vệ mình” và “giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống”. Tuy nhiên khi triển khai và thực hiện chương trình giáo dục KNS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân do nhân thức, hiểu biết về kỹ năng sống cũng như việc thể chế hóa chương trình giáo dục kỹ năng sống của nhà trường chưa cụ thể, chưa sát thực và còn nhiều lúng túng. Đặc biệt việc hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho học sinh còn nhiều bất cập và chưa thật hiệu quả. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Gia Viễn A tôi mạnh dạn chọn đề tài ” Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh” II. Tác giả sáng kiến: – Họ và tên: Hà Thị Lan Hương – Chức vụ: P. Hiệu trưởng – Đơn vị: Trường THPT Gia Viễn A III. Nội dung sáng kiến: 1. Giải pháp cũ thường làm: a. Đặc điểm tình hình của nhà trường: Trường THPT Gia Viễn A được thành lập năm 1960 đóng trên địa bàn xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Học sinh nhà trường là con em các xã thuần nông thuộc xã Gia Hưng, Gia Hoà, Gia Phú, Gia Thịnh, Gia Vượng, Gia Phương, Liên Sơn và thị trấn Me. Kinh tế hộ gia đình còn nhiều khó khăn, thu nhập không ổn định, một bộ phận phụ huynh đi làm ăn xa thiếu quan tâm đến việc học tập và rèn luyện của con em mình. Năm học 2014 – 2015, nhà trường 3

viên còn nặng về truyền thụ kiến thức và chưa thực sự chú trọng rèn kỹ năng cho học sinh. Một bộ phận nhỏ giáo viên đã đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào bài giảng nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao. *) Công tác giáo dục kỹ năng của giáo viên chủ nhiệm lớp: Qua nghiên cứu, phân tích và kiểm tra đánh giá các tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các tiết sinh hoạt cuối tuần, giáo viên mới chỉ dừng lại ở các công việc mang tính sự vụ hành chính thông thường, nhắc việc, xử lý vi phạm của học sinh mà rất ít các thầy cô quan tâm đến việc định hướng, trang bị cho các em những kỹ năng cơ bản và cần thiết. Nhà trường phân công cho GVCN lớp đảm nhiệm công tác Hướng nghiệp cho học sinh và phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhưng hiệu quả và chất lượng của các hoạt động chưa cao. Mức độ vi phạm nội quy quy định của học sinh có chiều hướng gia tăng, các kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng giải quyết tình huống, kỹ năng quản lý thời gian còn hạn chế. *) Công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động ngoại khoá, hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã phối hợp với Huyện đoàn Gia Viễn tổ chức các hoạt động ngoại khoá, tuy nhiên việc tổ chức các hoạt động còn mang tình hình thức, việc xác định mục tiêu giáo dục kỹ năng sống chưa được chú trọng đúng mức và đầy đủ. Đánh giá chung về việc triển khai các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh như sau: mặc dù công tác giáo dục kỹ năng sống đã được nhà trường quan tâm nhưng chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả. Nguyên nhân của thực trạng trên là do điều kiện của nhà trường xây dựng lâu năm, cơ sở vật chât còn nghèo nàn, lạc hâu, trang thiết bị, phòng học còn thiếu, chưa có phòng học đa năng nên việc triển khai các hoạt động ngoài giờ lên lớp gặp rất nhiều khó 5

6

7

khai chương trình phát thanh học đường…cũng là giải pháp góp phần trang bị thêm nhiều kiến thức kỹ năng sống cho học sinh. b. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tích hợp qua các môn học: Theo chương trình đổi giáo dục, thì dạy học tích hợp là một trong những phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả. Năm học 2014 – 2015, nhà trường đã chỉ dạo giáo viên bộ môn giảng dạy theo hướng tích hợp, tăng cường đầu tư nhiều hơn cho công tác chuẩn bị như: xác định nội dung, địa chỉ tích hợp và các kỹ năng cần tích hợp. Tùy đặc thù của từng bộ môn để tích hợp nhiều nội dung như giáo dục môi trường, giáo dục sức khỏe sinh sản, phòng chống tham nhũng, giáo dục pháp luật… Để hoạt động tích hợp đạt hiệu quả, giáo viên dạy các môn học đã linh hoạt và mềm dẻo trong việc lựa chọn nội dung bài học và kỹ năng sống cần thiết để tích hợp. Trong giáo án, giáo viên đã thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng và chi tiết định hướng giảng dạy của mình từ mục tiêu giáo dục, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đến hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh. Nhờ đó, giáo viên có thể làm chủ được quá trình truyền thụ tri thức và hạn chế thiếu sót trong quá trình giảng dạy. Trong khi thiết kế nội dung dạy học tích hợp kỹ năng sống, giáo viên đã thiết kế cụ thể các hoạt động mà bản thân dự kiến sẽ tổ chức và ước lượng thời gian tổ chức để tránh ảnh hưởng đến việc truyền thụ và lĩnh hội nội dung kiến thức của học sinh. Sau mỗi bài học, giáo viên bộ môn tiến hành hoạt động kiểm tra đánh giá người học theo mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng các kỹ năng đã được trang bị vào để giải quyết những tình huống cụ thể. c. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua giờ sinh hoạt của giáo viên chủ nhiệm: Trong quá trình công tác, tôi nhận thấy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh là vô cùng quan 8

trọng: là tấm gương, là người mẹ, người bạn, nhà tâm lí, luật sư… GVCN lớp là cầu nối giữa Hiệu trưởng nhà trường với học sinh, với cha mẹ học sinh và các đoàn thể mà các em sinh hoạt. Giáo viên chủ nhiệm người gần gũi với học sinh nhất cũng là , người đóng vai trò cầu nối và giáo dục kỹ năng sống cơ bản cho học sinh, chính vì vậy mà gánh nặng giáo dục kỹ năng sống hiện nay đặt lên vai giáo viên chủ nhiệm ngày càng lớn. Trong công tác giáo dục kỹ năng sống, giáo viên chủ nhiệm có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất là tư vấn, giáo dục kỹ năng cơ bản: Cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào thì giáo viên chủ nhiệm cũng phải linh hoạt, hiểu được nhu cầu và tạo cho các em cảm giác tin tưởng, có thể giúp đỡ được, tránh cho các em rơi vào trạng thái mặc cảm tự ti do mâu thuẫn với bố mẹ, thầy cô về kết quả học tập, hay gặp rắc rối với bạn bè, bị strees do học tập quá sức hay bị dọa nạt, xúc phạm…. sẵn sàng lắng nghe những chia sẻ, tâm tư của lứa tuổi học sinh, nắm bắt được những vấn đề cơ bản, cùng các em vạch ra những phương án, tự đương đầu với những khó khăn trước mắt thay vì xấu hổ, rụt rè, tự ti để tâm lý luôn được thoải mái và học tập có hiệu quả. Thứ hai là, giáo viên chủ nhiệm có thể giúp học sinh tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm trí thông qua sự kết hợp với các nhà tham vấn, chuyên gia tư vấn tâm lý học đường, những học sinh đang có khó khăn tâm lý, đặc biệt là những học sinh “thường xuyên lo lắng và bất an” nên nỗ lực tìm cách vượt qua hoặc tìm kiếm dịch vụ trợ giúp phù hợp để tránh những tác động tiêu cực do khó khăn tâm lý gây ra. Ý thức được sự cần thiết của việc trau dồi các kiến thức tâm lý học và các kiến thức xã hội khác để hiểu được tâm lý của bản thân và tự nhận ra vấn đề khó khăn của mình. Học sinh có thể chuẩn bị tâm thế trước mọi hoàn cảnh, sẵn sàng đón nhận thử thách, khó khăn trong cuộc sống, học tập và nỗ lực tìm cách khắc phục chúng. Khi cần trợ giúp nên tìm đến những dịch vụ hay những loại hình trợ giúp tâm lý chuyên nghiệp để tránh những rủi ro khác không mong muốn. 9

Tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện. Trong năm học 2014 – 2015, nhà trường đã tổ chức cuộc thi viết thư UPU, cuộc thi sáng tác thơ, truyện ngắn, cuộc thi vẽ tranh bảo vệ động vật hoang dã thu hút hơn 1000 học sinh tham gia. Thông qua các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, kỹ năng sáng tạo… Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của học sinh, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với HS ở bậc THPT. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh thần cho các em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái. Tổ chức các hoạt động xã hội: Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội như chăm sóc di tích động Hoa Lư xã Gia Hưng, thăm và tặng quà mẹ Việt Nam anh hùng xã Liên Sơn, huyện Gia Viên…Từ những hoạt động trên đã giúp các em nâng cao hiểu biết về quê hương, đất nước, con người và xã hội. Ngoài ra, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình yêu thương con người, biết yêu thương, biết sẻ chia. Hoạt động này khi tiến hành thường xuyên sẽ khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em. Tổ chức các hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho học sinh hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp các em có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp các em vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt 11

động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ HS rất ít được tham gia các hoạt động này. Nhưng đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động. Tổ chức hoạt động tiếp cận và sáng tạo khoa học – kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến và bước đầu sáng chế những máy móc, thiết bị từ những vật liệu tái chế. Thông qua hoạt động này, nhà trường đã tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học, tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn đồng thời hình thành ở các em đức tính cần, kiệm và kỹ năng tự khẳng định mình. 3. Hiệu quả đạt được sau khi cải tiến: Kiểm tra đánh giá chất lượng của các hoạt động ngoài giờ lên lớp được tiến hành thông qua phiếu điều tra, qua tiếp xúc với học sinh, qua bài kiểm tra trắc nghiệm nhằm đánh giá đúng thực trạng, chất lượng từ đó có sự chỉ đạo điều chỉnh chương trình giảng dạy cho thiết thực và hiệu quả. Cụ thể như sau: Tinh thần và thái độ học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt . Qua các giờ học, học sinh tự tin hơn, năng động hơn, hào hứng sôi nổi mạnh dạn phát biểu ý kiến, chủ động đề xuất các phương án giải quyết bài tập. Các em thực sự hứng thú với các môn học, chủ động, tự giác học tập. Đặc biệt đã bắt đầu hình thành nhóm học sinh tập nghiên cứu khoa học, tự làm những thiết bị máy móc từ những nguyên liệu tái chế, tự thiết kế và lắp đặt mô hình … Trong các tiết sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, hoạt động NGLL…các em có thể tự quản và tổ chức các hoạt động rất sinh động, sáng tạo Các em học sinh biết cách giải quyết các mâu thuẫt và các xung đột phát sinh trong và ngoài nhà trường. Việc giao tiếp ứng xử văn hoá, văn minh. Các 12

em biết lựa chọn cho mình xu hướng thời trang phù hợp, tự tin khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Việc thực hiện những nội quy, quy định của học sinh có những chuyển biến tích cực. Qua số liệu thống kê của BTV Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, hiện tượng học sinh thiếu ý thức, vô lễ với các thầy cô giáo không còn. Số lượng học sinh bỏ học, bỏ tiết đi đánh điện tử giảm đảng kể, đi học đúng giờ, ăn mặc đúng quy định, tích cực tham gia vào phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, thi sáng tạo khoa học kỹ thuật, thi viết bài tìm hiểu về truyền thồng vẻ vang của dân tôc… do nhà trường và các cấp, các ngành tổ chức. Tình hình an ninh trật tự trong nhà trường được đảm bảo, cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp. Đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu về giáo dục trí dục và đức dục góp phần đưa sự nghiệp giáo dục của nhà trường lên một tầm cao mới. IV. Kết luận và kiến nghị: 1. Kết luận: KNS là biểu hiện của hành vi, nhân cách đồng thời là yếu tố khẳng định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn mới về sự trưởng thành của con người dưới tác động của môi trường sống và hoạt động giáo dục. KNS là mục tiêu, là nội dung quan trọng của chương trình giáo dục ở các cấp học đặc biệt là cấp THPT. Giáo dục KNS trong thời đại hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và của mỗi nhà trường nói riêng. Giáo dục KNS thông qua hoạt động NGLL chiếm vị trí quan trọng và là nền tảng thiết yếu để các em gia nhập vào đời sống xã hội. Thông qua hoạt động NGLL cần hình thành ở các em những kỹ năng cơ bản như: Xây dựng giá trị, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đương đầu với những khó khăn, bất trắc, kỹ năng giải quyết các mâu thuẫn một cách tích cực, kỹ năng ra quyết định…Giáo dục KNS còn giúp cho các em có lối sống tích cực, hành vi tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển nhân cách toàn diện. 13

Công tác quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh là một nhiệm vụ rất quan trong trong chiến lược phát triển giáo dục của trường THPT Gia Viễn A giai đoạn 2010 – 2020. Đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ đối vời người làm công tác quản lý. Để hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà trường đạt chất lượng cao, thiết thực và hiệu quả thì việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá phải diễn ra khoa học và thường xuyên. Giáo dục KNS cho học sinh là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giá trị cốt lõi của nhà trường và của mỗi học sinh. 2. Kiến nghị: a. Bộ GD&ĐT: Bộ GD và ĐT cần sờm có những qui định về chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các cấp học trong đó có câp THPT. Đây là cơ sở quan trọng để nhà trường chủ động lựa chọn hình thức tổ chức giáo dục KNS cho học sinh phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường b. Sở GD&ĐT Ninh Bình: Sở GD và ĐT Ninh Bình cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn và hài hạn cho cán bộ, giáo viên chuyên trách hoạt động NGLL nhằm trang bị những kiến thức phục vụ cho quá trình giảng dạy. Xây dựng những mô hình điển hình về hoạt động NGLL và nhân rộng mô hình hay để triển khai đồng bộ ở nhiều đơn vị. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm ở các cơ sở, các đơn vị trực thuộc, c. BGH nhà trường: Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật, nguồn kinh phí, nâng cấp, bổ sung trang thiết bị phục vụ cho việc tổ chức các chương trình ngoại khóa, các hoạt động tập thể. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá các hoạt động giáo dục NGLL diễn ra thường xuyên, nghiêm túc. Cử cán bộ, giáo viên chuyên trách tham dự các lớp 14

tập huấn do Sở GD và ĐT Ninh Bình, huyện đoàn Gia Viễn, tỉnh đoàn Ninh Bình tổ chức. Nâng cao nhận thức và ý thức của GV và học sinh khi tham gia vào các chương trình giáo dục KNS do nhà trường tổ chức

Gia Viễn, ngày 05 tháng 05 năm 2015 Người viết

Hà Thị Lan Hương

15

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lý trường THPT ( Học viện Quản lý giáo dục 2012) 2. Bộ môn kỹ năng sống ( tác giả Lê Lương Thuận) 3. ” Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phong trào ” xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ( Tạp chí giáo dục số 214/2009 – tác giả Phan Thanh Vân) 4. ” Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” ( năm 2010- tác giả Phan Thanh Vân) 5. ” Kỹ năng sống và kỹ năng mềm là gì?” ( Tác giả Trần Đăng Khoa)

16

Một Số Giải Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Học Sinh Tiểu Học

Hiện nay, nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy cho học sinh ở các trường, dưới nhiều hình thức khác nhau. Chương trình hành động … đã đặt ra trách nhiệm phải đảm bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kỹ năng sống phù hợp và kỹ năng sống cần được coi như một nội dung của chất lượng giáo dục. Do vậy ở trường đã tập huấn cho giáo viên dạy lồng ghép vào một số môn học nhằm trang bị những năng lực cần thiết cho các em.

Từ ngôi nhà này lại đưa chúng ta trở về với chiến khu, nơi đó chủ nhân của ngôi nhà sàn đơn sơ vách nứa không con mà có triệu con. Nhân dân ta gọi Người là Bác. Cả dời Người là của nước non, thấm nhuần lời dạy của Bác “Trẻ em như búp trên cành” Gia đình – nhà trường – xã hội phải có trách nhiệm chăm sóc, bồi dưỡng, bảo vệ để những búp non ấy nở hoa tươi thắm. Có trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Vì vậy khi đến lớp, phải tạo cho các em không khí thoải mái, gần gũi, thân mật như những người thân trong gia đình, giúp cho các em không bị áp lực phải đi học.

Mỗi người hãy áp dụng câu nói: ” Hãy mỉm cười trong cuộc sống. Nụ cười của bạn mang lại hạnh phúc cho người xung quanh và do đó cũng mang hạnh phúc cho chính bạn”. Do đó khi nhận danh sách lớp việc đầu tiên là giáo viên phải đọc kỹ để nhớ tên các em. Vì ai cũng muốn mình quan trọng đối với người khác, được người khác quan tâm, tôn trọng khi nghe cô tươi cười gọi tên mình các em rất vui và sẽ để lại ấn tượng sâu sắc.

Tranh thủ những lúc ra chơi giáo viên cùng tâm sự, hỏi han về hoàn cảnh gia đình của các em, lấy số điện thoại để tiện cho việc liên lạc. Chọn những học sinh năng động, nhiệt tình và có lực học tốt để bầu ban cán sự lớp, phân công từng việc cụ thể, phù hợpvới từng em nhằm đưa tập thể lớp ngày càng đi lên. Hàng ngày giáo viên theo dõi, kiểm tra, nhắc nhở với vai trò vừa là cha, là mẹ, là anh, là chị, là người bạn tốt của các em.

Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng.

VD: Nhiều người biết hút thuốc có hại cho sức khỏe, có thể dẫn đến ung thư vòm họng, ung thư phổi nhưng họ vẫn hút thuốc. Có những người là luật sư, công an…có hiểu biết rất rõ về pháp luật nhưng họ vẫn vi phạm pháp luật. Đó chính là họ thiếu kỹ năng sống.

Có thể nói kỹ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những thử thách, họ luôn yêu đời, luôn thành công, luôn làm chủ cuộc sống của mình. Do đó giáo dục các kỹ năng sống cho học sinh là việc làm cấp thiết, làm ngay và làm lâu dài.

– Kỹ năng tự nhận thức: Là tự nhìn nhận tự đánh giá về bản thân về cơ thể, tư tưởng, sở thích, tình cảm, điểm mạnh, điểm yếu của bản thân. Quan tâm và ý thức được mình đang làm gì, kể cả những lúc bản thân thấy căng thẳng. Là kỹ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp, cảm thông với người khác. Từ đó có những quyết định, lựa chọn đúng, phù hợp với điều kiện gia đình và xã hội. Ngược lại nhận thức không đúng về bản thân có thể dẫn đến những hạn chế, sai lầm trong giao tiếp và cuộc sống.

Nằm trong chăn Lan vờ ngủ và em đã nhận thức ra. Lan cảm thấy ân hận vì đã làm mẹ phải buồn, thấy mình quá ích kỷ, anh trai luôn nhường nhịn thương yêu mình. Cuối cùng Lan nói với mẹ ” Con không thích chiếc áo ấy nữa. Mẹ hãy để tiền mua áo ấm cho cả hai anh em”

Vệ sinh môi trường là được Bác Hồ coi là một trong những công việc quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho mọi người nhất là đối với thế hệ trẻ. Có sức khỏe mới lao động tốt, có sức khỏe mới học tập tốt. Hơn lúc nào hết những lời dạy của Bác về vệ sinh môi trường hôm nay chúng ta cần tự nhận thức tốt hơn, cần học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dạy các em 5 điều Bác Hồ dạy chính là dạy trẻ có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, biết yêu thiên nhiên, biết kính trọng mọi người, yêu Tổ Quốc, yêu lao động… Nhờ đó mà các em sẽ phòng được một số bệnh về đường hô hấp, bệnh giun sán… tiết kiệm điện, tiết kiệm nước và thực hiện tốt phong trào vở sạch chữ đẹp, phong trào môi trường xanh – sạch – đẹp, đây cũng là một trong những tiêu chí trong phong trào xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực.

Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những thách thức lớn, xu thế toàn cầu hóa ngày một phát triển và lan nhanh. Đòi hỏi giáo viên phải hiểu sâu sắc đặc thù của từng môn học nhằm đúc rút được những kỹ năng sống sát thực để dạy tốt môn học đó.

– Kỹ năng xác định giá trị: Là những gì con người cho là quan trọng, có ý nghĩa đối với bản thân. Giá trị có thể là vật chất, tinh thần, nó không thể bất biến mà nó có thể thay đổi theo thời gian, theo sự trưởng thành của con người.

Ví dụ: Trong bài “Người mẹ”

Khi thần chết cướp đi đứa con của mình. Bà quyết tâm đi tìm con. Bà ôm ghì bụi gai và máu nhỏ xuống từng giọt đậm. Bà khóc cho đến khi đôi mắt rớt xuống hồ. Vì con bà có thể hy sinh tất cả.

Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ, nếu gia đình giáo dục các em kỹ năng sống tốt, các em sẽ được thừa hưởng những điều đó. Các em sẽ luôn ý thức được việc học của mình. Có học tập ở nhà tốt thì lên lớp các em sẽ hiểu bài nhanh, tiết học trở nên nhẹ nhàng. Cuối mỗi buổi học phải nhắc các em về nhà phải rửa chân tay sạch sẽ rồi mới ăn cơm trưa, sau đó ngủ một lúc, thức dậy để đi học. Nếu các em thường xuyên làm như vậy sẽ tạo được thói quen tốt trong học tập và trong rèn luyện. Đúng với điều Bác nói:

“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”

Khi đi học về quần áo, mũ treo lên móc, theo quy định của mình, để không mất thời gian tìm kiếm sau mỗi lần sử dụng. Đồng thời cần giúp đỡ cha mẹ sắp xếp đồ dùng cá nhân, đồ dùng của gia đình mình, làm những việc vừa với sức của mình sao cho gọn gàng, ngăn nắp. Như vậy có ý thức tốt ngay từ nhỏ có lợi cho các em khi học các lớp sau. Có câu: “Cái tháp cao nào cũng xây từ mặt đất”

– Kỹ năng kiểm soát cảm xúc: Là khả năng con người nhận thức rõ cảm súc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được cảm súc đối với bản thân và người khác như thế nào. Biết điều chỉnh cảm súc một cách phù hợp, góp phần giảm bớt căng thẳng, giúp giao tiếp hiệu quả hơn.

Ví dụ: Trong bài “Trận bóng dưới lòng đường”

Quang sút bóng mạch và đập vào đầu một cụ già. Quang sợ tái cả người, cậu bé vừa chạy theo chiếc xích lô vừa mếu máo: Ông ơi…cụ ơi…! Cháu xin lỗi cụ. Quang rất ân hận trước tai nạn do mình gây ra.

– Kỹ năng ứng phó với căng thẳng: Trong cuộc sống con người thường gặp những tình huống gây căng thẳng cho bản thân. Tuy nhiên có những tình huống gây căng thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người khác và ngược lại. Giáo dục học sinh ứng phó với căng thẳng là rất quan trọng các em có thể ứng phó tích cực, không làm tổn hại đến sức khỏe, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, không ảnh hưởng đến các bạn xung quanh.

Ví dụ: Khi gọi học sinh lên bảng. Một số học sinh thì cảm thấy rất thích. Một số bạn cảm thấy run, tuy ở nhà có học bài nhưng lên bảng lại không trả lời được. Không riêng gì học sinh mà kể cả người lớn cũng vậy lúc đứng trước đông người cảm thấy lúng túng khi trình bày một vấn đề nào đó.

– Kỹ năng thể hiện sự cảm thông: Tiếng Việt có nhiệm vụ rèn cho học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Hướng tới và giáo dục các em tình yêu quê hương xứ sở, yêu con người, biết cái thiện, cái đẹp làm cho tâm hồn phong phú và cuộc sống bay bổng hơn, các em biết cảm thông trước những hoàn cảnh khó khăn. Nhất là trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển mạnh các em càng cần đọc nhiều để nắm bắt và hiểu rõ mọi việc. Biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để hiểu rõ cảm súc của người khác và thông cảm với hoàn cảnh của họ. Kĩ năng này tăng cường hiệu quả trong giao tiếp, ứng xử với người khác. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội văn hóa đa sắc tộc càng cần sự thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ.

ái đối với những người tàn tật, giúp đỡ những bạn nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, có ý thức vươn lên trong học tập.

Kỹ năng hợp tác và đảm nhận trách nhiệm: Là cùng chung làm một việc, giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau để đạt được kết quả cao nhất.

Ví dụ: Trong bài tập đọc ” Hai bà Trưng”: Vì yêu nước thương dân, căm thù quân giặc tàn bạo đã giết hại ông Thi Sách và gây bao tội ác với nhân dân. Hai Bà mặc giáp phục thật đẹp, bước lên bành voi rất oai phong. Đoàn quân rùng rùng lên đường, giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn trào lên theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Bao đời nay nhân ta tôn kính Hai Bà Trưng vì Hai Bà là người lãnh đạo nhân dân giải phóng đất nước, là hai vị anh hùng chống giặc ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.

Khi các em hoạt động nhóm: Cả nhóm đều đồng lòng, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau tạo sức mạnh vế trí tuệ, tinh thần, thể chất, vượt qua những khó khăn thì sẽ đạt được mục tiêu mà mình mong muốn.

Ngoài việc ôn lại, khắc sâu các kiến thức, kỹ năng đã học. Qua đó rèn luyện tính cách mạnh dạn, tự tin, rèn kỹ năng quyết định lựa chọn ngôn ngữ nói và khả năng trình bày ý kiến của mình một cách tự nhiên, rõ ràng, mạch lạc.

Cách chơi: Giáo viên hướng dẫn cho cả lớp cách làm phóng viên để đều có thể thay nhau làm phóng viên.

Cách chào mọi người:

Cách cầm micrô

Người được phỏng vấn: Lắng nghe, bình tĩnh, tự tin, lựa chọn cách trả lời sao cho thông minh nhất .

Kỹ năng quản lý thời gian: Giúp các em biết sắp xếp công việc một cách hợp lý. Hàng ngày em ngủ dậy, đi học, học bài, làm việc giúp gia đình vào lúc nào phù hợp nhất.

Qua việc học tập hàng ngày của các em, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh để kịp thời nắm bắt nhắc nhở, đôn đốc học sinh học tập ở lớp cũng như ở nhà.

Trước hết người lớn phải gương mẫu, tôn trọng, đối xử công bằng với các em, tạo điều kiện cho con em mình học tập và vui chơi. Động viên, tạo cơ hội để con cái nói lên ý thích của mình, hỗ trợ để con mình thực hiện được sở thích đó.

Ví dụ: Con thích vẽ. Phụ huynh mua đủ màu và giấy vẽ cho con.

Nhắc nhở, hướng dẫn, kiểm tra con học và làm bài tập.

Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập theo thời khóa biểu.

Biết giữ vệ sinh cá nhân, giữ vệ sinh nơi công cộng.

Biết cách ăn uống, chào hỏi, giữ gìn đồ dùng trong gia đình

Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp.

Giáo viên đối với học sinh:

Trẻ em rất hiếu động thường hay bắt chước. Nên giáo viên phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm, cái chính là để các em nhìn thấy những việc giáo viên đã nói, đã làm, do đó tấm gương thực tế là rất quan trọng.

Người giáo viên luôn rèn luyện tác phong gương mẫu giờ nào việc nấy tạo ấn tượng tốt cho học sinh. “Sự gương mẫu của người thầy giáo là tia sáng mặt trời thuận lợi nhất đối với sự phát triển tâm hồn non trẻ mà không có gì thay thế được”. Đồng thời biết định hướng, biết tổ chức, biết khai thác, biết phát huy năng khiếu, sự sáng tạo của họa sinh, phải dạy thật, dạy đúng chương trình, đủ tiết, tìm tòi phương pháp phù hợp, chuẩn bị nội dung, đồ dùng học tập không dạy theo thành tích mà dạy để học sinh nắm được kiến thức một cách hiệu quả nhất.

Trong 15 phút sinh hoạt đầu giờ giáo viên hướng dẫn cán sự lớp kiểm tra từ việc học bài cũ, chuẩn bị sách vở, vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học…Cái chính là rèn cho các em tinh thần tự quản, tinh thần tập thể, tính chủ động, sáng tạo, mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động. Có như vậy mới phát huy tác dụng trong việc rèn các em vào nề nếp học tập.

Trong các buổi sinh hoạt chi bộ được nghe đồng chí bí thư quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, mọi quy định của ngành, của trường đề ra. Bản thân tôi, các đồng chí khác trong chi bộ luôn học hỏi để bổ sung vào vốn kinh nghiệm của mình và triển khai để mọi người cùng thực hiện.

Kết hợp với giáo viên bộ môn:

Kết hợp với các đoàn thể khác:

Trong các buổi chào cờ đầu tuần được thầy tổng phụ trách, Ban giám hiệu tuyên dương, nhắc nhở những việc đã làm được, chưa làm được trong tuần vừa qua và triển khai kế hoạch thời gian tới các em chú ý lắng nghe tiếp thu và tiến bộ.

Giáo dục ngoài giờ lên lớp: Đây là hình thức “Học mà chơi – chơi mà học”. Phải xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm tạo sự thân mật giữa nhà trường với học sinh, tạo sự thân mật giữa giáo viên và học sinh, qua đó giáo viên phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, sở thích của các em như vậy thì công việc mới hiệu quả được. Nhà trường, giáo viên, phụ huynh và cả học sinh rất phấn khởi.

Nhà trường cần tổ chức các hoạt động vui chơi như: Tham gia thi giao lưu Tiếng Việt, diễn văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhằm khuyến khích sự mạnh dạn, tự tin, sự sáng tạo, lòng yêu thiên nhiên môi trường, yêu quê hương, đất nước, biết bảo vệ tài sản của nhà trường, của cộng đồng và tài sản của bản thân.

Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỹ Năng Sống Qua Trò Chơi Cho Học Sinh Trường Thcs Luận Thành trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!