Xem Nhiều 3/2023 #️ Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học # Top 3 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1.1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp xây dựng phát triển và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã coi trọng rất nhiều mặt, trong đó, sự nghiệp giáo dục đã, đang và sẽ mãi mãi được coi là quốc sách hàng đầu. Vì giáo dục là sự nghiệp trồng người tạo ra những thiên tài về tri thức cho đất nước. Những năm qua giáo dục tiểu học đang có những đổi mới đồng bộ và toàn diện, nhằm góp phần đào tạo những con người toàn diện, lao động tự chủ, năng động sáng tạo trên tất cả các mặt: đức, trí, thế, mỹ. Bộ môn Âm nhạc cũng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp cải cách giáo dục, môn Âm nhạc là một phần nội dung trong chương trình giáo dục bậc tiểu học và quan trọng hơn nó là “Phương tiện giáo dục” hấp dẫn mang tính đặc thù. Vì vậy mục tiêu giáo dục môn âm nhạc ở Tiểu học là: “Hình thành cho học sinh những cơ bản ban đầu để phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất, năng lực, phẩm chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi vào cuộc sống lao động”. Âm nhạc có vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Trẻ em tham gia ca hát là được tự hoạt động để nhận thức thế giới xung quanh và bản thân mình. Do đó, từ việc nghe hát, tập hát và biết được một số kiến thức về âm nhạc sẽ góp phần giáo dục năng lực cảm thụ âm nhạc, kích thích tiềm năng nghệ thuật, làm cho đời sống tinh thần của trẻ thêm phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc.[1] Hơn nữa, khi lớn lên các em sẽ càng hiểu biết hơn về những nét đặc sắc trong văn hoá Âm nhạc của dân tộc và của loài người. Từ đó các em biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá âm nhạc mà cha ông ta đã để lại, góp phần hỗ trợ cho việc học các môn học khác. Xuất phát từ những lí do trên, để giúp các em học tốt môn âm nhạc, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học ” tôi mong muốn đề tài này tiếp tục được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích bộ môn này. Qua thực tế giảng dạy từ những năm trước đây, đặc biệt là những năm gần đây các em được học chương trình sách giáo khoa Âm nhạc mới. Tôi nhận thấy rằng trước một bài hát, một bài tập đọc, ghi chép nhạc, hoặc khi nghe các bản nhạc, để các em hiểu, nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài học cũng như nêu được những cảm nhận ban đầu của mình về giai điệu các bản nhạc, người giáo viên cần có một phương pháp truyền đạt, hướng dẫn thật tốt, đơn giản nhưng lại hiệu quả nhất, chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” nhằm giúp các em nắm bắt, tiếp thu nhanh nhất kiến thức bài học của bộ môn âm nhạc. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Vì đề tài nêu ra một số biện pháp giúp các em học tốt môn Âm nhạc trong trường Tiểu học nên đối tượng nghiên cứu của đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” trước hết là các phương pháp dạy học truyền thống cũng như hiện đại, các hình thức tổ chức dạy học, nội dung chương trình của môn Âm nhạc ở các khối lớp, hệ thống câu hỏi, việc chuẩn bị đồ dùng, cũng như nghiên cứu về cách đánh giá thường xuyên tiết dạy theo TT22. 1.4. Phạm vi nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài trên, tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Quảng Ninh.. 1.5. Phương pháp nghiên cứu. [2] – Phương pháp thuyết trình. – Phương pháp vấn đáp. – Phương pháp giảng giải. – Phương pháp nghiên cứu tài liệu, giáo trình. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. [1] Trong nhà trường, những học sinh có năng khiếu âm nhạc chiếm tỉ lệ rất thấp. Tuy nhiên, dạy Âm nhạc ở Tiểu học là việc dạy cho tất cả học sinh, mà đa số là các em không có năng khiếu âm nhạc, vì vậy môn học này không đặt mục tiêu giúp các em trở thành diễn viên, ca sĩ hay nhạc sĩ chuyên nghiệp. Mục tiêu của môn học này giúp các em phát triển toàn diện, tự nhiên và cân bằng trí tuệ, sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ. Dạy Âm nhạc nhằm phát triển nhận thức và các năng lực âm nhạc của học sinh, tạo cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Xuất phát từ công tác giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi Tiểu học. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là hết sức quan trọng, điều đó không chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em, cùng với sự quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và toàn thể xã hội. Âm nhạc là môn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với môn học khác, tuy nó không đòi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối như những con số nhưng đòi hỏi người học phải có sự yêu thích, đam mê và có một chút gọi là “năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được. Học Âm nhạc mang đến cho học sinh những phút giây thư giãn, thoải mái, học mà chơi, chơi mà học. Thông qua giai điệu, lời ca, cử chỉ, điệu bộ, giúp các em nhận thức những hình tượng âm thanh, kích thích cảm xúc của các em, giúp các em cảm thụ những giai điệu đẹp qua từng bài hát, từng câu nhạc. Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đang phát triển. Hành vi và thói quen đạo đức đang hình thành. Các em giàu cảm xúc, sống bằng tình cảm, thích sinh hoạt tập thể và múa hát. Xét về mặt tình cảm, các em rất dễ xúc động trước những cái hay, cái đẹp biểu hiện trong cuộc sống. Nhưng lên đến lứa tuổi cao hơn- độ tuổi 9-10, các em đã hình thành các phẩm chất cũng như các năng lực ở mức độ cao hơn, các em có những nhạy cảm riêng và đòi hỏi nhu cầu tiếp thu kiến thức một cách hoàn hảo hơn. Chính vì vậy người giáo viên cần phải có năng lực trong giao tiếp, trong sự truyền tải kiến thức cho các em. Muốn các em hiểu bài một cách tốt nhất, người giáo viên phải bỏ thời gian công sức, trí tuệ của mình để nghiên cứu tài liệu cũng như tìm tòi ra những phương pháp, những hình thức dạy học để giúp các em tiếp thu bài một cách trọn vẹn . . . Giáo viên Tiểu học là người hình thành ở các em những cơ sở ban đầu cho sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc và phát hiện những mầm non có năng khiếu âm nhạc để sớm có điều kiện bồi dưỡng các em thành nhân tài của đất nước. Muốn vậy, GV dạy môn Âm nhạc phải có hiểu biết cơ bản về lý thuyết âm nhạc, phải rèn luyện để có kĩ năng thực hành giúp các em hát kết hợp gõ đệm đúng với tất cả sắc thái biểu cảm và hình thành ở các em cảm xúc và thị hiếu lành mạnh. Chính vì vậy, không còn cách nào khác, người giáo viên cần phải tự học hỏi, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các chuyên đề đổi mới phương pháp; học hỏi cấp trên, đồng nghiệp, bạn bè, gần gũi, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Biết nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi để gây cảm hứng cho các em trong học tập. Ngoài ra không ngừng luyện tập về chuyên môn như luyện giọng hát, luyện tập đàn, tập múa, biểu diễn và một vài thủ thuật khác để giúp các em học tốt nhằm nâng cao chất lượng môn Âm nhạc trong nhà trường, giúp các em phát triển một cách toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mĩ. Từ đó các em sẽ góp phần học tốt các môn học khác trong nhà trường. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trường Tiểu học Quảng Ninh là một trường nằm ở gần trung tâm của huyện Quảng Xương, điều kiện cơ sở vật chất cũng không còn nhiều khó khăn như trước nữa, phần nào nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá văn nghệ thuật của nhà trường nói riêng và của địa phương nói chung. Mặt khác việc tiếp cận các thông tin âm nhạc và việc được tham gia các hoạt động âm nhạc của các em học sinh đang còn rất hạn chế. Do vậy để các em học tốt và có hứng thú học tập bộ môn này, đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp truyền đạt, phương pháp thu hút, tạo sự hứng thú cho các em với môn học. Đại bộ phận các em do ít được tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật nên còn nhược điểm rất phổ biến là hát theo thói quen, hát tự do theo cảm tính… Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em nắm được các kiến thức, các kỹ năng cơ bản của ca hát từ đó giúp các em có được sự tự tin, phát triển tai nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc. Những năm trước đây, do trang thiết bị cho môn học còn hạn chế, giáo viên còn dạy truyền khẩu nhiều nên việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các bài hát chỉ qua phương pháp truyền khẩu thuần tuý ít phát triển khả năng tư duy của các em. Do đó không tạo được sự thu hút, ít gây 2.2.1. Những việc đã làm được. Nhìn chung, SGK đã xác lập được một hệ thống tri thức âm nhạc nhẹ nhàng, phong phú. Trong chương trình từng lớp và toàn cấp học các nội dung được sắp xếp đan xen một cách hài hoà hợp lí. Tạo cơ sở để học sinh rèn luyện kĩ năng hát đúng, hát hay, giúp phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc, hướng tới chân, thiện, mĩ góp phần làm thư giãn đầu óc, làm cân bằng các nội dung học tập khác ở Tiểu học. Mặt khác, sau khi Hội nghị công chức- viên chức đầu năm xong, tôi đã nắm bắt được kế hoạch của nhà trường trong việc dạy học môn Âm nhạc. Bản thân đã tự lên kế hoạch cho từng khối lớp. Từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc của mình phụ trách. Là một người giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, với khả năng của mình, bản thân đã không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tham gia các buổi chuyên đề của nhà trường và của PGD&ĐT tổ chức. Thực hành nghiên cứu tài liệu, soạn giảng các kế hoạch bài học, tìm tòi các phương pháp đổi mới, các hình thức dạy học để giúp học sinh tiếp thu bài tốt. Kết quả chất lượng môn Âm nhạc ngày một đi lên. Đầu năm các em còn hát sai nhạc, gõ tiết tấu chưa đúng, gõ phách còn lẫn lộn, nhất là các em học sinh lớp Một, mới vào cấp Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng đến bây giờ, chất lượng học tập của các em đã chuyển biến rõ rệt. Các em say mê học hát hơn, yêu thích môn Âm nhạc hơn, hát đúng và còn hát hay nữa. Những động tác phụ hoạ cùng với lời hát có phần điêu luyện hơn, gõ phách và gõ tiết tấu đã chính xác với lời của bài hát. Vì vậy, tính đến thời điểm cuối tháng tư, toàn trường có 388 em đều đạt mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt, Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở trường chúng tôi. 2.2.2. Những mặt còn hạn chế. * Về phía nhà trường. Nhìn chung, nhà trường cũng đã rất quan tâm trong việc chỉ đạo dạy và học môn Âm nhạc, tuy nhiên khi tổ chức các tiết chuyên đề, thường là ở các môn như Toán; Tiếng Việt; TNXH; Khoa học; Địa lý; Đạo đức. Môn Âm nhạc ít được đề cập đến. * Về phía đồng nghiệp. Hầu như giáo viên chủ nhiệm chưa coi trọng môn học âm nhạc và thường đánh giá môn học âm nhạc là môn phụ nên nhiều lúc họ cho rằng học cũng được và không học cũng chẳng sao, cái chính là phải học Toán và Tiếng Việt nên sự tương tác giữa giáo viên dạy môn Âm nhạc và học sinh chưa được coi trọng. * Về phía phụ huynh. Đa phần phụ huynh học sinh thường cho con em mình tập trung học ở các môn nhiều giờ như Toán; Tiếng Việt, TNXH hay Đạo đức. Phụ huynh thường quan niệm rằng, môn Âm nhạc là một môn học phụ, học nhiều cũng được, học ít cũng xong. Họ đâu có biết đấy là một môn bắt buộc trong tám môn học ở trường Tiểu học. Có học tốt môn Âm nhạc, tinh thần của các em mới phấn chấn để tiếp tục học các môn học khác, hoặc chính nhờ thông qua việc học môn Âm nhạc các em đang được học kỹ năng biểu diễn, kỹ năng tự tin trước đám đông, kỹ năng thuyết trình Học tốt môn Âm nhạc sẽ phục vụ cho cuộc sống sau này của các em rất nhiều. * Về phía giáo viên. Bản thân giáo viên phụ trách môn Âm nhạc cũng đã rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy, xong với tuổi đời đã có nhưng kinh nghiệm cũng chưa nhiều, nhà trường có 2 giáo viên nhạc, bản thân thường làm giáo viên tổng phụ trách đội, Chưa có nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, băng hình cũng như các tập san, tạp chí để tìm ra các phương pháp hữu hiệu trong mỗi tiết dạy nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc cho học sinh. Chưa tham gia được nhiều về việc dạy các tiết chuyên đề cũng như tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm. Chưa tìm hiểu nhiều được tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh ở từng khối lớp. * Về phía học sinh. Nhất là học sinh lớp 1 bước đầu mới làm quen môn âm nhạc, nhiều em còn chưa biết đọc, hát còn ngọng chưa chính xác, rụt rè nhút nhát trong giờ học. Các em chưa làm quen hát kết hợp gõ đệm theo các cách, chưa phân biệt được từng cách gõ đệm theo tiết tấu, theo phách, theo nhịp khác nhau như thế nào trong một bài hát. Vì thế, các em hát còn tùy tiện lúc nhanh, lúc chậm dẫn đến việc hát sai giai điệu của bài hát. Đối với học sinh các khối lớp 2; 3; 4; 5, tuy các em có lớn hơn chút ít nhưng kĩ năng hát hay, hát đúng nhạc chưa được nhiều. Có chăng các em cũng hát được phần cơ bản. Vì vậy, về kĩ thuật các em chưa thẩm thấu dẫn đến các em hát sai nhạc, gõ phách và tiết tấu sai Cụ thể như sau: – Khả năng thuộc lời bài hát còn kém. – Khả năng nghe nhạc chưa chuẩn. – Tập đọc nhạc còn sai. – Hát chưa đúng giai điệu. – Hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu chưa tốt. – Hát kết hợp vận động chưa nhịp nhàng. Sau một tháng giảng dạy ở các lớp, kết quả khảo sát chất lượng môn Âm nhạc của học sinh các khối lớp trong toàn trường đã thu được như sau: Khối Sĩ số Hoàn thành tốt % Hoàn thành % Chưa hoàn thành % 1 93 38 40.8 49 52,7 6 6,5 2 55 19 34.5 33 60 3 5.5 3 94 45 47.9 47 50 2 2,1 4 63 24 38.1 37 58.7 2 3.2 5 83 30 36.1 51 61.5 2 2.4 Tổng số 388 156 40.2 217 55.9 15 3.9 Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc tiếp thu các kiến thức âm nhạc và sự yêu thích học tập bộ môn của các em chưa cao lắm. Vì thế bản thân tôi cảm thấy rất trăn trở, tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường tiểu học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Giải pháp giúp học sinh yêu thích môn Âm nhạc. Như chúng ta đã biết, giáo dục âm nhạc cho HS tiểu học phải bằng mọi hình thức và nhiều biện pháp vì thế tổ chức giờ học dưới nhiều hình thức như tổ chức trò chơi âm nhạc, Tập vận động phụ hoạ – biểu diễn – trình bày bài hát, Lồng ghép hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp vào hoạt động dạy học Âm nhạc, Tổ chức trò chơi âm nhạc rất được HS thích thú và là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong dạy và học Âm nhạc. Các biện pháp này thu hút sự chú ý và say sưa học tập, đồng thời tạo sân chơi, giúp các em HS gắn bó, hòa đồng với nhau, yêu thích và mong chờ được học môn Âm nhạc. GV tổ chức cho HS thực hiện bằng nhiều hình thức: cho HS lên biểu diễn trước lớp, trình bày bài hát bằng hình thức hát xô và hát xướng, kể các bài hát dân ca mà em biết   Giúp HS được học mà chơi, chơi mà học, làm thư giãn tinh thần qua những tiết học văn hóa, làm giờ học âm nhạc phong phú, hấp dẫn. Góp phần giúp HS phát triển trí tuệ.      2.3.2. Giải pháp giúp học sinh học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, tập đọc nhạc. Âm nhạc ở Tiểu học gồm các mạch nội dung như: Học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, Tập đọc nhạc. Ở lớp 1, 2, 3 Học hát và Phát triển khả năng nghe nhạc. Qua học hát, HS được rèn luyện về tai nghe, trí nhớ âm nhạc, phát triển nhạc cảm và làm quen với việc thể hiện chính xác về độ cao, trường độ. Học kì II lớp 3 HS được tiếp cận bước đầu với một vài kí hiệu ghi chép nhạc. Đến lớp 4, 5 bổ sung thêm nội dung Tập đọc nhạc. Âm nhạc được tách riêng thành một môn học có SGK cho HS và sách hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên. – Học hát: Học sinh Tiểu học được học từ 10 đến 12 bài hát trong một năm học. HS cần hát đúng cao độ, trường độ và phát âm rõ lời, chính xác. Tiếng hát phải có sức biểu cảm với những trạng thái khác nhau như: vui vẻ, hồn nhiên, nhí nhảnh … Dạy hát gồm các bước sau: giới thiệu bài, hát mẫu, đọc lời ca, khởi động giọng, dạy hát từng câu, hát cả bài, hát kết hợp gõ đệm bằng nhạc cụ, hát kết hợp vận động phụ hoạ. – Phát triển khả năng nghe nhạc: Học sinh được nghe Quốc ca, dân ca, bài hát thiếu nhi chọn lọc hoặc nhạc không lời. Nghe kể chuyện Âm nhạc. Được nghe, xem giới thiệu hình dáng một vài nhạc cụ trong và ngoài nước. Nghe âm sắc qua băng đĩa các trích đoạn nhạc được diễn tấu bằng các loại hình nhạc cụ này. – Tập đọc nhạc: Ở lớp 4, 5 các em được làm quen với 8 bài TĐN, giọng Đô trưởng, nhịp 2/4, 3/4 gồm 5 âm Đô-Rê-Mi-Son-La hoặc 7 âm: Đô-Rê-Mi-Pha-Son-La-Si với hình nốt đen, nốt trắng, móc đơn, trắng chấm dôi, đen chấm dôi, dấu lặng đen và dấu lặng đơn. Khi dạy TĐN, giáo viên cho các em nhận biết tên nốt, hình nốt và từ nốt thấp đến nốt cao trong bài. Tập lần lượt cao độ, tiết tấu riêng. Sau đó đàn giai điệu vài lần cho các em đọc theo từng câu ngắn. Khi đã đọc đúng giai điệu thì cho HS ghép lời. Trong khi đọc GV nhắc các em gõ phách đều đặn, nhịp nhàng. 2.3. 3. Biện pháp luyện hát đúng giai điệu, hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu. Giáo viên phải xây dựng nền nếp học tập ngay từ bài học đầu tiên như: xác định thái độ, ý thức học tập đối với môn Âm nhạc, tư thế ngồi hát, kỹ năng phát âm, nhả tiếng, quan sát, lắng nghe và cảm nhận âm sắc, giai điệu. * Biện pháp: Luyện hát đúng giai điệu. Giới thiệu bài hát một cách sinh động, gây sự chú ý, tò mò cho học sinh. Các em nghe hát mẫu và đọc lời ca. Ví dụ: Trong bài “Lớp chúng ta đoàn kết” (Nhạc và lời của Mộng Lân). Khi đọc lời ca phải hướng dẫn các em đọc theo tiết tấu và ngắt ở cụm từ như sau: Lớp chúng mình/ rất rất vui,/ anh em ta chan hoà tình thân./… Để các em đọc đúng tiết tấu, giáo viên chỉ bảng phụ và hướng dẫn các em đọc câu theo mẫu. Sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca giáo viên phải hướng dẫn các em khởi động giọng. Ví dụ : Mề ê ế ê mà a á a à Khi tập cần sự đồng đều hoà giọng chính xác và diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Để các em cảm nhận giai điệu của từng câu hát, giáo viên đàn, hát mẫu. Việc tập hát từng câu và tập hát theo lối móc xích sẽ giúp các em mau nhớ lời ca và hát chuẩn xác giai điệu hơn. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện được bài học. * Biện pháp: Hát kết hợp gõ đệm. Việc sử dụng các nhạc cụ gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu lời ca. Tuy nhiên tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Ví dụ: Bài “ Bầu trời xanh ” Nhạc và lời: Nguyễn Văn Quỳ ( lớp 1) Sử dụng cách gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau. Gõ đệm theo phách: Gõ theo tiết tấu: Mỗi nốt trên khuông nhạc giáo viên đã đánh dấu “x” tương ứng với tiếng được gõ theo ô nhịp. Không giải thích vì sao chỉ nhận xét về hai cách gõ. Sau đó hướng dẫn học sinh cách tự xác định tiết tấu, phách ở những câu còn lại trong bài hát. Để phân biệt h

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh

TT NỘI DUNG Trang 1 Mở đầu 2 1.1 Lí do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu 3 2 Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 2.3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1 Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh 5 2.3.2 Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học 7 2.3.3 Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh nắm vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính. 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản than, đồng nghiệp và nhà trường. 12 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14 3.2 Kiến nghị 15 Tài liệu tham khảo 16 1. Mở đầu: 1.1. Lí do chọn đề tài: Đất nước ta đang chuyển dần sang thời kì thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều khoá đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nêu rõ mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả [4]. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại càng quan trọng và cần thiết. Do đó, Tin học trở thành công cụ không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ngày nay tin học đã có những bước tiến nhanh chóng về ứng dụng của nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tin học được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống văn minh góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến đến nền kinh tế tri thức. Máy tính cùng với phần mềm là công cụ đắc lực giúp chúng ta học tập, quản lý, tổ chức, sắp xếp và xử lý công việc một cách nhanh chóng và chính xác. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng và nhà nước ta đã yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo đưa môn Tin học vào trong nhà trường ngay từ Tiểu học. Học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Trong những năm gần đây Tin học là môn học mới được đưa vào nhà trường nên các em học sinh say mê hứng thú học và được các nhà trường quan tâm đầu tư, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Cũng như các môn học khác, việc xây dựng chương trình môn Tin học theo đúng quy trình và đảm bảo đầy đủ các thành tố như: mục tiêu dạy học, nội dung và chuẩn cần đạt tới, phương pháp và phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại Trường tiểu học Nga Lĩnh tôi thấy rằng môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin, hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại. Tuy nhiên việc dạy học Tin học vẫn còn những bất cập và hạn chế nhất định, hiệu quả chưa thực sự cao. Bởi vậy, việc dạy học tốt môn Tin học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Vậy người giáo viên phải nghiên cứu nội dung và vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để giúp học sinh học khối 3 học tốt môn Tin học? Đó là điều bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học ở Trường Tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Môn tin học lớp 3. Học sinh khối 3 Trường tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn – Thanh Hóa. 1.4. Các phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số phương pháp chính sau đây: – Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học môn Tin học tiểu học. – Phương pháp khảo sát thực tiễn : Khảo sát bằng bài kiểm tra và thông qua các tiết học Tin học. – Phương pháp thống kê: Thống kê, phân loại học sinh theo mức đạt được. – Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: Phân tích lý luận và thực tiễn ứng dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học. – Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học để đúc rút kinh nghiệm. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Tin học là môn học mang tính khoa học và công nghệ. Học sinh học tốt môn Tin học có điều kiện thuận lợi để trẻ thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và trở thành người có ích cho xã hội để xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Chính vì lẽ đó nên Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo dục tin học trong các nhà trường được phát triển. Điều đó thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, thông tư hướng dẫn, đặc biệt là Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. Và quyết định số 50/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/10/2003 về việc ban hành chương trinh môn Tin học ở bậc tiểu học. Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lý các nhà trường, giúp các thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học, trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập góp phần rèn luyện học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại. Đối với chương trình tin học tiểu học môn Tin học là môn tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái không bị gò ép. Là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Học sinh tiểu học tư duy trìu tượng chưa phát triển, tư duy cụ thể giữ vai trò quan trọng. Chính vì thế, giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Do vậy việc dạy học môn Tin học cần được quan tâm và tổ chức có hiệu quả, vận dụng phù hợp và linh hoạt với điều kiện thực tế trong nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. * Về phía nhà trường: Trường tiểu học Nga Lĩnh là trường chuẩn Quốc gia Mức độ 2 nên đã được trang bị một phòng máy tính. Bên cạnh đó được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành hỗ trợ cơ sở vật chất cho nhà trường. Tạo điều kiện mua sắm sửa chữa máy móc, trang thiết bị, sách giáo khoa và phần mềm kèm theo tạo điều kiện cho giáo viên trong việc giảng dạy môn Tin học được tốt hơn. Song bên canh đó vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng máy tính, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành, làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. * Về phía giáo viên: – Việc dạy của giáo viên còn chưa bài bản, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Thêm vào đó việc đầu tư cho nghiên cứu bài dạy chưa nhiều, việc đổi mới phương pháp chưa triệt để, hình thức tổ chức dạy học còn rập khuôn, máy móc. Dẫn đến nội dung các tiết dạy còn nghèo nàn, đơn điệu. – Giáo viên đã biết lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho học sinh nhưng việc vận dụng các hình thức tổ chức dạy học chưa linh hoạt. – Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. – Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. – Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. * Về phía học sinh: – Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính. Vì vậy học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy tính với các em học sinh còn hạn chế, nên thao tác của các em chưa thành thạo. – Học sinh thường ngồi tự do, chưa đúng tư thế trước máy tính khi thực hành. – Một số học sinh đứng trước máy tính còn có tâm lý sợ máy hỏng nên việc sử dụng máy tinh còn rất hạn chế. Kết quả khảo sát thực tế tại thời điểm tháng 9/2017 ở khối lớp 3 với tổng số học sinh 54 em như sau: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 4 7,4 Thao tác đúng 18 33,3 Thao tác chậm 21 38,9 Chưa biết thao tác 11 20,4 Bảng 1 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Tỷ lệ học sinh thao tác nhanh và đúng rất ít. Số học sinh thao tác chậm và chưa biết thao tác còn chiếm tỷ lệ cao. Ngồi trước máy tính học sinh đang còn rất lúng túng, thao tác chậm, chưa tự tin. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi bật lên các nguyên nhân sau: Một là: Ban giám hiệu, tổ chuyên môn chưa quan tâm chú trọng nhiều trong việc bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Tin học. Hai là: Bản thân giáo viên chưa chịu khó học hỏi tìm tòi để đổi mới PPDH. Việc đầu tư thời gian nghiên cứu cho tiết dạy chưa nhiều. Ba là: Trong quá trình lên lớp giáo viên tổ chức các giờ học còn thiếu linh hoạt, nặng về áp đặt, chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Bốn là: Việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, lúng túng, vận dụng chưa có chiều sâu, các giờ học giáo viên chưa mạnh dạn giao việc thực hành cho học sinh. Còn thói quen đọc – chép, thuyết – giảng, lệ thuộc sách giáo khoa. Trăn trở với chất lượng học sinh, tôi luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào để học sinh thao tác nhanh, đúng cao hơn và đặc biệt là có nhiều học sinh sử dụng thành thạo máy tính. Bởi vậy cần phải có những giải pháp phù hợp và hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học tin học ở khối lớp 3. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyêt vấn đề: Để giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: 2.3.1. Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh. Giáo viên luôn chú trọng giáo dục ý thức học tập của học sinh, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng công nghệ thông tin và tầm quan trọng của môn Tin học trong thực tiễn và tương lai sau này. Học sinh khối 3 là lứa tuổi hồn nhiên, chưa có ý thức nhiều về hành vi của mình nên giờ thực hành rất dễ xảy ra tình trạng lộn xộn, đùa giỡn trong khi thực hành, ngồi thực hành với tư thế tùy tiện theo thói quen của mình. Vì vậy giáo dục ý thức học tập cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên cần phải chú ý đúng mức, kịp thời uốn nắn những sai lệch, hình thành những thói quen, thao tác đúng đắn cho học sinh. Bởi vì vốn kiến thức ban đầu luôn có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng cho các cấp học sau này. Những sai lệch ngay từ ban đầu sẽ tạo nền những thói quen không đúng và rất khó sửa chữa, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Phải tạo không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, giáo viên phải làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình thì tiết học mới đạt hiệu quả. Giáo viên không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không thu hoạch được gì. Đồng thời, trong giờ học giáo viên nên động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho dù các em làm sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên cần khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học sinh, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình. Giờ học thực hành vẽ của học sinh lớp 3A- Trường TH Nga Lĩnh Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết bình thường. Giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và đảm bảo các yêu cầu sau:      – “Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành.      – Tay đặt ngang tầm bàn phím và không phải vươn xa, chuột đặt bên tay phải.      – Nên giữ khoảng cách giữa mắt học sinh đến màn hình từ 50cm đến 80cm.      – Không nên nhìn quá lâu vào màn hình.      – Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh”. Hoc sinh lớp 3B – Trường TH Nga Lĩnh đang thực hành đúng yêu cầu Mặt khác, phòng máy tính phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho học sinh. Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, mà nhất là học sinh tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận thị, vẹt cột sống, mệt mỏi khi ngồi học ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể lực, trí lực của học sinh sau này. 2.3.2. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học.       Để thực hiện tốt biện pháp này, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ, biết thực hành, vận động một cách linh hoạt không bị động hoàn toàn theo lệnh của giáo viên. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo điểu khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh chưa hoàn thành, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại tri thức mới đó. Ví dụ: Chương 1: Làm quen với máy tính. Ở chương này, ngay từ bài học đầu tiên “Người bạn mới của em”. Khi dạy học nội dung là cách tắt máy. Trong sách giáo khoa không trình bày quy trình cũng như các thao tác để tắt máy. Chính vì vậy, giáo viên không nêu trực tiếp cách tắt máy, làm như vậy là áp đặt cho học sinh phải nắm ngay kiến thức mới. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học khơi dậy sự tích cực, tự giác hoạt động của học sinh. Học sinh tự hoạt động, khám phá, tìm tòi và đưa ra cách tắt máy an toàn. Chẳng hạn: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên nêu câu hỏi: Khi không làm việc nữa, cần tắt máy tính. Nếu em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì có ảnh hưởng gì? + Đại diện nhóm trả lời. + Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và đưa ra kết luận. + Học sinh nhận xét và đưa ra kết luận: Em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì sẽ tốn điện, máy tính sẽ bị hao mòn nên nhanh hỏng,      Vậy em tắt máy bằng cách nào? Học sinh trả lời theo nhiều cách khác nhau như: Rút nguồn điện, nhấn vào nút Power trên thân máy và trên màn hình, dùng chuột để tắt máy, dùng bàn phím để tắt máy. Giáo viên có thể đưa ra liên hệ thực tế gợi mở để học sinh dễ dàng tìm ra cách giải quyết. Chẳng hạn, một chiếc xe đang chạy trên đường với tốc độ cao nếu phanh gấp dừng đột ngột thì chiếc xe đó như thế nào? Học sinh trả lời được câu hỏi này thì sẽ trả lời được câu hỏi trước đó. Giáo viên có thể nêu câu hỏi để kết luận: Vậy cách tắt máy nào là an toàn nhất, ít làm hư hỏng máy tính? Học sinh tự tìm ra kiến thức mới cho mình. Giáo viên nhận xét: Em tắt máy theo từng bước bằng cách sử dụng chuột hoặc bàn phím là an toàn nhất, máy tính không bị hư hỏng và bền hơn. Học sinh xác nhận lại tri thức mới.      Hay khi dạy học với nội dung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt buộc học sinh thực hành một cách thụ động theo ý muốn của mình, mà người giáo viên phải có phương pháp để phát huy tính tích cực, tự giác bằng các biện pháp như khuyến khích, khen thưởng, để học sinh tích cực thực hành, chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng học sinh tùy theo trình độ, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc quá khó cho học sinh. Dạy học theo nhóm, trình độ, kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp giúp cho tất cả các học sinh cùng tiến bộ. Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có những học sinh ở các mức độ khác nhau như: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Do vậy nếu giáo viên không phân loại mức độ học sinh, không có phương pháp giảng dạy thích hợp dễ gây nhàm chán cho học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và tâm lý căng thẳng cho học sinh chưa hoàn thành từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán nản, lười biếng cho học sinh. Giáo viên thường xuyên cải tiến nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp trong mỗi tiết học như: – Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong tổ, nhóm. Ví dụ: Trong chương “Em tập gõ bàn phím” Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp Một

PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP MỘT Người thực hiện: Trần Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Xương – Thọ Xuân SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán THANH HÓA NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 01 1.1. Lí do chọn đề tài. 01 1.2. Mục đích nghiên cứu. 01 1.3. Đối tượng nghiên cứu 01 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 02 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.3.Các biện pháp thực hiện. 03 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện. 03 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy toán. 03 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học. 07 2.3.4. Bồi dưỡng cho học sinh năng lực quan sát, biết suy nghĩ lập luận, phân tích đề toán. 9 2.3.5. Dạy toán thông qua các trò chơi. 11 2.3.6. Kết hợp việc kiểm tra bài cũ để học tốt bài mới. 14 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 15 3. Kết luận 15 Tài liệu tham khảo 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, toán học là khoa học suy diễn trừu tượng nhưng toán học ở tiểu học lại mang tính trực quan, cụ thể bởi vì mục tiêu của môn toán học ở Tiểu học là hình thành những biểu tượng toán học ban đầu và rèn luyện kĩ năng toán cho học sinh, tạo cơ sở phát triển tư duy và phương pháp toán sau này. Một mặt khác toán học còn có tính thực tiễn. Các kiến thức toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống. Mỗi mô hình toán học là khái quát từ nhiều tình huống trong cuộc sống. Dạy học toán học ở tiểu học là hoàn thiện những gì vốn có trong học sinh, cho học sinh làm và ghi lại một cách chính thức các kiến thức toán học bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học. Mỗi tiết học là dịp để học sinh hình thành những kiến thức và kĩ năng mới, vận dụng một cách sáng tạo nhất, thông minh nhất. Môn Toán còn góp phần giáo dục những đức tính tốt như: trung thực, cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó, tìm tòi sáng tạo và nhiều kĩ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Môn Toán lớp Một mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Sau này lớn lên các em có thể trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất. Các em sẽ không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm, tập viết 1, 2, 3, học các phép tính cộng, trừ. Những con số, những phép tính đơn giản ấy lại rất cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Ở lứa tuổi học sinh lớp Một thì nhận thức cảm tính chiếm ưu thế hơn nhận thức lý tính. Các em dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ công thức, kiến thức dựa trên mô hình, sơ đồ, hình ảnh động mà các em được trực tiếp quan sát. Các em rất tò mò, ham thích tìm hiểu toán học, tìm hiểu không gian xung quanh và các em cũng rất thích tham gia các hoạt động mang tính thực tiễn. Muốn làm được điều này, giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu tiềm ẩn, đồng thời giúp các em khơi nguồn sáng tạo ngay từ khi học lớp Một. Khơi dậy những tiềm năng này sẽ tạo nên hứng thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Là giáo viên trực tiếp dạy lớp Một. Tôi rất băn khoăn làm sao để các em có hứng thú, học tốt môn Toán vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh có hứng thú trong giờ học Toán. Phát huy tính tích cực, chủ động, rèn luyện phương pháp suy nghĩ từ đó giúp học sinh nắm bài tốt hơn, nhớ bài lâu hơn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu về các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: – Phương pháp điều tra. – Phương pháp trực quan. – Phương pháp đàm thoại. – Phương pháp trò chơi học tập. – Phương pháp luyện tập thực hành. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trí thông minh là sự tổng hợp, phối hợp nhịp nhàng các năng lực trí tuệ như: quan sát, ghi nhớ, óc tưởng tượng, năng lực tư duy mà đặc trưng là năng lực tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng những hiểu biết đã học để giải quyết vấn đề được đặt ra một cách tốt nhất. Môn Toán là môn học có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết. Muốn cho học sinh thích học môn toán thầy, cô giáo phải tìm mọi cách để gây hứng thú trong quá trình dạy học, gợi ra sự tò mò, ham hiểu biết, nắm được cái mới lạ mà giờ học toán sẽ đem lại cho các em. Một điểm đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng hướng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy, ở lớp Một, việc giúp học sinh học tốt môn Toán là hết sức cần thiết. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực trạng Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp Một, tôi nhận thấy các em học sinh lớp Một chưa có hứng thú khi học môn Toán. Nhiều em còn mơ hồ, lúng túng, chưa nắm chắc được kiến thức, nhanh quên các kiến thức đã học, một số em làm đúng kết quả nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được bản chất các kiến thức đã học. Kết quả khảo sát môn Toán của lớp 1d cuối năm học 2015 – 2016 Tổng số bài kiểm tra Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 27 bài 7 bài 25.9% 7 bài 25,9% 11 bài 40.8% 2 bài 7.4% 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên. Do các em mới chuyển giai đoạn từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo nên nhiều em chưa làm quen, bắt nhịp được với việc học tập đặc biệt là học môn Toán. Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm, khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế. Một số em chưa có động cơ học tập, chưa tự giác. Một số em còn rụt rè, nhút nhát, tự ti chưa dám bộc lộ hết khả năng của mình. 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện Đối với học sinh lớp Một, đi học thực sự là một bước chuyển, một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển trí tuệ, tâm lí và nhân cách của các em. Đa số các em khi mới chuyển từ Mầm Non sang Tiểu học các em còn bỡ ngỡ, rụt rè, lạ lẫm, chưa thích ứng được với môi trường mới, kém hứng thú với hoạt động học tập. Vì vậy tôi thấy việc đầu tiên phải làm đó là xây dựng “Lớp học thân thiện” Bởi vì: “Lớp học thân thiện” là nơi mà ở đó các em luôn vui vẻ, hoà đồng, đoàn kết thương yêu nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, sinh hoạt. Nơi đây, các em luôn nhận được sự thương yêu đoàn kết của bạn bè, của thầy cô giáo. Sự thân thiện đó thể hiện qua những việc làm cụ thể sau: Ngay từ ngày đầu vào lớp Một giáo viên phải trò chuyện với các em để tìm hiểu về gia đình, về sở thích, về tâm tư nguyện vọng của các em. Tạo bầu không khí vui vẻ, gần gũi, tôn trọng học sinh để các em cảm nhận được sự thoải mái khi tham gia việc học tập của mình. Nhẹ nhàng uốn nắn, sửa sai cho học sinh kịp thời, thường xuyên. Khen ngợi, động viên khi các em tiến bộ dù là rất nhỏ, để các em tự tin hơn, giúp các em thấy được thế mạnh của mình, đồng thời tạo dựng cho các em lòng tin vào bản thân, xoá đi nổi lo âu, sợ hãi trong lòng khi các em không làm được bài. Trong lớp tôi luôn nhắc nhở các em phải xưng hô với bạn bè đúng mực. Nhắc nhở các em thực hiện tốt nội qui của trường, của lớp. Biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như khi tham gia các hoạt động của lớp. Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút học sinh đến trường, đến lớp. Vì vậy tôi cũng rất quan tâm đến việc sắp xếp bàn, ghế cho ngay hàng, thẳng lối, lớp học luôn sạch sẽ. Trang trí thêm cho lớp học các câu khẩu hiệu “Thi đua dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, các bảng biểu, lẳng hoa, Được học tập trong môi trường, lớp học sạch đẹp, thân thiện, học sinh sẽ cảm thấy tự tin hơn, thích học hơn, yêu thầy, mến bạn hơn. Phát huy được tính tự giác, tích cực, phấn đấu học tốt hơn. 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy Toán. Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy học sinh lớp Một muốn học tốt môn Toán thì phải có đồ dùng trực quan. Đây là yêu cầu không thể thiếu được đối với từng học sinh ngay từ buổi đầu đến trường. Bởi vì xuất phát từ đặc điểm nhận thức của học sinh lớp Một từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đồ dùng của học sinh là một hộp gồm: 10 que tính, 10 hình tròn, tam giác, hình vuông. Bộ số từ 1 đến 10 và các dấu cộng, trừ bằng, dấu lớn, dấu bé. Muốn đạt được yêu cầu này giáo viên phải thông báo cho phụ huynh biết và chuẩn bị cho con mình ngay từ đầu năm học. Bộ đồ dùng toán này sẽ giúp cho học sinh lớp Một tự hình thành và xây dựng bài mới. Giúp cho học sinh nào cũng được làm việc độc lập. Tự mình khám phá, hiểu và vận dụng kiến thức Toán một cách chắc chắn, vững vàng, tự tin. Dựa vào đồ dùng toán của học sinh và bộ đồ dùng Toán của giáo viên, kết hợp với việc áp dụng công nghệ thông tin của giáo viên để giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn sao cho học sinh đi đúng hướng. Qua đó rèn cho các em tính độc lập, cẩn thận, chính xác, hào hứng khi học Toán. Ví dụ 1: Dạy bài: Số 6. Học sinh lấy 5 hình tròn lấy thêm 1 hình tròn có tất cả 6 hình tròn. Học sinh lấy 5 hình vuông lấy thêm 1 hình vuông có tất cả 6 hình vuông. Các em kiểm tra đếm lại 1, 2, 3, 4, 5, 6 trên các hình. Đếm lại theo nhóm. 5 1 ® 6 Chú ý học sinh lấy theo nhóm (5 hình tròn vàng thêm 1 hình tròn xanh) Giáo viên (sử dụng bộ đồ dùng của giáo viên) đưa hình ảnh nhóm 5 hình tròn màu vàng thêm 1 hình tròn màu xanh tất cả là 6 hình tròn, tiếp tục giáo viên đưa ra 6 bông hoa, 6 con gà để học sinh nhận biết số lượng là 6. Để học sinh nắm chắc cấu tạo số 6, giáo viên hướng dẫn học sinh lấy 6 que tính tách thành 2 phần tùy ý để có khái niệm như: 6 gồm 5 và 1 6 gồm 1 và 5 6 gồm 4 và 2 6 gồm 2 và 4 6 gồm 3 và 3 Qua đồ dùng học Toán của cô và trò đã giúp học sinh nhận biết khái niệm về số 6 một cách chắc chắn, nắm được cấu tạo số 6, nhận biết được số lượng trong phạm vi 6, số sáu được viết bằng chữ số 6 không phụ thuộc vào hình dáng, kích thước to lớn, nhỏ bé. Ví dụ 2: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 6. Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng cộng như sau: Yêu cầu học sinh lấy 5 hình tròn rồi lấy thêm 1 hình tròn nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 5 + 1 = 6 1 + 5 = 6 Yêu cầu học sinh lấy 4 hình tam giác rồi lấy thêm 2 hình tam giác nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 4 + 2 = 6 2 + 4 = 6 Tương tự như thế giáo viên yêu cầu học sinh lấy 3 hình vuông lấy tiếp 3 hình vuông nữa. Nhìn vào mô hình học sinh lập đề toán và sử dụng số, dấu +, dấu = trong bộ đồ dùng Toán để cài phép tính tương ứng 3 + 3 = 6 Như vậy học sinh đã lập được các phép cộng trong phạm vi 6 và khắc sâu được khái niệm phép cộng, thực hành làm tính cộng trong phạm vi 6 tương đối tốt. Được làm việc trên đồ dùng trực quan như vậy học sinh rất hứng thú, nhớ bài nhanh hơn, nhớ lâu hơn. Ví dụ 3: Khi dạy bài: Bài toán có lời văn (Toán 1 trang 115) Bài toán có lời văn đang còn rất mơ hồ đối với các em nên tôi đã sử dụng hình ảnh động để hướng dẫn: Bài 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên xuất hiện bài toán: Bài toán: Có .. bạn, có thêm bạn nữa đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Giáo viên hiệu ứng 1 bạn ra trước sau đó hiệu ứng tiếp 3 bạn chạy tới. Nhìn vào hình ảnh này học sinh dễ dàng viết ngay được số vào chỗ chấm để có bài toán đầy đủ. Tôi tiến hành tương tự như thế với bài 2 trang 115, bài 4 trang 116 sách Toán 1. Bài 2: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có con thỏ, thêm con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ?         Bài 4: Nhìn tranh viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có . Con chim đậu trên cành, có con chim nữa bay đến. Hỏi..? Việc đưa hình ảnh như vậy tôi thấy học sinh học rất sôi nổi, nắm bài tương đối tốt. Nhìn vào các hình ảnh này học sinh dễ dàng hoàn thành những phần còn thiếu của bài toán. Ví dụ 4: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 4 (Toán 1 trang 47) Tôi dạy bài này (bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động. Khi hình thành kiến thức mới, giáo viên hiệu ứng đưa hình 3 con chim đậu trên cành ra trước học sinh rất thích thú với hình ảnh này, sau đó giáo viên hiệu ứng tiếp thêm 1 con chim từ từ bay đến với ảnh này đã thu hút được sự chú ý của học sinh. Học sinh nhìn vào hình ảnh sẽ lập được đề toán và lập được phép tính tương ứng 3 + 1 = 4 với hình ảnh giáo viên vừa đưa ra, các em hào hứng quan sát để tiếp tục phát hiện ra phép tính khác như: 1 + 3 = 4 và đưa ra 3 + 1 cũng bằng 1 + 3 đều bằng 4 Qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Toán ở lớp Một đã giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp, kĩ năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Biện pháp này tạo cho lớp học sôi động, học sinh hào hứng học tập, 100% các em được tham gia vào bài mới. 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học Để học sinh học tốt môn toán người giáo viên cần phải dạy cho học sinh nắm chắc kiến thức từng bài, từng phần trong chương trình toán 1, hiểu cặn kẽ bản chất của kiến thức đó. Vì vậy khi dạy cho học sinh học toán, giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp, biện pháp thích hợp để học sinh nắm được các kiến thức bản chất nhất rồi từ đó làm cơ sở cho việc học các kiến thức tiếp theo. Ví dụ 1: Khi dạy học sinh làm tính cộng: 2 + 3 = 5. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các em có thể trả lời ngay được kết quả là 5, song nếu chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng. Cụ thể giáo viên cho học sinh thực hiện thao tác “gộp” hai nhóm đồ vật một nhóm có (2 đồ vật ) với một nhóm (có 3 đồ vật ) để tạo thành một nhóm lớn hơn bao gồm tất cả các đồ vật của hai nhóm đó (5 đồ vật). Để tìm được kết quả của phép cộng trên học sinh cần thực hiện đếm toàn bộ các đối tượng trong hai nhóm đồ vật và từ đây học sinh sẽ hiểu được vì sao 2 cộng 3 lại bằng 5 (2 + 3 = 5). Bằng các hình ảnh trực quan, động tác, hoạt động của học sinh để từ đó các em nắm được “động tác gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.” Từ các hình ảnh cụ thể, từ những hoạt động của chính mình, học sinh đã biết vận dụng các kiến thức về ý nghĩa phép cộng. Dần dần các em hiểu về phép cộng một cách trừu tượng, khái quát hơn, thông qua việc hình thành cấu tạo số để hình thành phép cộng một cách có cơ sở, từ đó mở rộng sự hiểu biết của mình. Ví dụ 2: Khi dạy phép cộng trong phạm vi 3, sau khi hiểu ý nghĩa phép cộng là: 2 gộp 1 là 3 thì sẽ có phép tính 2 + 1 = 3, học sinh đã biết khái quát hơn về ý nghĩa bằng cách dựa vào cấu tạo số Từ việc hiểu ý nghĩa để vận dụng dựa vào cấu tạo số như trên, học sinh cần được hiểu ý nghĩa phép tính cộng một cách toàn diện hơn, khái quát hơn, đầy đủ hơn: 2 gộp 1 được 3 2 thêm 1 được 3 ð 2 + 1 = 3 2 tăng 1 được 3  Khi dạy các số tròn chục, giáo viên gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi hướng dẫn học sinh là nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng 0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phép cộng, trừ các số tròn chục một cách thuận lợi. 30 + 50 = 80 80 – 30 = 50 Vì chữ số hàng đơn vị của các số tròn chục luôn bằng 0 (nên 0 đơn vị cộng với 0 đơn vị cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0) và (0 đơn vị trừ đi 0 đơn vị cũng cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0). Vì vậy học sinh chỉ cần cộng, trừ các chữ số ở hàng chục thì sẽ ra kết quả của phép tính. Ví dụ 3: Khi hình thành khái niệm “ Một chục” tôi hướng dẫn học sinh: + 10 que tính bó lại ta được 1 chục que tính + 10 quả trứng gà ta nói 1 chục trứng gà + 10 cái bát ta nói 1 chục cái bát. + 10 quả cam là 1 chục quả cam để rồi dẫn dắt học sinh nêu được: 10 đơn vị bằng 1 chục. (10 đơn vị = 1 chục) – Như vậy “chục” là đơn vị hàng cao hơn “đơn vị”. Trong cuộc sống ta hay nói: mua hai chục trứng, mua một chục bát, – Về số lượng 10 đơn vị và 1 chục là bằng nhau nhưng khác nhau về bản chất khái niệm. “Chục” là đơn vị hàng cao hơn, được hình thành qua đơn vị, để rồi chục lại là cơ sở hình thành các số lớn hơn tiếp theo. Ví dụ 4: Khi dạy giải toán có lời văn: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, và, tất cả, ” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh phân tích đề toán. Bài toán: Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả mấy con gà? Giáo viên hướng dẫn: – Bài toán cho biết gì? (Nhà Lan có 5 con gà) – Bài toán còn cho biết gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) – Bài toán hỏi gì? (Nhà Lan có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà em làm thế nào? (Lấy 5 + 4 = 9); hoặc: “Nhà Lan có tất cả mấy con gà ?” (có tất cả 9 con gà). – Em tính như thế nào để được 9 ? (Lấy 5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau đó nhấn mạnh để học sinh hiểu từ “con gà” phải viết trong ngoặc đơn vì nếu viết 5 + 4 = 9 con gà là sai. Nếu muốn được kết quả là 9 con gà thì phải viết 5 con gà + 4 con gà = 9 con gà. Nhưng việc viết một phép tính giải với các danh số như vậy là rất khó khăn và tốn nhiều thời gian với các em nên ta dùng cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết tắt của một câu văn: “5 + 4 = 9, 9 ở đây là 9 con gà”. Giáo viên hướng dẫn cách viết đáp số: Trong đáp số của bài toán thì không có phép tính và đáp số là trả lời cho câu hỏi của bài toán nên ta không đặt đơn vị “con gà” ở trong ngoặc đơn mà ghi như sau: Đáp số: 9 con gà. Giáo viên lưu ý:“Khi giải toán các em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (đáp số ở đây là 9 con gà). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán. Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, đáp số giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải. Một bài toán có nhiều cách đặt câu lời giải khác nhau chẳng hạn như: *Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và thay từ mấy bằng từ “số”, thêm từ “là” cuối câu để có câu lời giải: “Nhà Lan có tất cả số con gà là:” Bài giải Nhà Lan có tất cả số con gà là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 2: Đưa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ “Số” (viết trước từ con gà), thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải: “Số con gà nhà Lan có tất cả là:” Bài giải Số con gà nhà Lan có tất cả là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 3: Dựa vào câu hỏi của bài

Skkn Một Số Biện Pháp Tạo Hứng Thú Học Môn Âm Nhạc Cho Học Sinh Lớp 5

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

MỤC LỤC

Tên mục

Trang

I. Phần mở đầu………………………………………………………………………………………..1 I.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………………………1 I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………………………………….2 I.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………………………..2 I.4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………………………..2 I.5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………………………2 II. Phần nội dung…………………………………………………………………………………….2 II.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………………………………………..2 II.2. Thực trạng…………………………………………………………………………………………3 II.3. Giải pháp, biện pháp…………………………………………………………………………..5 II.4. Kết quả……………………………………………………………………………………………16 III. Phần kết luận, kiến nghị…………………………………………………………………..16 III.1. Kết luận…………………………………………………………………………………………16 III.2. Kiến nghị……………………………………………………………………………………….17 Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………………………….19 Trường Tiểu học Krông Ana

1

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Trường Tiểu học Krông Ana

2

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, từ khi nước ta bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp giáo dục được quan tâm hơn bao giờ hết, môn Âm nhạc cũng được chú trọng hơn vì những lợi ích trong việc phát triển hài hoà, toàn diện về nhân cách của học sinh. Qua môn học này học sinh có thể thấy được: Âm nhạc là một liều thuốc tinh thần, là hưng phấn trong học tập và thông qua môn học, học sinh cảm nhận được phần nào sự hấp dẫn của thế giới Âm nhạc. Ngoài ra, môn Âm nhạc sẽ cùng các môn học khác phát triển năng lực tư duy, trí tuệ sáng tạo và cung cấp cho các em một trình độ văn hoá Âm nhạc, góp phần đào tạo những người lao động phát triển, toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ (theo nghị quyết TW II của Đảng về mục tiêu giáo dục) Mặc dù môn Âm nhạc không đào tạo các em trở thành những ca sĩ, nghệ sĩ chuyên nghiệp mà chủ yếu giáo dục văn hóa Âm nhạc, làm cho các em yêu thích nghệ thuật, biết cảm thụ và nhận biết âm nhạc một cách sâu sắc. Hình thành ở học sinh một tâm hồn trong sáng, một thị hiếu âm nhạc lành mạnh, tư duy sắc sảo, tính sáng tạo, giàu tình cảm và hoạt bát hơn, phát triển tối đa những phẩm chất tốt đẹp của lứa tuổi học trò. Mặt khác, thông qua môn học nhằm phát hiện, bồi dưỡng những mầm non nghệ thuật tương lai cho đất nước. Là môn học mang tính nghệ thuật cao, nuôi dưỡng cho các em lòng đam mê học tập, luôn tự tìm tòi, sáng tạo, khám phá để nắm kiến thức áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Đó là những giá trị to lớn, những kết quả đạt được khi học Âm nhạc. Tuy nhiên, trên thực tế – tôi thấy phần đa học sinh lớp 5 vẫn rụt rè nhút nhát chưa có hứng thú, chưa yêu thích khi đến tiết học Âm nhạc. Có thể do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là: Đa số các bậc CMHS đều hướng con mình học tập các môn học kiến thức khác như Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh… nên các em có tâm lý không chú trọng đến môn Âm nhạc, lơ là khi đến tiết Âm nhạc. Một số em không có năng khiếu hát, múa dẫn đến không cảm thụ được Âm nhạc, nhiều HS không nắm được kiến thức Âm nhạc ban đầu nên các em cảm thấy chán nản không muốn học hoặc do hoàn cảnh gia đình một số em còn khó khăn không có thời gian học tập, bố mẹ chia tay nên tâm lý của các em mất đi sự hồn nhiên và là lứa tuổi đang thay đổi về suy nghĩ và cơ thể nên nhiều em e ngại không tự tin, không thích thú với việc biểu diễn trước tập thể ….. tất cả điều đó làm cho các em không yêu thích môn học, không cảm thấy hào hứng khi học Âm nhạc.

Trường Tiểu học Krông Ana

3

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Vậy làm thế nào để gây được sự hứng thú, sự yêu thích, lòng đam mê cho các em học sinh lớp 5 khi đến tiết học Âm nhạc ? Đây là nhiệm vụ rất cần thiết và đòi hỏi người giáo viên phải biết chọn lọc, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và làm thế nào để học sinh được học theo phương châm học vui – vui học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Âm nhạc, đạt thành tích cao trong các cuộc thi nghệ thuật các cấp. Qua nhiều năm giảng dạy môn Âm nhạc tiểu học, nắm bắt được tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là Hs Lớp 5, thực hiện đổi mới các phương pháp dạy – học, trao đổi với đồng nghiệp, tôi mạnh dạn trình bày “Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5″ với mong muốn tất cả các em học sinh Lớp 5 có hứng thú, niềm đam mê thực sự để khám phá kho tàng kiến thức rộng lớn của môn học mang tính nghệ thuật này. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu Áp dụng một số biện pháp trong các hoạt động dạy học và các hoạt động ngoại khóa để học sinh Tiểu học có hứng thú, niềm đam mê, yêu thích học môn Âm nhạc. Nhiệm vụ Áp dụng các biện pháp đó vào các tiết dạy nhằm tạo được tâm lí thoải mái, hào hứng, nâng cao ý thức học tập mỗi khi đến tiết Âm nhạc, đồng thời kích thích tiềm năng nghệ thuật, kĩ năng sáng tạo, phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc, góp phần học tốt các môn học khác. 3. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú cho học sinh lớp 5 trong các tiết học Âm nhạc. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu HS Lớp 5 – Trường TH Krông Ana. Năm học 2014 – 2015 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp so sánh Trường Tiểu học Krông Ana

4

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Phương pháp khảo nghiệm Phương pháp điều tra II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Như đã nói ở trên: Môn Âm nhạc Tiểu học không nhằm đào tạo HS trở thành những ca sĩ nhạc sĩ, những nhà hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp, mà chủ yếu là giáo dục văn hóa Âm nhạc, làm cho HS yêu thích và say mê hứng thú học tập môn Âm nhạc nói riêng và các môn học khác nói chung. Hứng thú trong học tập có thể làm nâng cao chất lượng giáo dục, nuôi dưỡng ở HS lòng ham muốn chính đáng trong việc không ngừng vươn tới những đỉnh cao của việc nắm kiến thức, luôn tìm tòi học tập cái mới và áp dụng vào thực tiễn. Những biện pháp tạo hứng thú trong bài viết này xuất phát từ 3 luận điểm cơ bản. Một là: Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự hoàn thiện kiến thức và tự rèn luyện kỹ năng, hai là: Nhiệm vụ khó khăn và quan trọng nhất của GV là làm sao cho học sinh thích học, ba là: Dạy học ở tiểu học phải làm cho HS cảm thấy biết thêm kiến thức của mỗi bài học ở mỗi môn học là có thêm những điều bổ ích, lý thú từ một góc nhìn cuộc sống. Với ba luận điểm này, tôi quan niệm rằng thực chất của việc dạy học là truyền cảm hứng và đánh thức khả năng tự học của người học. Còn nếu quan niệm người dạy truyền thụ, người học tiếp nhận thì người dạy dù có hứng thú và nỗ lực đến mấy mà chưa truyền được cảm hứng cho HS, chưa làm cho người học thấy cái hay, cái thú vị, giá trị chân thực mà tri thức đem lại thì giờ dạy vẫn không có hiệu quả. Học sinh chỉ tự giác, tích cực học tập khi thấy hứng thú. Hứng thú không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của GV. GV là người có vai trò quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS. 2.Thực trạng 2.1

Thuận lợi- khó khăn

Thuận lợi: – HS đã được tiếp xúc với Âm nhạc ngay từ khi còn nhỏ và trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Trường Tiểu học Krông Ana

5

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

– Đa số học sinh yêu thích môn học, có tâm lý thoải mái khi bước vào các tiết học Âm nhạc. Khó khăn: – Một số em HS còn lười học, có tâm lý lơ là không chú tâm đến môn học. – Khả năng tiếp thu bài của học sinh không đồng đều. 2.2 Thành công- hạn chế Thành công: – Vận dụng được nhiều phương pháp giảng dạy, áp dụng với các đối tượng HS. – HS đã có ý thức tự giác hơn khi học tiết Âm nhạc, hăng say phát biểu. – HS chịu khó tìm tòi, sáng tạo hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, nắm tốt các kiến thức Âm nhạc của chương trình. Hạn chế: – Cơ sở vật chất còn hạn chế nên việc sử dụng ĐDDH, phương pháp dạy học trực quan còn chưa được thường xuyên. 2.3 Mặt mạnh- mặt yếu Mặt mạnh: – Phát huy tối đa ĐDDH sẵn có. – Tạo được môi trường học tập công bằng, thân thiện, hứng thú. Mặt yếu – Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, ý thức vượt khó chưa cao. – Một số gia đình hướng con em vào các môn học như Toán, Tiếng Việt, vì vậy còn xem nhẹ bộ môn Âm nhạc. – Đồ dùng dạy – học cho bộ môn chưa đầy đủ.

Trường Tiểu học Krông Ana

6

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động… * Nguyên nhân của thành công – Được sự quan tâm của các cấp Lãnh đạo và Nhà trường đã tạo điều kiện tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học môn Âm nhạc như đàn Organ, một số nhạc cụ gõ đệm. – Đa số học sinh ngoan, yêu thích học môn Âm nhạc – Có sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp trong việc góp ý về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giúp học sinh tiến bộ. – Bản thân luôn nghiên cứu tham khảo tài liệu, tìm tòi sáng tạo và học hỏi kinh nghiệm để lựa chọn, đưa ra những phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao kiến thức về dân ca cũng như phương pháp dạy hát dân ca. * Nguyên nhân của hạn chế CSVC của môn Âm nhạc tuy có nhưng chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu cần thiết để dạy Âm nhạc, không gian lớp học còn chật hẹp chua đáp ứng được khi tổ chức hoạt động biểu diễn các bài hát. Thiếu tài liệu, tư liệu về dạy các nội dung Âm nhạc thường thức, giới thiệu các nhạc cụ dân tộc, nhạc cụ phương tây, tranh ảnh các câu chuyện Âm nhạc trường Tiểu học (chủ yếu là giáo viên tự sưu tầm và tự làm phục vụ quá trình giảng dạy nên chất lượng chưa được đảm bảo). Nhận thức của một số học sinh còn xem môn học âm nhạc là một môn phụ, các em chỉ quan tâm đến môn học mà các em đã định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này nên một số học sinh chưa thực sự hứng thú với môn học, tạo nên sự khô khan cứng nhắc trong môn học. Đặc biệt ở học sinh lớp 5, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi về đặc điểm tâm sinh lý, các em bắt đầu có sự e ngại, chất giọng cũng có sự thay đổi, sự hồn nhiên của các em đã có sự giảm sút. Một số em đã tỏ ra không thích hay còn e ngại khi trình bày một bài hát trước tập thể lớp… 2.5

Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.

Có thể hiểu rằng hứng thú học tập là thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc học, được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý, tập trung, sự ham Trường Tiểu học Krông Ana

7

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

Những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài nhằm tổng kết các phương pháp, kĩ năng thu được từ thực tiễn giảng dạy. Mặt khác nhằm trao đổi với các giáo viên dạy Âm nhạc về việc vận dụng các phương pháp vào trong giảng dạy giúp học Trường Tiểu học Krông Ana

8

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

9

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

10

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

ra cho các em cảm giác thua bạn, tiết học sẽ trở nên nhẹ nhàng, các em sẽ hứng thú, sẵn sàng để tiếp tục bước vào nội dung học tiếp theo.

Học sinh xung phong biểu diễn những động tác tự chuẩn bị .

Trường Tiểu học Krông Ana

11

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Xung phong biểu diễn theo nhóm 3. Tổ chức nhiều hình thức học tập Ngoài việc khai thác sự hứng thú trong nội dung dạy học, chúng tôi Lê Phương Nga cho rằng: “Hứng thú của học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em”. Vì vậy, tôi thường áp dụng những hình thức dạy học sau, tôi thấy học sinh rất say mê hứng thú khi học Âm nhạc: Tổ chức trò chơi học tập Trò chơi âm nhạc là một hoạt động thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy âm nhạc theo chương trình bậc Tiểu học. Trò chơi âm nhạc nhằm giúp giáo viên thay đổi các hình thức hoạt động trong tiết dạy và giúp HS thư giãn, hứng thú theo tinh thần chơi mà học âm nhạc. Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Tùy vào từng nội dung bài học. Tôi thường cho HS chơi những trò chơi sau: * Tiết học bài mới, hoạt động hát kết hợp gõ đệm theo nhịp 3, tôi hướng dẫn từng cặp 2 HS quay mặt vào nhau, miệng đếm 1-2-3 nhịp nhàng kết hợp với gõ đệm theo phách của nhịp ¾ như sau: – Phách 1 (mạnh): Từng HS tự vỗ 2 tay mình 1 tiếng. – Phách 2 (nhẹ): Vỗ tay phải HS này vào tay trái HS kia. – Phách 3 (nhẹ): Vỗ tay trái HS này vào tay phải HS kia. Hoặc HD hát đối đáp là cách hát chia ra “phần xướng” (hát 1 người) và “phần xô” (hát tập thể); Hoặc cách hát chia một nhóm hát “phần hỏi” và một nhóm hát “phần đáp”. Hoặc hướng dẫn HS hát nối tiếp: chia lớp thành 2 nhóm hát nối tiếp nhau từng câu hát: Ví dụ: + Nhóm A hát câu 1: Cùng nhau cầm tay đi đến thăm các thầy các cô + Nhóm B hát câu 2: Lời hát rộn rã bao bé em bước trên đường phố + Nhóm A hát câu 3: Ngàn hoa nở tươi khoe sắc hương dưới ánh… + Nhóm B hát câu 4: Náo nức tiếng cười, say sưa yêu đời……. Trường Tiểu học Krông Ana

12

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Với các hoạt động trên, HS rất hào hứng, bởi các em được làm việc theo nhóm, có sự hợp tác của các bạn, những em HS không có năng khiếu cũng cảm thấy tự tin nắm được kiến thức, những em có năng khiếu thì khẳng định được mình. * Tiết Ôn tập bài hát: Để tạo hứng thú và sự bất ngờ cho HS, trước khi giới thiệu bài tôi cho HS chơi trò chơi: “Xem tranh đoán bài hát”: Tôi treo tranh minh họa cho bài hát và cho HS thi đua đoán tên bài hát, tác giả. Sau khi HS đoán đúng tên bài hát và tác giả tôi mới giới thiệu vào bài mới. Hoặc trò chơi: “Ghép tranh đoán bài hát”: tôi chuẩn bị bức tranh nội dung miêu tả bài hát rồi cắt ra nhiều mảnh rồi cho HS thi đua cá nhân hoặc theo nhóm ghép bức tranh lại nhanh và chính xác nhất. Ghép xong yêu cầu HS đoán tên bài hát và tác giả của bài hát. Ví dụ: Tiết 23:Ôn tập bài hát: Tre ngà bên Lăng Bác

13

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

(hay cá nhân) một bài hát tự chọn đã học. Sau đó yêu cầu HS nhắc lại cách đi như thế nào là đúng Luật giao thông… Hoặc sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát, tôi hướng dẫn HS chơi trò chơi: “Hát thay lời ca bằng chữ cái”. Tôi làm kí hiệu tay theo các chữ cái A, U, I. Khi GV đưa tay theo kí hiệu, HS hát giai điệu với các chữ cái theo kí hiệu GV hướng dẫn trước lớp Ví dụ: Bài hát: Con chim hay hót. Câu 1, GV đưa tay kí hiệu chữ A, HS hát “A” theo giai điệu của câu 1. “À à, à à a à á a” Câu 2, Gv đưa tay kí hiệu chữ U, HS hát “U”theo giai điệu của câu 2.”U ú u uù ụ ù u u ù u”. GV tiếp tục thay đổi các kí hiệu khác cho đến hết bài hát. Trò chơi này giúp các em thay đổi không khí học tập, đồng thời để kiểm tra việc ghi nhớ giai điệu của HS Trò chơi “Ai nhanh tai hơn” cũng giúp HS mau thuộc lời ca, phát triển tai nghe một cách nhanh nhất. Ví dụ: Sau khi học xong bài hát, tôi sử dụng nhạc cụ, đàn giai điệu một câu nhạc bất kì, yêu cầu HS nghe và hát lại câu có giai điệu vừa nghe. Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát, vừa giúp học sinh nắm kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú cho HS học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khác. Tổ chức hoạt động học theo nhóm Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập một cách có hiệu quả mà vẫn tạo được không khí thi đua hào hứng sôi nổi trong học tập. Học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm để học sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc. Có nhiều hình thức tổ chức học tập như: cá nhân, tổ, nhóm, dãy… Tuy nhiên tùy theo từng mục tiêu HS cần đạt được mà tôi lựa chọn, phối hợp một cách hợp lý các hình thức học tập. Tôi thường cho học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá rộng và khó, cần sự góp ý của nhiều người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và đạt hiệu quả

Trường Tiểu học Krông Ana

14

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

15

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

+ Các nhóm lên trình bày. Sau khi HS trình bày, tôi phỏng vấn học sinh đóng – Vì sao em lại ứng xử như vậy ?

16

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Thay đổi không gian học tập cũng tạo được sự hứng thú cho HS và cũng góp phần đến thành công của tiết dạy. Đối với lứa tuổi hiếu động như HS lớp 5. Thay đổi không gian học tập cũng là một hứng thú đối với các em. Chính vì vậy, đối với một số tiết học tôi tổ chức cho HS học tập ở một vài không gian khác nhau như: Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để HS quan sát thiên nhiên, có không gian biểu diễn, chơi các trò chơi… nhằm gây hứng thú, sự tích cực học tập cho các em. Tổ chức tiết học ngoài trời sẽ giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng và ghi nhớ tốt, không phải tri giác gián tiếp qua các phương tiện dạy học. Các em có điều kiện gần gũi, hiểu biết về thiên nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống xung quanh. Hoạt động ngoài lớp còn là cơ hội để các em bộc lộ cá tính, năng khiếu, sở trường, đồng thời có tác dụng hình thành thói quen hợp tác, tương trợ, học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, trong môn Âm nhạc, nhiều bài hát gắn liền với địa phương, nơi HS đang sinh sống nên việc dạy học ngoài không gian lớp học lại càng quan trọng. Ví dụ: Tiết 23 Ôn tập 2 bài hát: Hát mừng, Tre ngà bên lăng Bác Tôi thay đổi không gian lớp học bằng cách cho HS ra sân xếp thành vòng tròn vừa hát vừa biểu diễn, sau khi biểu diễn 2 bài hát, tôi thường lồng ghép một số câu hỏi hoặc trò chơi để liên hệ giáo dục tình cảm thái độ của HS về kiến thức địa phương, hay ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh trường lớp ….. Hoặc với những tiết Tập biểu diễn bài hát. Khi bắt đầu tiết học, tôi cho HS sắp xếp bàn ghế theo hình chữ U, cách sắp xếp bàn ghế này tạo cho lớp học có không gian biểu diễn đồng thời tất cả HS được quan sát các bạn biểu diễn cũng như thúc đẩy quá trình học tập sáng tạo, ý thức tự giác, niềm đam mê học tập, háo hức được cùng các bạn tham gia biểu diễn. 4. Phát huy hiệu quả của ĐDDH Muốn gây hứng thú cho HS, theo tôi việc sử dụng ĐDDH là rất quan trọng, Tuy nhiên đồ dùng cần phải đáp ứng được tính thẩm mĩ không tùy tiện cẩu thả, phong phú đa dạng và phải phù hợp với nội dung bài học. Mỗi tiết dạy có sự đặc trưng riêng về cách tổ chức lớp và có những sáng tạo riêng của từng giáo viên. Đặc biệt đối với môn Âm nhạc lớp 5, việc sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy là hết sức cần thiết vì giáo viên không thể thao thao bất tuyệt với lý lẻ suôn hay chỉ hát “chay” từ ngày này qua ngày khác sẽ khiến học sinh nhàm chán và thiếu phấn khởi trong học tập. Vì đây là môn năng khiếu cần có sự bồi đắp và vun dưỡng từ giáo viên để tạo cơ hội cho những học sinh có năng khiếu bộc lộ mình, các em học HS không có năng khiếu cũng sẽ hiểu bài một cách chủ động hơn. Trong tất cả các tiết dạy, tôi chuẩn bị đầy đủ các đồ dụng dạy – học sẵn Trường Tiểu học Krông Ana

17

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

có để hỗ trợ việc dạy và học Âm nhạc như: Thanh phách, song loan, đàn Organ, băng đĩa, tranh phóng to các bài TĐN của lớp 5. Hoặc những nhạc cụ do các em tự chế như: chai nước nhựa, thanh tre nhỏ, những chiếc đũa… tất cả các đồ dùng dạy học trên sẽ mang lại một tiết học sôi nổi đầy hào hứng. Tuy nhiên, nếu GV không biết phối hợp hoặc sử dụng những ĐDDH không thành thạo thì cũng không mang lại hiệu quả cao cho tiết dạy. Việc sử dụng thành thạo đàn Organ cũng là một yếu tố quan trọng. Cách bỏ hợp âm, dạo nhạc cũng sẽ thu hút HS hào hứng học hát và hát đúng giai điệu, vì vậy tôi thường xuyên học tập, sáng tạo, đổi mới cách đệm phù hợp với sắc thái của từng bài hát, sao cho tất cả các đối tượng HS đều biết hát đúng giai điệu hoặc ít nhất là hát theo giai điệu của bài hát.

Sử dụng đàn Piano và Organ trong các tiết dạy Âm nhạc

Cùng với đàn Piano và Organ, thì thanh phách và song loan cũng là những nhạc cụ không thể thiếu trong môn Âm nhạc. Vì đây là những nhạc cụ giúp HS nắm chắc tiết tấu của bài hát và các bài TĐN một cạch nhẹ nhàng dễ hiểu. Đối với từng bài học tôi cho các em sử dụng các nhạc cụ cho phù hợp. Ví dụ: Đối với bài hát nhịp 3 như bài Tre ngà bên lăng Bác, tôi cho các em dùng tay để vỗ theo phách HS sẽ dễ nhớ hơn, vì đây là cách gõ đệm khó, khi dùng nhạc cụ sẽ gây ồn ào các em khó hình dung ra phách của nhịp 3. Nhưng đối với bài hát Con chim hay hót thì nhạc cụ gõ làm cho các em sôi nổi hào húng khi gõ đẹm theo nhịp….. Trường Tiểu học Krông Ana

18

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

Ngoài các đồ dùng dạy học kể trên, thì giáo án điện tử cũng là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho giáo viên. Qua thực tế giảng dạy. tôi nhận thấy hầu hết các em HS Tiểu học nói chung, các em lớp 5 nói riêng rất thích được học những tiết học bằng máy chiếu bởi vì cùng một lúc các em được nghe âm thanh, hình ảnh, màu sắc sinh động. HS hứng thú học tập và dễ dàng tiếp thu bài nhờ những hình ảnh, âm thanh, những tư liệu giúp HS khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập, vì vậy, tôi tăng cường thực hiện một số tiết day bằng GAĐT. Khi giảng dạy, tôi kết hợp hài hòa giữa màn hình với lời giảng và giữa màn hình với ghi bảng sao cho linh hoạt uyển chuyển giúp cho tiết dạy được sinh động hơn, HS học tập hứng thú hơn, hạn chế cách dạy khô khan Tuy nhiên, đối với các tiết dạy bằng GAĐT, GV phải thật sự có ý thức học hỏi, khai thác và sử dụng có chọn lọc những tư liệu quý trên Internet. Đừng quá tham lam tư liệu, có bao nhiêu cũng đưa vào bài giảng, làm cho bài giảng dễ bị loãng nhàm chán không thu hút được sự hào hứng của tiết dạy. 5. Đổi mới quan niệm và cách thức kiểm tra, đánh giá Một trong những nguyên nhân khiến học sinh không thích học là do cách đánh giá bằng lời và cho điểm của chúng ta không thỏa đáng. Theo chúng tôi Lê Phương Nga: “Phải đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của học sinh tiểu học theo một chiến lược dạy học lạc quan – đó là nhấn mạnh vào mặt thành công của học sinh”. Áp dụng Thông tư 30 vào công tác giảng dạy và đánh giá học sinh. Để tạo hứng thú cho học sinh, trong các tiết dạy tôi thường xuyên động viên, khích lệ những kết quả của các em: Nhận xét bằng lời trực tiếp khi giảng dạy, nhận xét vòa vở của học sinh, nhận xét trong sổ theo dõi hàng tháng, cuối kì và cuối năm học. Khi nhận xét tôi luôn chú trọng vào mặt thành công của các em, tôn trọng những sáng tạo của HS, dù rất nhỏ, đồng thời, tập cho mình có một cách nhìn: Học sinh tiểu học em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi. Vì vậy đòi hỏi phải thật nghiêm khắc và đặt ra yêu cầu cao với bản thân mình có nghĩa là không cho phép chúng ta khắt khe trong đánh giá và chặt chẽ khi nhận xét HS. Khi HS đạt được thành công trong học tập sẽ tạo ra hứng thú và niềm say mê học tập, niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học hỏi. 3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện tốt các vấn đề đã được đề cập trong nội dung sáng kiến, cần có những điều kiện sau đây:

Trường Tiểu học Krông Ana

19

Đỗ Thị Thu Hà

Một số biện pháp tạo hứng thú học môn Âm nhạc cho học sinh Lớp 5

20

Đỗ Thị Thu Hà

Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!