Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Mĩ Thuật Ở Tiểu Học Theo Chủ Đề Đan Mạch mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Mĩ thuật là một trong những môn nghệ thuật. Nếu dạy học là khó thì dạy nghệ thuật càng khó, cần phải mang tính nghệ thuật cao hơn. Vì học mĩ thuật đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp có ở trong mình, xung quanh mình, gần gũi và đáng yêu. Đồng thời mĩ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình và biết thưởng thức nó ngay trong sinh hoạt thường ngày của mình, làm cho cuộc sống thêm hài hoà hạnh phúc. Nếu muốn có những tiết học hay, muốn có những bài vẽ đẹp của các em thì những yếu tố quyết định chất lượng của việc dạy và học chính là khả năng dẫn dắt, truyền đạt kiến thức của mỗi giáo viên. Để có được điều đó ngoài năng khiếu sư phạm, mỗi giáo viên cần phải có những kinh nghiệm qua cả một quá trình giảng dạy. Nhưng làm thế nào để rút ra được những kinh nghiệm lại là cả một vấn đề. Giáo viên có thể tham khảo tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, nhưng cái chính là phải tự thân vận động của mỗi cá nhân, có như thế mới xử lý linh hoạt các tình huống sư phạm, không rập khuôn, lý thuyết.
MỤC LỤC I. MỤC LỤC Trang 01 I. MỞ ĐẦUTrang 02 1. Lí do chọn đề tài......Trang 02 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Trang 03 3. Đối tượng nghiên cứu..........Trang 03 4. Phương pháp nghiên cứu.....Trang 03 II. NỘI DUNG SKKN........Trang 04 1. Cơ sở lí luận......Trang 04 2. Thực trạng.....Trang 05 2.1. Thực trạng chung .....................................................................Trang 05 2.2. Thực trạng về giáo viên và học sinh.Trang 05 3. Các giải pháp thực hiện.. Trang 07 3.1. Lập kế hoạch bài học theo phương pháp mới của Đan Mạch. .Trang 07 3.3. Vận dụng 7 quy trình mĩ thuật mới phù hợp với HS tiểu học .....Trang 09 3.4.Tạo không khí lớp học............................................................... Trang 10 3.5. Việc nhận xét, đánh giá sản phẩm của học sinh.............................. Trang 11 4. Hiệu quả của SKKN ............Trang 12 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trang 13 1. Kết luận . ...... Trang 13 2. Kiến nghị . ..... Trang 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO .... Trang 15 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Mĩ thuật là một trong những môn nghệ thuật. Nếu dạy học là khó thì dạy nghệ thuật càng khó, cần phải mang tính nghệ thuật cao hơn. Vì học mĩ thuật đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp có ở trong mình, xung quanh mình, gần gũi và đáng yêu. Đồng thời mĩ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình và biết thưởng thức nó ngay trong sinh hoạt thường ngày của mình, làm cho cuộc sống thêm hài hoà hạnh phúc. Nếu muốn có những tiết học hay, muốn có những bài vẽ đẹp của các em thì những yếu tố quyết định chất lượng của việc dạy và học chính là khả năng dẫn dắt, truyền đạt kiến thức của mỗi giáo viên. Để có được điều đó ngoài năng khiếu sư phạm, mỗi giáo viên cần phải có những kinh nghiệm qua cả một quá trình giảng dạy. Nhưng làm thế nào để rút ra được những kinh nghiệm lại là cả một vấn đề. Giáo viên có thể tham khảo tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, nhưng cái chính là phải tự thân vận động của mỗi cá nhân, có như thế mới xử lý linh hoạt các tình huống sư phạm, không rập khuôn, lý thuyết. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Tìm ra những cơ sở lí luận, các phương pháp dạy học, tìm ra những cái hay, cái đẹp những vấn đề thường gặp, những tình huống và những cái còn hạn chế để có những biện pháp khắc phục những gì chưa làm được. 3. Đối tượng nghiên cứu: 4. Phương pháp nghiên cứu: Để việc nghiên cứu đạt được kết quả tốt tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp: 1. Phương pháp vấn đáp: Là phương pháp mà giáo viên sẽ dùng một hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời bằng miệng nhằm thu được những thông tin nói lên nhận thức hoặc thái độ của cá nhân đối với vấn đề học bộ môn Mĩ thuật theo phương pháp mới. 2. Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo dục trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động dạy - học cho ta những tài liệu về thực tiễn để có thể nắm bắt một cách hiệu quả và chính xác. Thông qua quá trình quan sát, giáo viên ghi nhận lại tình hình học tập của học sinh, những vấn đề nảy sinh trong quá trình giảng dạy nhằm tìm ra biện pháp giải quyết thích hợp nhất. 3. Phương pháp trải nghiệm: Giáo viên giúp cho HS có những trải nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển khả năng sáng tạo và biểu đạt . Giáo viên phải chủ động tác động vào học sinh và quá trình dạy - học để hướng theo mục tiêu dự kiến của mình.[1] 4. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng và tổng hợp các kết quả thu được qua quá trình nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của giải pháp. Để vấn đề nghiên cứu được thực hiện có hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra thì giáo viên phải thực hiện tốt việc áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới thì hiệu quả giáo dục chắc chắn sẽ cao. Cùng với những quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan Mạch kích thích sự tư duy, sáng tạo của học sinh.[1] Nếu giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế thì sẽ không còn gặp khó khăn gì. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời còn nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách một con người, chuẩn bị tốt cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động để học sinh tiếp tục học lên trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và nguyện vọng bằng những hình thức thích hợp". Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ trong trường Tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo dục khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh. Chính vì vậy việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hoá thẩm mĩ là hết sức cần thiết. Ở løa tuæi häc sinh tiÓu häc c¸c em cßn qu¸ nhá v× vËy c¸c em thÝch vÏ theo ý cña m×nh h¬n lµ vÏ theo sù hưíng dÉn cña gi¸o viªn. NghÜ g× lµ vÏ nÊy, ®ặt bót lµ vÏ kh"ng theo tr×nh tù, khu"n khæ c¸c bưíc vÏ. ThËm chÝ trong qu¸ tr×nh lµm bµi, c¸c em cßn kh"ng muèn cho gi¸o viªn hay c¸c b¹n nh×n thÊy sî c¸c b¹n hay c" gi¸o nh×n thÊy l¹i chª. ChÝnh v× vËy mµ người gi¸o viªn cÇn hiÓu vµ hướng dÉn c¸c em dÇn dÇn, ®Ó c¸c em n¾m b¾t vµ thÊy được t¸c dông cña viÖc vÏ tranh ®óng ®em l¹i cho bµi vÏ cña m×nh cã mét kÕt qu¶ tèt. Để tổ chức hiệu quả các hoạt động giáo dục mĩ thuật ở trường tiểu học người giáo viên có thể thấy vai trò của mình là cầu nối giữa phương pháp, nhà trường với học sinh, tạo thành một hệ thống liền mạch, chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Phải biết xây dựng kế hoạch, tạo điều kiện cho HS học qua nhiều kênh hình, kênh chữ, xây dựng được môi trường học tập thân thiện. Quá trình học chính là sự tích lũy thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Dự án này nhằm truyền cảm hứng cho giáo viên dạy Mĩ thuật để hỗ trợ học sinh phát triển khả năng tiếp thu thẩm mĩ và sáng tạo, bằng cách khuyến khích các em trải nghiệm, sáng tạo, bày tỏ, hợp tác và giao tiếp với nhau qua các hoạt động mĩ thuật thực tế. Thông qua hoạt động thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách biểu đạt, phân tích, đánh giá, lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực ở cá nhân. Cùng lúc với việc phát triển những năng lực này, học sinh cũng có thể phát triển các giác quan, các kĩ năng sống, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, các năng lực hợp tác, khả năng tự học và tự đánh giá, phân tích, trình bày. [1] 2. Thực trạng: 2.1. Thực trạng chung. 2.2. Thực trạng về giáo viên và học sinh. * Về phía giáo viên: * Về học sinh: Đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng và có kết quả như sau: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ CỦA HỌC SINH Lớp Sĩ số Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % 3B 21 16 76 % 5 24% 3. Các giải pháp thực hiện. 3.1. Lập kế hoạch bài học theo phương pháp mới của Đan Mạch. Khi dạy học dưới bất cứ phương pháp nào đều yêu cầu giáo viên phải lập được kế hoạch dạy học hoàn chỉnh. Đó không chỉ là đơn thuần thực hiện cho đúng nhiệm vụ khi lên lớp mà nó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của mỗi giáo viên đối với học sinh. Có thể nói việc lập kế hoạch giảng dạy tốt là đã thành công một nửa của quá trình dạy học. Giáo viên là người điều khiển quá trình và tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy bằng các câu hỏi mở và khuyến khích các em chia sẻ những kinh nghiệm sẵn có của mình. Điều này tạo ra nền tảng cần thiết để giúp các em kiến tạo được quy trình học tập của mình bằng cách liên hệ những điều đã biết với những điều sẽ học. Khi lập kế hoạch giáo viên phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp để điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp và sát với khả năng tiếp thu của học sinh. Kế hoạch cho từng hoạt động hoặc cho toàn bộ quy trình theo phương pháp Đan Mạch có thể ngắn, dài và kết nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với nhau, kết thúc hoạt động này sẽ là mở đầu cho hoạt động tiếp theo Cụ thể khi xây dựng kế hoạch dạy học theo phương pháp mới, giáo viên cần phải chú ý tới.[2] Mục tiêu bài học: Mỗi bài học, tiết học đều có mục tiêu chung là hướng tới hình thành cho học sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng lời nói, học sinh tưởng tượng và sáng tạo được một câu chuyện bằng ngôn ngữ mĩ thuật. Điều kiện tiên quyết: Đó là những yêu cầu thiết yếu để quá tình giảng dạy có hiệu quả, bao gồm: Tạo điều kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý khả năng, phong cách học của từng học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học sinh và chiến lược học tập;xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền cảm hứng cho các em.[1] Môi trường học tập: Học tại lớp, học ở phòng chức năng hay sân trường. Môi trường học tập thoải mái sẽ hỗ trợ rất nhiều cho quá trình dạy và học.[1] Đánh giá: Đánh giá từng giai đoạn và đánh giá cả quá trình thực hiện.[1] S TT CHỦ ĐỀ SỐ TIẾT MỤC TIÊU GIÁO DỤC QUY TRÌNH THỰC HIỆN TUẦN 1 Mùa hè của em 3 - Kể ra được các hoạt động đặc trưng của các em trong mùa hè. Lựa chọn các hoạt động yêu thích và tạo hình được dáng người phù hợp với hoạt động đó. - Giới thiệu nhận xét và nêu cảm nhận về sản phẩm của nhóm mình, nhóm bạn. Vẽ cùng nhau, tạo hình 3D 1,2,3 2 Những con vật sống dưới nước 2 - Nhận ra và nêuSkkn Một Số Phương Pháp Dạy Và Học Môn Mĩ Thuật Đan Mạch Ở Tiểu Học
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC MÔN MĨ THUẬT ĐAN MẠCH Ở TIỂU HỌC”.
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN PHONG CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG TH SỐ 2 SÁN CHẢI HUYỆN SI MA CAI – TỈNH LÀO CAI NĂM THỰC HIỆN: NĂM HỌC 2016 – 2017
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo, để hình thành nhân cách cho trẻ phát triển toàn diện. Do vậy, việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh tiểu học là một trong những yếu tố vô cùng cần thiết. Thông qua môn Mĩ thuật, sẽ trang bị cho các em một số kiến thức, kĩ năng cơ bản về hội họa, tiếp thu những tinh hoa của nền Mĩ thuật dân tộc. Từ đó, phát huy óc sáng tạo và tính thẩm mĩ góp phần phát triển năng khiếu, phát hiện tài năng và bồi dưỡng nhân tài cho thế hệ tương lai. Đối với bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên, là cơ sở ban đầu để con người có thể tiếp thu được vốn tri thức ở các cấp học tiếp theo, cũng như mọi tri thức khoa học hiện đại. Bấy lâu nay, mọi người thường chú trọng đến các lớp cuối Trung học phổ thông mà coi nhẹ các lớp Tiểu học, điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục phát triển toàn diện và mang nhiều khó khăn tới giáo viên trực tiếp giảng dạy. Chủ trương của Bộ giáo dục và đạo tạo đề ra là ” đến cuối lớp 5 các em phải đọc thông viết thạo, tính toán nhanh và am hiểu tự nhiên xã hội, biết cách ứng xử với mọi người.” Vậy nên trong môn học Mĩ thuật cũng vậy, đây là một môn năng khiếu, đòi hỏi các em phải có tính sáng tạo, độc lập trong học tập, để từ đó các em có thể vận dụng một cách linh hoạt vào các môn học khác một cách có hiệu quả. Vì thế, để các em chủ động trong học tập là điều mà những giáo viên như tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao được chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học. Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài : ” Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học.” II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu : Học sinh từ khối 1 đến khối 5 của Trường Tiểu học số 1 Noong Hẻo . 2. Phạm vi nghiên cứu : 2
Trong trường Tiểu học số 1 Noong Hẻo và một số trường khác trong địa phương. + Trong trường : – Phân loại học lực của tất cả các học sinh. – Tìm hiểu thái độ học tập của học sinh. + Trường khác : – Tìm hiểu việc giảng dạy Mĩ thuật ở trường Tiểu học. – Kết quả hoạt động qua một số năm. 3. Phương pháp nghiên cứu: a) Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: – Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (Nghiên cứu qua các văn bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học môn Mĩ thuật.) b) Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: – Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh. – Dự dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn Mĩ thuật. – Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới. – Tìm giải pháp rút kinh nghiệm. – Cho học sinh hoạt động ngoài trời, tham quan, toạ đàm. – Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp mà mình đề ra. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Qua thời gian công tác và giảng dạy trực tiếp tại trưòng Tiểu học số 1 Noong Hẻo, với nhiệt huyết muốn cống hiến hết mình của một giáo viên trẻ. Tôi luôn mong muốn lên lớp, đứng trước các em học sinh, truyền đạt tất cả những kiến thức mà mình có cho các em. Trước những ánh mắt thơ ngây, hồn nhiên, chăm chú nhìn tôi, tôi tự thấy được vai trò của mình, vai trò của một người thầy đứng trên bục giảng. Trong mỗi tiết dạy, tôi 1uôn cố gắng làm sao có thể truyền đạt kiến thức của mình tới các em một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và dễ hiểu nhất. 3
Vì là một giáo viên trẻ, tôi có nhiều điều kiện để tự học hỏi, tìm tòi và tiếp thu các phương pháp hay và mới lạ từ bạn bè đồng nghiệp, cộng với sự gắn bó với các em học sinh dân tộc vùng sâu, vùng xa tôi đã phần nào hiểu được hoàn cảnh của các em. Tuy các em còn thiếu thốn về nhiều mặt nhưng các em rất say mê học tập nhất là đối với bộ môn Mĩ thuật. Do vậy, tôi luôn suy nghĩ và nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm này với mục đích tìm ra một số giải pháp tốt nhất góp phần nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của trường tiểu học số 1 Noong Hẻo nói riêng và ở trường Tiểu học khác nói chung, đó chính là mục đích mà tôi nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này. IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Với đề tài này tôi chọn nghiên cứu hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc dạy và học môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học đạt kết quả cao. Mặt khác sẽ là cơ sở cho các đồng nghiệp của tôi ở trong huyện, tỉnh vận dụng vào từng bài để nâng cao chất lượng bộ môn Mĩ thuật. * Tôi nhận thấy ở đề tài này có những điểm mới sau: + Về phía giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, lời nói cử chỉ có phần mềm dẻo hơn, hoạt động của giáo viên trên lớp ít (chủ yếu là giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động) mà đem lại hiệu quả cao. + Về phía học sinh các em biết tự khám phá những điều mới lạ trong bài học, theo cách nghĩ và cách hiểu của mình một cách độc lập tích cực, biết cảm nhận được những cái hay, cái đẹp từ những bài học cụ thể mà các em được học, được làm quen. B. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐÈ TÀI.
1. Cơ sở pháp lý: Nghị quyết trung ương II khoá VIII Tiếp tục khẳng định đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy 4
sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phát triển hiện đại vào quá trình dạy học đảm bảo. 2. Cơ sở lý luận: Bộ môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học là một trong những môn học đặc trưng, không nhằm đào tạo hoạ sĩ tương lai hay tạo ra những người chuyên làm về công tác Mĩ thuật mà nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản của cái đẹp để các em tiếp xúc và làm quen với cái đẹp, cảm thụ, yêu quý cái đẹp, biết vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Hỗ trợ các em ở các môn học khác giúp các em phát triển toàn diện, lâu dài về Đức – trí – thể – mĩ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội phát triển nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao, do vậy việc đào tạo con người biết nhận thức, cảm thụ cái đẹp ngày càng quan trọng. Những năm qua giáo dục thẩm mĩ đã trở thành môn học trong chương trình giáo dục phổ thông, là một môn học độc lập, môn Mĩ thuật có mục tiêu chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn, thiết bị riêng cho dạy và học, giáo viên được đào tạo, kết quả học tập của học sinh được theo dõi và kiểm tra, đánh giá một cách nghiêm túc. Việc giảng dạy môn Mĩ thuật tiểu học nhằm đảm bảo cho các em có thể giải quyết được các bài tập hàng ngày và hiểu về cái đẹp, của nền mĩ thuật truyền thống, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho học sinh học có hiệu quả cao hơn các môn học khác. 3. Cơ sở thực tiễn: Từ thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật tôi thấy: Các em rất yêu thích Mĩ thuật, vì qua đó các em được tiếp xúc, làm quen với một số tác phẩm hội hoạ nổi tiếng của các họa sĩ nổi tiếng và một số bài vẽ đẹp của các bạn thiếu nhi không những ở trong nước mà cả của quốc tế. Các em được vẽ tranh, vẽ những gì mình mơ ước, mình yêu thích, biết vận dụng bài học vào thực tế như: trang trí những vật dùng cá nhân: sách, vở và cả góc học tập của mình, … Song, bên cạnh việc giảng dạy cho học sinh tiếp thu tốt những kiến thức cơ bản đó thì tôi thấy còn gặp 5
1.Thuận lợi a, Quan điểm nhận thức về môn Mĩ thuật : – Môn Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh. – Cho đến nay các trường đã có giáo viên dạy Mĩ thuật, phong trào học Mĩ thuật ngày càng một sôi nổi, hầu hết các em học sinh hào hứng với môn học và môn học đã được chú ý. Tất cả mọi người đã hiểu được đây là một môn học nghệ thuật sáng tạo, vì vậy không ít giáo viên và học sinh, các bậc phụ huynh luôn coi trọng và đầu tư cho môn học. Qua đó các em thấy rằng Mĩ thuật là môn học bổ ích, lý thú và tươi vui, có tính giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cao và là môn học bổ trợ tích cực cho các môn học khác. Vì thế các em đón nhận tiết học một cách nhiệt tình và hào hứng. b, Trang thiết bị dạy học : – Để giảng dạy môn mĩ thuật trong chương trình đào tạo được thành công, điều này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như : tài liệu, phương tiện, đồ dùng trực quan, …
6
tiện, đồ dùng trực quan, … vì thế ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập và giảng dạy của giáo viên và học sinh. Vì vậy, là một giáo viên luôn tâm huyết với nghề tôi luôn tự học hỏi, tìm tòi, cố gắng nỗ lực hết mình để làm sao mang lại hiệu quả tốt nhất cho các em khi học bộ môn Mĩ thuật. III. CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN MĨ THUẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC.
1. Điều tra cơ bản. Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Mĩ thuật tại trường Tiểu học số 1 Noong Hẻo (khu vực trường trung tâm), tôi thấy hầu hết các em đều thích học vẽ, các em học tập với tinh thần hăng say, cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể hiện từ nội dung và hình thức mỗi khi các em vẽ một bức tranh. Bên cạnh đó còn một số học sinh nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình, một số em còn chán nản không thích học vẽ. Tất cả những vấn đề trên rất đáng lo ngại, ảnh hưởng lớn đến việc học Mĩ thuật của học sinh cho nên tôi đã tiến hành điều tra một số lớp ở điểm trường trung tâm năm học 2012 – 2013, xem có bao nhiêu em thích học vẽ và không thích học vẽ để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục và kết quả như sau: *Tại điểm trường trung tâm kết quả đầu năm học 2012 – 2013 (khi chưa áp dụng) Khối lớp 1 2 3 4 5
2. Biện pháp tiến hành. Từ thực tế giảng dạy ở giai đoạn đầu, phần đông học sinh yêu thích môn học. Bên cạnh đó có một số em rất thờ ơ, thậm chí chán nản mỗi khi đến 8
giờ học, điều này khiến cho tiết học trở nên nặng nề, không hứng thú. Vì vậy việc khắc phục tâm lý cho học sinh quả là khó khăn và hết sức cần thiết. Dựa vào tâm lý của học sinh là thích khen ngợi, động viên và hay tò mò nên trước thời gian thực hành, tôi giới thiệu cho các em một số tác phẩm vẽ tiêu biểu của những hoạ sĩ nhí trong trường bạn để các em xem và tự học tập theo cách vẽ, cách thể hiện tranh. Phân tích cho các em thấy được cái hay, cái đẹp được thể hiện qua các bức tranh đó, động viên các em ai cũng có thể vẽ đẹp. Vì thế sự căng thẳng và chán nản trong mỗi giờ học được giảm bớt đi, các em đã có hứng thú hơn với các tiết học. Sau đó trong những bài học vẽ tranh tôi khuyến khích các em vẽ nhiều và vẽ đẹp cho học sinh tự nhận xét, tự đánh giá tác phẩm của bạn có đẹp hay không đẹp và vì sao? Như vậy tôi đã hướng dẫn cho các em biết tự nhận xét, đánh giá được bài vẽ của bạn và mình. Môn học Mĩ thuật không chỉ đòi hỏi các em vẽ phải có tính sáng tạo, vẽ đẹp mà các bài tập thực hành còn đòi hỏi các em có sự cảm nhận giá trị nghệ thuật, nắm được mục tiêu giáo dục ở trong mỗi bài học. Vì thế trong quá trình giảng dạy tôi đều phải lựa chọn các phương pháp sao cho phù hợp. Ví dụ: Với bài tập nặn con vật hay thực hành Mĩ thuật tuỳ vào nội dung mà có thể chia nhóm để các nhóm cùng hoạt động đưa ra những tác phẩm hay, những sáng kiến bất ngờ, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Với cách này thì toàn bộ học sinh cần phải để ý, tham gia quân số rồi mới trả lời, mới vận dụng được vào làm bài tập thực hành mà bạn nhóm trưởng yêu cầu. Việc muốn học sinh thực sự tập trung vào môn học thì đòi hỏi phải có sự quan tâm của giáo viên, giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ bài dạy, đồ dùng dạy học phải sát với nội dung bài học, đẹp và hấp dẫn để lôi cuốn học sinh. Muốn học sinh thể hiện được những tác phẩm theo cảm nhận của riêng mình thì người giáo viên phải gợi ý, giảng giải đặc biệt là phải tạo ra được không khí sôi nổi, thoải mái, học mà chơi, chơi mà học, khích lệ, động viên học sinh tự
9
tìm tòi, tự sáng tạo ra những cái hay, cái đẹp ở mỗi bài học, từ đó học sinh có thể lựa chọn và vận dụng linh hoạt vào các bài tập sau này của mình. Trên thực tế muốn có tiết học trở lên hấp dẫn, luôn cuốn, tìm tòi, khám phá, phát huy được trí tưởng tượng, sáng tạo của mình thì giáo viên là người phải hiểu sâu sắc được mục tiêu giáo dục. Vì thế tiết học mới có thể tốt hơn, ngoài ra phải áp dụng cho các em tiếp xúc thực tế với tự nhiên. Giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp muôn màu của thế giới thực, hướng các em vào việc chọn nội dung tranh, sử dụng sắc màu, hiểu được bố cục, cách chọn hình, mảng chính, phụ và luật xa gần. Sau đó các em tự thể hiện theo cảm nhận riêng của mình. Những buổi học như vậy đã đem lại cho học sinh sự hứng thú và ấn tượng tốt đẹp đối với từng tiết học. Nói tóm lại, việc giảng dạy môn Mĩ thuật trong trường Tiểu học tuy là kiến thức rất cơ bản, song để chất lượng giáo dục đạt hiệu quả lại là một vấn đề khó khăn đòi hỏi người giáo viên làm công tác giảng dạy môn Mĩ thuật (còn gọi là môn giáo dục thẩm mĩ cho học sinh) phải thực sự linh hoạt và khéo léo, phải gần gũi với học sinh, hiểu rõ đặc điểm tâm lý của các em là chóng thích, chóng chán. Mặt khác khi giáo dục nghệ thuật cần dựa vào cảm hứng mới sáng tác được. Nắm được đặc điểm này tôi đã chọn những thời điểm thích hợp để động viên khích lệ các em luôn tôn trọng ý nghĩ của các em, không áp đặt, đòi hỏi cao đối với các em, người giáo viên phải có tính kiên trì, nhẫn lại trong giảng dạy. Bằng những biện pháp như vậy tôi thấy học sinh trường tôi có rất nhiều tiến bộ trong học tập môn Mĩ thuật cả về tâm lý và năng lực. Khi các em có niềm say mê nghệ thuật thì việc truyền thụ kỹ thuật sẽ thuận lợi hơn, giờ học sổi nổi hơn, điều đó thúc đẩy khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn các em vào môn học và học tốt bộ môn học khác. 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học.
10
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục đã đề ra cho bậc tiểu học, xác định rõ vai trò và mục tiêu giáo dục của bộ môn cũng thông qua thực tế giảng dạy áp dụng phương pháp mới giúp học sinh thực hiện tốt bộ môn Mĩ thuật tôi tự khẳng định và rút ra một số kinh nghiệm như sau: – Môn Mĩ thuật là môn dành thời gian chủ yếu để học sinh thực hành, do vậy giáo viên cần thiết kế bài dạy như một kế hoạch tổ chức các hoạt động, để học sinh chủ động, tích cực tham gia và phát huy hết khả năng và năng lực của mình ở mỗi bài vẽ. – Trong mỗi tiết học, giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học để luôn luôn tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, tránh giờ học tẻ nhạt, khô cứng. – Đối với một số bài vẽ tranh đề tài, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động vẽ theo tổ, theo nhóm để các thành viên trong nhóm có dịp thể hiện năng lực cá nhân trước bạn bè, thầy cô giáo. – Có thể đưa các trò chơi hổ trợ cho nội dung bài học khi thấy cần thiết, phù hợp. – Tạo mọi điều kiện để tất cả học sinh đều được chủ động, tích cực tham gia và tham gia có hiệu quả ở các hoạt động, quan tâm nhiều hơn đến các học sinh nhút nhát, chưa tích cực hoạt động. – Về phân bố thời gian của tiết học, giáo viên cần lưu ý bố trí thời gian hướng dẫn bài và thời gian thực hành của học sinh sao cho hợp lí (phần hướng dẫn của giáo viên chỉ nên từ 10 đến 14 phút, phần thực hành từ 16 đến 20 phút, phần đánh giá từ 4 đến 5 phút ). – Tuỳ theo nội dung của từng bài, giáo viên điều chỉnh thời gian thực hành của học sinh cho phù hợp, không thực hiện máy móc cho tất cả các bài. – Trong quá trình thực hiện các tiết dạy, giáo viên cần lưu ý học sinh hiểu biết cái đẹp, cảm nhận cái đẹp làm trọng tâm, không nên đi sâu rèn luyện kĩ năng vẽ. 11
– Tất cả các bài thực hành của học sinh đều phải được giáo viên đánh giá thường xuyên theo quy định đánh giá của Bộ. – Không áp đặt đòi hỏi quá cao đối với học sinh. Nên lấy động viên, khích lệ là chính, cố gắng tìm những ưu điểm dù nhỏ nhất ở từng học sinh để kịp thời động viên, khen ngợi. – Muốn giảng dạy tốt môn học trước hết giáo viên phải hiểu được mục đích, yêu cầu của môn học, từ đó tìm ra cho mình một định hướng giảng dạy đúng đắn. – Phải hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ, hiểu biết được mức độ cảm nhận của học sinh về thế giới xung quanh thông qua các bài học. – Luôn tôn trọng gần gũi học sinh. – Phải có tính kiên trì trong công tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp thời đối với các em. Đặc biệt không nên chê các em trước mặt các bạn trong lớp. – Việc quan trọng yêu cầu của mỗi tiết học là giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan, trực quan phải đẹp, hấp dẫn để học sinh quan sát. – Sử dụng linh hoạt trong phối hợp các phương pháp dạy học. – Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp. – Ứng dụng thông tin phần mềm công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật như qua đĩa, băng hình, … có như vậy chất lượng học tập mới đạt kết quả cao. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Với kết quả như trên, tôi thấy việc dạy học Mĩ thuật muốn có kết quả giảng dạy cao thì người thầy phải không ngừng tìm tòi và đổi mới phương pháp dạy học. Để tạo được cách dạy lấy học sinh làm trung tâm cho bài dạy, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở, thì ngoài việc sử dụng một số phương pháp dạy truyền thống còn cần kết hợp nhiều phương pháp khác để tiết học sinh động lôi quốn học sinh tham gia hơn. Với kết quả này, mỗi chúng ta cũng không lấy đó làm bằng lòng để rồi dừng ở đó. Theo tôi đã là giáo viên thì việc học hỏi, tìm tòi và sáng tạo trong cách dạy là một nhiệm vụ mỗi ngày của người thầy, hoạt động đó phải được diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao đối với tri thức, và đặc biệt có thể tạo điều kiện cho học sinh vững vàng bước vào chương trình Mĩ thuật ở bậc Trung học cơ sở. *Để chứng minh những hiệu quả trên tôi đưa ra một số tiết dạy mẫu như sau : ( GV đưa giáo án vào đây) * Kết quả 3 tiết dạy thực hiện các giải pháp: Tiết
Lớp
Tên bài dạy
1
8
2
10
3
12
13
MĐ2
0
0
0
0
0
MĐ3
Qua 3 tiết dạy mẫu trên chứng minh một số biện pháp tôi đưa ra là hoàn toàn đúng đắn. Kết quả thu được thật đáng khích lệ, không còn học sinh xếp loại chưa hoàn thành nữa, mà tỷ lệ ở mức hoàn thành và hoàn thành tốt rất cao. Đạt 100% vượt chỉ tiêu nhà trường giao . Vì vậy tôi sẽ áp dụng những biện pháp này vào trong việc giảng dạy của mình để chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật của trường Tiểu học số 1 được tốt hơn và tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp này cho các bạn đồng nghiệp trong huyện tham khảo và góp ý để cùng nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở Tiểu học . C : PHẦN KẾT LUẬN I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học số 1 Noong Hẻo trong những năm qua tôi luôn xác định được mục tiêu trong nhà trường, đồng thời cũng hiểu sâu sắc được vai trò của môn Mĩ thuật trong việc giáo dục học sinh phát hiện ra những mặt hạn chế và có một giải pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn Mĩ thuật. Tôi thấy việc nắm vững phương pháp và cách tổ chức cơ bản về môn Mĩ thuật cũng như việc xây dựng cho mình một cách tổ chức dạy học vững chắc còn có tìm ra những giải pháp dạy học phù hợp của môn Mĩ thuật sẽ có tác dụng và ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động dạy và học, giúp cho giáo viên có một định hướng đúng đắn, phù hợp một cách thức tổ chức giờ hợp lý giúp cho học sinh hứng thú tìm hiểu, khám phá thế giới thẩm mĩ một cách say mê, hấp dẫn, góp phần giáo dục nên những con người toàn diện hơn theo 4 mục đích : Đức – Trí – Thể – Mĩ. II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
– Việc nâng cao chất lượng dạy và học là một trong những biện pháp mà không thể thiếu trong công tác giảng day, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giảng dạy và tiếp thu bài của học sinh. Chính vì vậy trong một tiết học Mĩ thuật giáo viên phải biết kết hợp các biện pháp nói trên một cách linh hoạt để đạt 14
được hiệu quả cao trong việc dạy và học. Nên lấy học sinh làm chủ đạo hướng cho các em vừa học vừa chơi, không nên áp đặt, để các em không có cảm giác chán nản khi tham gia môn học. Giúp các em phát huy hết khả năng của mình vào bài học. III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG, TRIỂN KHAI.
Để cho việc dạy và học môn Mĩ thuật được tốt hơn, tôi mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc giảng dạy bộ môn này, và tôi có một số kiến nghị sau : 1- Nhà trường cần có phòng học chức năng đầy đủ về cơ sở vật chất. 2- Phòng GD&ĐT huyện Sìn Hồ quan tâm tới các buổi sinh hoạt cụm. 3- Sở GD&ĐT cần tổ chức lớp học nâng cao việc giảng dạy môn Mĩ thuật. 4- Bộ GD& ĐT cần có một số đồ dùng dạy phân môn Mĩ thuật cụ thể hơn, nhiều hơn. 5- Phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối với việc học Mĩ thuật của các em, cụ thể là đồ dùng học tập.
15
Tạ Khắc Thịnh
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Nhận xét đánh giá của HĐKH Nhận xét đánh giá của HĐKH
Trường Tiểu học số 1 Noong Hẻo 16
Phòng GD&ĐT Sìn Hồ
Đề tài xếp loại:……………………..
Đề tài xếp loại:……………………..
Chủ tịch hội đồng
Chủ tịch hội đồng
HIỆU TRƯỞNG
TRƯỞNG PHÒNG ……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
17
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
……………………………………………………..
……………………………………………………..
………………………………..
………………………………..
18
Tiểu học 1. Điều tra cơ bả 2. Biện pháp tiến hành 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở Trường
Tiểu học IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm C : PHẦN KẾT LUẬN I. Những bài học kinh nghiệm II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh ngiệm III. Khả năng ứng dụng, triển khai IV. Những kiến nghị, đề xuất NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
20
Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học Ở Tiểu Học
Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
Hoatieu.vn xin gửi tới bạn đọc bài viết một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết nêu rõ một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học ở trường tiểu học. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài viết để có thể viết được bài thu hoạch tốt nghiệp lớp quản lý giáo dục cho mình.
Biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học
1. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học
1. Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm.
Trường học – tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục – nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung: dạy và học, giáo dục và đào tạo những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Mà giáo viên là lực lượng nồng cốt tham gia và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển về trí tuệ, hiểu biết và nhân cách con người; là người không chỉ thực hiện nhiệm vụ của bản thân, với gia đình, với học sinh, phụ huynh học sinh mà còn thể hiện nhiệm vụ với xã hội, với vân mệnh và tương lai của đất nước. Chính vì vậy công tác xây dựng đội ngũ trong nhà trường là vấn đề quan trọng. Vì có một tập thể đoàn kết thì mới có một tập thể vững mạnh, mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Mỗi cá nhân là một thành viên tích cực nêu cao quan điểm, mạnh dạn bày tỏ ý kiến đóng góp, xây dựng cho đồng chí, đồng đội, cùng phát triển về công tác chuyên môn (về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, về biện pháp giáo dục học sinh,…), quan tâm giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, có một tập thể đoàn kết mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của năm học. Có sự đoàn kết, thống nhất như vậy sẽ góp phàn nâng cao nhận thức về chuyên môn, nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, khuyến khích giáo viên đọc sách báo, tham khảo tài liệu về chính trị, văn hóa, pháp luật…
Phân công chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của từng giáo viên, tạo mọi điều kiên thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Đi kèm theo công tác phân công chính là công tác kiểm tra đánh giá kết quả lao động của cá nhân, tập thể được phân công, để đánh giá mức độ hoàn thành công việc như thế nào. Từ đó có bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời kịp thời phát hiện năng lực của giáo viên và có kế hoạch bồi dương phát huy hoặc khuyến khích giáo viên tiến bộ.
Thường xuyên mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các buổi thao giảng, phối hợp mở các buổi hội giảng trao đổi về phương pháp giảng dạy, biện pháp giáo dục học sinh.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập, giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
Thực hiện tốt công tác dân chủ trong nhà trường. có biện pháp, chế độ tùy theo kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công, tham mưu tốt với ban ngành đoàn thể đảm bảo quyền lợi của anh chị em trong lao động.
2. Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên. 2.1. Biện pháp xây dựng nề nếp, kỷ cương trong hoạt động giảng dạy của giáo viên
Xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường. Quy chế chuyên môn trong nhà trường là một trong những công cụ để đánh giá quá trình lao động của người giáo viên. Việc thực hiện tốt quy chế chuyên môn trong nhà trường của giáo viên là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy.
– Trên cơ sở: Quyết định 14 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học ngày 04 tháng 05 năm 2007 của Quyết định 16 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tao về việc Vi phạm đạo đức nhà giáo ngày 16 tháng 04 năm 2008; căn cứ điều lệ trường tiểu học; căn cứ văn bản chỉ đao của lãnh đạo Phòng GD&ĐT và căn cứ tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường như quy định về đạo đức, tác phong sư phạm, tác phong của nhà giáo, quy định giờ ra vào lớp, quy định về hồ sơ sổ sách, lịch trình duyệt các kế hoạch. Giáo viên soạn giảng đủ môn, đủ tiết, số tiết dự giờ trên tuần ( rút kinh nghiệm,dự giờ để đánh giá), số lần tham gia sinh hoạt chuyên môn.duy trì sĩ số lớp…
– Phát động phong trào Thi đua-Dạy tốt-Học tốt, tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (cụ thể từng đối tượng học sinh về lực học, về sở trường, về cá tính của học sinh…) của lớp dưới lên lớp trên để giáo viên mới có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu, xây dựng kế hoạch giảng dạy.
– Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”. qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường.
2.2. Biện pháp chỉ đạo việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của cấp quản lí giáo dục:
Việc tố chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượng, vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo ngành.
Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho tùng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp, phân phối chương trình.
Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Hướng dẫn tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các hội thi mà cấp trên tổ chức, như thi: Violumpic Tiếng Anh, giải toán trên Internet… Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo điều lệ trường tiểu học, nội dung sinh hoạt đa dạng phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học – xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện.
2.3. Biện pháp chỉ đạo thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên:
Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học. Là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có, vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Và thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau:
-Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ khối, giáo viên.
Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện:
– Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học dành cho đối tượng học sinh trong lớp.
– Tăng cường trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến khích gíao viên đẩy mạnh công nghệ thông tin vào giảng dạy. Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài, đồng thời trong quá trình chuẩn bị phải thể hiện được đồ dùng phục vụ cho người dạy và đồ dùng phục vụ cho người học. Vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiều học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có ngoại hình cân đối, giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào, cử chỉ mềm mại, điệu bộ duyên dáng, thái độ ân cần… sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú nhận thức của trẻ.
– Nội dung cơ bản của kế hoạch phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài, dự kiến thời gian của từng hoạt động; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên. Không ghi những vấn đề không cần thiết.
Nội dung giáo án ngắn gọn, xúc tích đảm bảo nội dung trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy – trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh).
Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy.
2.4. Biện pháp quản lí giờ lên lớp của giáo viên:
Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực hiện mục tiêu dạy học.
Trong nhà trường tiểu học hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động là hoạt động chính. Hiện nay quá trình dạy học chủ yếu đa số là diễn ra trong lớp học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm và khả năng của giáo viên. Vì vậy hiệu trưởng quản lí giờ lên lớp của giáo viên như:
– Tổ chức thực hiện tốt kỉ luật lao động trong nhà trường, khuyến khích giáo
viên thực hiện tốt giờ lên lớp.
– Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành. Duy trì và thực hiện tốt giờ lên lớp.
2.5. Biện pháp quản lí việc dự giờ của giáo viên:
Dự giờ là công việc đặc thù, cơ bản, là biện pháp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho mỗi cá nhân giáo viên một cách hiệu quả nhất.
Căn cứ vào điều lệ Trường tiểu học thì đối với giáo viên số tiết dự giờ ít nhất 1 tiết/tuần, đối với tổ chuyên môn ít nhất 2 tiết/tuần.
Để công tác dự giờ có hiệu quả, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, xác định mục tiêu, xác định mảng kiến thức trọng tâm, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học, dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy.
Tiến hành dự giờ: khi dự giờ không trao đổi, làm việc riêng mà tập trung theo dõi hoạt động của thầy và trò, thông qua các hoạt động, hệ thống câu hỏi, câu trả lời và cách đánh giá học sinh của người dạy.
Để có cơ sở đánh giá, đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp, để học tập ở đồng nghiệp, người dạy cũng chú ý lắng nghe bày tỏ quan điểm phân tích sư phạm cùng nhau đi đến thống nhất cho một tiết dạy, có những kiến nghị phù hợp.
Căn cứ công văn số 10358/BGD&ĐT-GDTH ngày 28 tháng 09 năm 2007 Hướng dẫn việc sử dụng chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học trong quá trình đánh giá xếp loại. Quy định về cách đánh giá xếp loại tiết dạy gồm 4 lĩnh vực: Kiến thức, kĩ năng sư phạm, thái độ sư pham, hiệu quả. Bốn lĩnh vực có điểm tối đa là 20; xếp loại: Tốt, Khá, Trung bình và chưa đạt.
3. Biện pháp chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh
Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo cuả nhà trường. Do đó đánh giá với tinh thần nghiêm túc, thái độ khách quan, chống khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhằm lớp, thì ảnh hưởng đến uy tính của ngành giáo dục… Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, hiệu trưởng có những biện pháp chỉ đạo như sau:
– Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nề nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể sư phạm của nhà trường.
– Tổ chuyên môn tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về năng lực, phẩm chất, sự rèn luyện của học sinh còn đánh giá về các phong trào như Vở sạch chữ đẹp, …Tổ chức thực hiện tốt theo quy định tại thông tư 32 của Bộ GD&ĐT quy định về đánh giá xếp loại học sinh, căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đánh giá, tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học.
4. Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh 4.1. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh:
Trong nhà trường, việc xây dựng nề nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần:
– Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh ngay đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn phát triển đúng đắn hơn.
– Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của họ sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nề nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó,… tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, tổ tiên tiến… vào cuối tuần theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh.
– Phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiệ nhân cách ở học sinh.
4.2. Biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục động cơ học tập của học sinh:
Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không thỉ còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập của học sinh, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bảo ở mỗi em.
Tổ chức các hội thi, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê.
Giáo dục học sinh thông qua các tiết sinh hoạt đưới cờ, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao, nhân dịp lễ hội.
Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết qua học tập của bạn, của bản thân học sinh,…
Thông qua quá trình thực hiên tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn.
4.3. Biện pháp chỉ đạo tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa:
Để giúp học sinh hoàn thiện hơn thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện hội cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em góc học tập tại nhà, có lịch học, thời khóa biểu học hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra việc học tập của con một cách thường xuyên…
Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mõi lĩnh vực, biết đọc sách, tự làm bài tập ở vở bài tập hoặc bài tập nâng cao…
4.4. Biện pháp chỉ đạo về việc bồi dưỡng HS năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu:
Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm phái có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu. Giáo viên chủ nhiệm phân loại học sinh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu và phân nhóm. Để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức:
Xây dượng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh yếu bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập vói tập thể, cũng như quan tâm học sinh yếu công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho hững học sinh này bài tập khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em. Vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kìm hãm sự phát triển của tư duy của trẻ . Chính vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp mới phát triển tài năng của tuổi thơ.
5. Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội:
Là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. nhà trường phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ giáo viên, tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh.
2. Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học mà bản thân đang thực hiện tại lớp
1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp
– Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.
– Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể:
+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
+ Học sinh khuyết tật.
+ Học sinh các biệt về đạo đức.
+ Học sinh yếu.
+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
* Đối với những học sinh khuyết tật.
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
– Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…
– Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.
* Đối với học sinh học yếu:
– Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
– Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.
Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.
– Trước hết , những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè….
– Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng,2 lớp phó , 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. . sẽ tiến hành công việc của mình như sau:
*Đầu giờ (trước giờ truy bài):
Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép lê….rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu )
*Trong giờ học:
Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5 điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/ 1lần.
*Giờ ăn ngủ bán trú:
Tổ trưởng, Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian.. nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần) Biện pháp 3: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh
* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:
– Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.
– Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.
– Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục – Có con em học khá giỏi.
* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký
* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:
– Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp
– Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. – Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường.
* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:
– Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.
– Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.
– Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.
– Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.
– Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. – Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.
Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,….
– Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…
– Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.
– Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát huy và chọn lọc nhữn HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
– Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:
– Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:
+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.
+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.
– Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm . sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
– Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại ( nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
3. Biện pháp chỉ đạo quá trình dạy học ở trường Tiểu học
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kì xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng đến giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung, chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Là một cán bộ quản lý, tôi nhận thấy bản thân giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nhà trường – nhiệm vụ phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói riêng, đặc biệt là chất lượng học sinh đại trà. Năm học ………….. nhiệm vụ chung của ngành là: Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học;… Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh:
Căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình lồng ghép giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh.
Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình kiến thức, kĩ năng môn học và có mảng kiến thức dành cho đối tượng học sinh năng khiếu.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tiểu học căn cứ vào những nhận thức mới của học sinh về đạo đức, học tập và rèn luyện ở các em; căn cứ vào năng lực tổ chức, thiết kế và những hoạt động trong quá trình dạy học ở giáo viên vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp dạy học truyền thống mà họ không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lí để tạo cho người học lòng say mê học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp học tập, tạo ra sự phát triển mới, nâng cao hiệu quả giáo dục phù hợp với bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải thừa kế sự phát huy những thành tựu đã đạt được đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn của đơn vị. Tôi mạnh dạn chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học ……………” nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng dạy – học và đẩy mạnh công tác mũi nhọn của nhà trường.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng công tác dạy và học trong trường Tiểu học …………. tỉnh …………….. 1.1. Ưu điểm.
Mặc dù cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng tập thể cán bộ, giáo viên trường tiểu học ………………. đã không ngừng phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và đặc biệt là chú trọng nhất về nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Có 100% cán bộ, giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do phòng GD&ĐT, trường tổ chức nên đã nắm được việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học; đổi mới cách đánh giá học sinh, coi trọng sự tiến bộ của học sinh.
Ngoài nắm vững chuyên môn giáo viên còn nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng học sinh, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nội dung, chương trình của từng môn học, mạnh dạn đăng kí chỉ tiêu phấn đấu trên đối tượng học sinh của mình.
Tuy cơ sở vật chất nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng giáo viên đã tận dụng, tạo môi trường học tập, môi trường vui chơi an toàn cho học sinh. Học sinh có đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập, hăng hái tham gia xây dựng bài học.
Ngày nay, công tác xã hội hóa giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Đa số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học của con em mình. Đồng thời đã đóng góp không nhỏ về vật chất để mua sắm trang thiết bị dạy học trong nhà trường, nâng cấp cơ sở vật chất, tạo điều kiện tốt cho việc vui chơi và học tập của học sinh.
1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
Mặc dù tất cả cán bộ quản lý, giáo viên của trường được tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về dạy học theo phương pháp dạy học tích cực một cách kĩ lưỡng nhưng khi vào thực tế giảng dạy vẫn còn giáo viên lúng túng trong khâu đổi mới phương pháp dạy học, dưới sự ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ lo tập trung vào phần việc của mình, cứ lo sợ dạy không hết bài, học sinh không biết … cứ như thế, vào tiết học giáo viên thao thao giảng bài, truyền đạt cho học sinh những nội dung cần ghi nhớ, yêu cầu các em về học thuộc lòng. Có những giáo viên nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn, nêu vấn đề của người dạy, người học động não, tìm cách giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức mới vào thực tiễn.
Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học là việc sử dụng thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học. Thế nhưng vẫn còn giáo viên còn ít sử dụng, chưa khai thác triệt để thiết bị, đồ dùng vào các tiết dạy mà còn dạy chay hoặc sử dụng khi có người dự giờ. Khi sử dụng, có giáo viên sử dụng chưa linh hoạt hoặc khai thác một cách qua loa, máy móc làm cho tiết học trở nên rời rạc, nhàm chán không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; không có thiết bị để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy, giáo viên hầu như chưa thoát li được sách giáo viên, sách tham khảo, mà còn có những giáo viên coi sách giáo viên như một pháp lệnh, không được xê dịch hay sửa đổi. Chép nguyên mục tiêu và các hoạt động trong sách mà không cần biết bài dạy đó có phù hợp với học sinh của mình không mà không bỏ thời gian ra nghiên cứu nội dung bài học sách giáo khoa, liên hệ từng đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch dạy học cho từng môn học, hay thiết kế bài dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Một số giáo viên không nghiên cứu nội dung sách giáo khoa để xác định mảng kiến thức trọng tâm của bài, liên hệ sự tiếp thu của học sinh rồi lựa chọn phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, sự vận động suy nghĩ của từng đối tượng học sinh, tránh nhàm chán ở học sinh vì trong lớp học có tới ba khả năng tiếp thu và ba khả năng nhận thức cụ thể như: học sinh năng khiếu; học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học; học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học. Ngoài ra, trong quá trình lập kế hoạch bài dạy do không nghiên cứu kĩ lưỡng nội dung bài nên việc chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy học không có hoặc không phù hợp, thậm chí có xác định ở phần chuẩn bị trong giáo án nhưng qua một tiết dạy không thấy giáo viên sử dụng ở hoạt động nào? (lúc nào?).
Bên cạnh những việc tồn tại ở khâu soạn giảng thì cũng không thể không đề cập đến vấn đề kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh. Một số giáo viên dù nắm được, hiểu được hướng dẫn chỉ đạo của Thông tư 30/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định đánh giá học sinh Tiểu học, Quyết định số …………………… ngày ……………… của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông – cấp Tiểu học, trong đó có Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học thế nhưng trong quá trình đánh giá còn giáo viên không căn cứ vào những tiêu chí hướng dẫn của văn bản để đánh giá, mà đánh giá dựa vào cảm tính, quan sát chung chung, thiếu căn cứ, thiếu tính chính xác. Thậm chí việc kiểm tra, đánh giá còn dựa trên tình cảm, cả nể mà đánh giá không đúng thực lực của học sinh. Mặc dù, là năm học “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, củng cố kết quả các cuộc vận động chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”. Vậy mà vẫn còn giáo viên để xảy ra hiện tượng cảm tính trong đánh giá xếp loại nhất là trong xét khen thưởng ở cuối năm. Đến đầu năm học mới có rất nhiều học sinh bị hụt hẫng về kiến thức nên rất khó cho việc giảng dạy của giáo viên, ngoài ra còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục.
Mặt khác, giáo viên chưa nghiên cứu sâu về tâm lý từng học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn.
Đa số học sinh còn phụ thuộc vào khuôn mẫu, bắc chước, chưa có ý thức tự giác học tập, lại được cha mẹ học sinh đồng thuận mua sắm cho sách giải, sách tham khảo, văn mẫu,… để các em sao chép lại.
Do còn không ít cha mẹ học sinh thiếu trách nhiệm, thiếu sự phối hợp trong giáo dục học sinh, gây sức ép không nhỏ đối với giáo viên.
2. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của trường Tiểu học ………..
Biện pháp 1: Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể nhà trường.
Trường học – tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục – nơi tập trung những người thực hiện nhiệm vụ chung: dạy và học, giáo dục và đào tạo những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Giáo viên là lực lượng nòng cốt tham gia và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển về trí tuệ, hiểu biết và nhân cách con người; là người không chỉ thực hiện nhiệm vụ của bản thân, với gia đình, với học sinh, cha mẹ học sinh mà còn thể hiện nhiệm vụ với xã hội, với vận mệnh và tương lai của đất nước. Chính vì vậy, công tác xây dựng đội ngũ trong nhà trường là vấn đề quan trọng vì có một tập thể đoàn kết thì mới có một tập thể vững mạnh. Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học. Mỗi cá nhân là một thành viên tích cực nêu cao quan điểm, mạnh dạn bày tỏ ý kiến đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp cùng phát triển về công tác chuyên môn (về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, về biện pháp giáo dục học sinh,…), quan tâm giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn cùng nhau hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, có một tập thể đoàn kết mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của năm học. Có sự đoàn kết, thống nhất như vậy sẽ góp phần nâng cao nhận thức về chuyên môn, nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, khuyến khích giáo viên đọc sách báo, tham khảo tài liệu về chính trị, văn hóa, pháp luật…
Phân công chuyên môn phù hợp với năng lực, sở trường của từng giáo viên, tạo mọi điều kiên thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Đi kèm theo công tác phân công chính là công tác kiểm tra, đánh giá kết quả lao động của cá nhân, tập thể được phân công để đánh giá mức độ hoàn thành công việc như thế nào? Từ đó có bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời kịp thời phát hiện năng lực của giáo viên và có kế hoạch bồi dương phát huy hoặc khuyến khích giáo viên tiến bộ.
Thường xuyên mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, các buổi thao giảng, phối hợp mở các buổi hội giảng trao đổi về phương pháp giảng dạy, biện pháp giáo dục học sinh.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập, giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
Thực hiện tốt công tác dân chủ trong nhà trường. Có biện pháp, chế độ tùy theo kết quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công, tham mưu tốt với các ban ngành, đoàn thể đảm bảo quyền lợi của tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường.
Biện pháp 2: Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên. 2.1. Biện pháp xây dựng nền nếp, kỷ cương trong hoạt động giảng dạy của giáo viên
Xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường. Quy chế chuyên môn trong nhà trường là một trong những công cụ để đánh giá quá trình lao động của người giáo viên. Việc thực hiện tốt quy chế chuyên môn trong nhà trường của giáo viên là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác giảng dạy.
Trên cơ sở: Quyết định số ………………. ngày …………… của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học; Quyết
định số ………………. ngày ……………… của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo; căn cứ Điều lệ trường tiểu học; căn cứ văn bản chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo …………, phòng GD&ĐT ………… và căn cứ tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng xây dựng quy chế chuyên môn trong nhà trường như quy định về đạo đức, tác phong sư phạm, tác phong của nhà giáo, quy định giờ ra vào lớp, quy định về hồ sơ sổ sách, lịch trình duyệt các kế hoạch. Giáo viên soạn, giảng đủ môn, đủ tiết, số tiết dự giờ/ năm học, số lần tham gia sinh hoạt chuyên môn, duy trì sĩ số lớp… để đánh giá, xếp loại giáo viên.
Phát động phong trào thi đua “Dạy tốt – Học tốt”, tiến hành bàn giao số lượng, chất lượng (cụ thể từng đối tượng học sinh về nhận thức môn học, về năng lực, phẩm chất, về sở trường, về cá tính của học sinh…) của lớp dưới lên lớp trên để giáo viên mới có cơ sở xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đăng kí chỉ tiêu phấn đấu, xây dựng kế hoạch giảng dạy.
Phối hợp với Ban chấp hành công đoàn phát động phong trào “Kỷ cương -Tình thương – Trách nhiệm” qua đó vận động giáo viên chấp hành nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà trường.
2.2. Biện pháp chỉ đạo việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy của cấp quản lí giáo dục:
Việc tổ chức thực hiện chương trình và xây dựng kế hoạch giảng dạy của giáo viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường nên Hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở như: căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, các chỉ thị của ngành, của địa phương, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình sao cho vừa đảm bảo chất lượngn vừa đảm bảo hoàn thành chương trình theo tinh thần chỉ đạo của ngành.
Dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh, biện pháp khắc phục, biên chế nội dung chương trình cho cả năm học và cho từng thời điểm, lập thời khóa biểu cho các khối lớp.
Tập trung nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo về chuyên môn, nghiên cứu về nội dung, chương trình sách giáo khoa, căn cứ đặc điểm tâm lí của trẻ. Hướng dẫn tổ chuyên môn, giáo viên phối hợp với kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh. Thực hiện chương trình một cách vừa và đủ đảm bảo tham gia các cuộc giao lưu mà cấp trên tổ chức, như tham gia Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh tiểu học cấp huyện, cấp tỉnh đối với học sinh lớp 5.
Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo Điều lệ trường tiểu học (Đảm bảo sinh hoạt 2 lần/tháng); nội dung sinh hoạt đa dạng, phong phú: trao đổi về phương pháp dạy học, trao đổi về kết quả nghiên cứu nội dung, chương trình sách giáo khoa, trao đổi về phương pháp xác định mục tiêu của bài học – xác định mảng kiến thức trọng tâm của một bài, một môn, trao đổi về biện pháp giáo dục học sinh, hướng dẫn học sinh trong học tập cũng như trong rèn luyện.
2.3. Biện pháp chỉ đạo thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên và việc lựa chọn đồ dùng dạy học của giáo viên.
Thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là việc làm quan trọng, thực hiện quy chế chuyên môn trong trường tiểu học; là khâu mà bất kì giáo viên trực tiếp giảng dạy nào cũng phải có vì trong quá trình thiết kế bài dạy, chuẩn bị giờ lên lớp giúp giáo viên có sự chuẩn bị, sự nghiên cứu về nội dung, tuy nó chưa phải là dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để có biện pháp xử lí kịp thời đúng đắn. Thiết kế bài dạy được xem là công cụ để thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, thể hiện sự sáng tạo của giáo viên và cũng là một trong những việc làm góp phần quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường. Do đó, cần tập trung chỉ đạo việc thiết kế bài dạy và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên cụ thể như sau:
Triển khai các văn bản, các yêu cầu cơ bản về việc thiết kế bài dạy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng đến tổ, khối, giáo viên.
Kế hoạch bài giảng của giáo viên phải thể hiện:
Mục tiêu đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học dành cho các đối tượng học sinh trong lớp.
Tăng cường trang bị về thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến khích giáo viên đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung bài, đồng thời trong quá trình chuẩn bị phải thể hiện được đồ dùng phục vụ cho người dạy và đồ dùng phục vụ cho người học vì đồ dùng dạy học rất quan trọng trong việc dạy học ở tiểu học giúp học sinh nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, đến thực tiễn. Ngoài đồ dùng trực quan sinh động mà giáo viên đã chuẩn bị thì còn hình ảnh trực quan sinh động hơn là người giáo viên: cần có giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ mềm mại, thái độ ân cần… sẽ thu hút sự chú ý học tập của học sinh cao hơn, tăng thêm sự hứng thú học tập của học sinh.
Nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học phải thể hiện rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò, hoạt động trọng tâm của bài; mỗi hoạt động đều thể hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, nêu cách tổ chức của thầy, dự kiến câu trả lời của học sinh và kết luận của giáo viên; không ghi những vấn đề không cần thiết.
Nội dung bài soạn ngắn gọn, xúc tích đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài, logic khoa học, lựa chọn phương pháp giảng dạy (thể hiện sự hệ thống việc làm của thầy – trò, hình thức tổ chức phù hợp với môn học, lớp học với đối tượng học sinh).
Quy định thời gian kí duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện tiết dạy.
2.4. Biện pháp quản lí giờ lên lớp của giáo viên.
Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực hiện mục tiêu dạy học. Trong nhà trường tiểu học hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động chính. Hiện nay quá trình dạy học chủ yếu là diễn ra trong lớp học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm và khả năng của giáo viên. Vì vậy, Hiệu trưởng quản lí giờ lên lớp của giáo viên như:
Tổ chức thực hiện tốt kỉ luật lao động trong nhà trường, khuyến khích giáo viên thực hiện tốt giờ lên lớp (không ra sớm, vào muộn).
Thực hiện chương trình đảm bảo đúng quy chế chuyên môn, quy định của ngành; duy trì và thực hiện tốt giờ lên lớp.
2.5. Biện pháp quản lí việc dự giờ của giáo viên.
Dự giờ là công việc đặc thù, cơ bản, là biện pháp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho mỗi cá nhân giáo viên một cách hiệu quả nhất.
Căn cứ vào Điều lệ trường tiểu học thì đối với giáo viên số tiết dự giờ ít nhất 20 tiết/năm. Để công tác dự giờ có hiệu quả, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, xác định mục tiêu, xác định mảng kiến thức trọng tâm, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học, dự kiến được hết những tình huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy.
Tiến hành dự giờ: khi dự giờ không trao đổi, làm việc riêng mà tập trung theo dõi hoạt động của học sinh, thông qua các hoạt động, hệ thống câu hỏi, câu trả lời và cách đánh giá học sinh của người dạy.
Để có cơ sở đánh giá, đóng góp, xây dựng cho đồng nghiệp, để học tập ở đồng nghiệp, người dạy và người dự chú ý lắng nghe, bày tỏ quan điểm phân tích, chia sẻ sau giờ dạy để mỗi cá nhân rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân mình qua dự giờ của đồng nghiệp.
Căn cứ vào hướng dẫn cách đánh giá, xếp loại tiết dạy của giáo viên gồm 4 lĩnh vực: Kiến thức, kĩ năng sư phạm, thái độ sư pham, hiệu quả. Bốn lĩnh vực có điểm tối đa là 20; xếp loại: Tốt, Khá, Trung bình và Chưa đạt.
Biện pháp 3: Biện pháp chỉ đạo về kiểm tra- đánh giá kết quả việc học tập của học sinh
Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thể hiện thành tích của giáo viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và sự chỉ đạo của nhà trường. Do đó, đánh giá với tinh thần không nghiêm túc, thái độ chưa khách quan, khuynh hướng nhận xét, đánh giá một cách hình thức, thiếu tinh thần trách nhiệm thì sẽ không khắc phục được những hạn chế mắc phải trong học sinh dẫn tới không chỉ hạn chế trong chất lượng giáo dục mà dẫn tới tiêu cực trong giáo dục, đánh giá không đúng, thiếu trung thực sẽ dẫn tới tình trạng nguy hiểm như học sinh ngồi nhầm lớp, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục… Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, Hiệu trưởng có những biện pháp chỉ đạo như sau:
Triển khai, phổ biến các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá và ghi điểm; lập kế hoạch kiểm tra đánh giá thường xuyên, đánh giá theo thời điểm và phổ biến các quy định về nền nếp kiểm tra sâu rộng trong tập thể cán bộ, giáo viên của nhà trường.
Tổ chuyên môn tiến hành nghiên cứu những quy định kiểm tra – đánh giá nhận xét học sinh, lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên và theo từng thời điểm. Nội dung kiểm tra học sinh theo thời điểm được đưa ra tập thể, tổ trao đổi cùng thống nhất nội dung ôn tập và ra đề kiểm tra. Ngoài đánh giá về năng lực, sự rèn luyện của học sinh còn đánh giá về các phong trào như: “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”, …Tổ chức thực hiện tốt theo quy định tại Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT của Bộ GD&ĐT quy định về đánh giá xếp loại học sinh; căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để đánh giá và tiến hành đánh giá đúng thực lực của học sinh ở từng môn học.
Biện pháp 4: Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh 4.1. Xây dựng nề nếp, kỉ cương trong hoạt động học tập của học sinh:
Trong nhà trường, việc xây dựng nền nếp, kỉ cương có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó không chỉ là điều kiện để thực hiện tốt việc dạy và học trên lớp mà còn giáo dục học sinh ý thức, chấp hành tổ chức kỉ luật góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh. Do đó cần:
Xây dựng nội quy học sinh, triển khai sâu rộng trong giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh ngay từ đầu năm học. Đặc biệt người làm thầy phải chú ý lắng nghe ý kiến của người học để nghiên cứu và có biện pháp phát huy tài năng của học sinh và kịp thời uốn nắn giúp học sinh rèn luyện, phát triển đúng đắn hơn.
Giáo viên tìm hiểu tâm lí của học sinh, tìm hiểu về khả năng và nhu cầu của từng em để có biện pháp giáo dục đạo đức, có biện pháp giúp đỡ sự rèn luyện của học sinh. Tổ chức thi đua theo tổ, cá nhân học sinh về học tập, về lao động vệ sinh, về thực hiện nền nếp, thực hiện phong trào giúp bạn vượt khó,… tổ chức bình chọn học sinh gương mẫu, học sinh tích cực trong học tập,… vào cuối tuần, theo dõi thường xuyên và liên tục uốn nắn các hành vi của học sinh.
Phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát động phong trào thi đua, động viên, khuyến khích học sinh chấp hành tốt nội quy, thường xuyên đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần để kịp thời tuyên dương tập thể cá nhân có thành tích tốt, giúp cá nhân học sinh kịp thời điều chỉnh việc làm không phù hợp, khắc phục hạn chế của bản thân dần dần hoàn thiện nhân cách ở học sinh.
4.2. Biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục động cơ học tập của học sinh.
Hoạt động học tập là hoạt động cơ bản của học sinh, hoạt động này có hiệu quả cao hay không còn tùy thuộc vào tinh thần, thái độ học tập của các em. Vì vậy, là người làm nhiệm vụ trồng người cần phải có biện pháp giáo dục cho học sinh tính tự giác trong học tập, thông qua các tiết dạy giáo viên thường xuyên động viên khích lệ sự vươn lên trong học sinh, giáo dục và ươm mầm ước mơ, khơi dậy hoài bão ở mỗi em.
Tổ chức các kỳ giao lưu, Câu lạc bộ,.. tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tài năng của mình, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện niềm đam mê trong học tập.
Giáo dục học sinh thông qua các tiết giáo dục tập thể đầu tuần, giáo dục ngoài
giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao,… nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm. Giáo dục trong tiết sinh hoạt cuối tuần, trong tiết dạy, qua bài học, qua việc làm tốt của bạn, qua kết quả học tập của bạn, của bản thân học sinh,…
Thông qua quá trình thực hiện tiết dạy của giáo trên lớp nên tạo ra cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến, học sinh tích cực xây dựng bài, giáo dục cho học sinh hiểu học tập vừa là quyền được học lại vừa là nhiệm vụ của các em. Tạo ra nhu cầu hứng thú về sự hiểu biết dần dần hình thành nhu cầu học tập với tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn.
4.3. Biện pháp chỉ đạo tổ chức phối hợp các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa:
Để giúp học sinh hoàn thiện và phát triển hơn về năng lực và phẩm chất thì cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh, của chính quyền địa phương chung tay tuyên truyền, vận động để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho con mình học tập ở trường cũng như học tập ở nhà: nên tạo cho các em thời gian biểu hợp lí, thường xuyên nhắc nhở, động viên con học tập, kiểm tra sách vở của con một cách thường xuyên,…
Cùng với giáo viên chủ nhiệm giáo dục con mình phát triển toàn diện, giáo dục đạo đức, giáo dục tính trung thực trong mỗi lĩnh vực, biết đọc sách, tự ôn lại bài trên lớp và xem trước bài học sau.
4.4. Biện pháp chỉ đạo về việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng các môn học.
Căn cứ hồ sơ tuyển sinh, biên bản bàn giao chất lượng lớp dưới lên lớp trên và kết quả khảo sát đầu năm, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên chịu trách nhiệm có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học. Giáo viên chủ nhiệm phân đối tượng học sinh, tìm hiểu nguyên nhân học sinh nhận thức, tính toán chậm để có biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp, nâng dần chất lượng giáo dục bằng nhiều hình thức:
Xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp, cải tiến phương pháp dạy học theo đối tượng học sinh, quan tâm và kịp thời giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm bằng cách giao việc phù hợp, nâng dần, động viên, tạo cơ hội cho học sinh hòa nhập với tập thể, cũng như quan tâm, giúp đỡ học sinh nhận thức, tính toán chậm, công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu cũng là một trong những công tác mũi nhọn của nhà trường. Giáo viên không nên xem thường mà không chuẩn bị riêng cho những học sinh này bài tập, câu hỏi khó thì có nguy cơ gây ra sự nhàm chán đối với các em vì với các bài tập ở sách giáo khoa các em đều làm được. Thời gian còn lại các em chỉ ngồi chờ nếu cứ lập đi lập lại tình trạng này thì sẽ gây ức chế hưng phấn học tập của học sinh, kiềm hãm sự phát triển tư duy của trẻ. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên phải hết sức chú ý và giao việc phù hợp cho học sinh mới phát triển tài năng của tuổi thơ.
Biện pháp 5: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
Gia đình – nhà trường và xã hội là mối quan hệ không thể thiếu trong nhà trường phổ thông đặt biệt là trong trường tiểu học. Nhà trường phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Nhằm huy động mọi lực lượng của cộng đồng tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh. Là cánh tay đắc lực hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần cho tập thể cán bộ, giáo viên tạo điều kiện trang bị đồ dùng dạy học, là nguồn động viên lớn đối với ý thức học tập và rèn luyện của học sinh.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm hiểu về thực trạng của đơn vị và đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học của trường Tiểu học …………. đã được áp dụng trong năm học vừa qua (năm học ……..) với những kết quả khả quan cụ thể như sau:
1. Biện pháp xây dựng đội ngũ trong tập thể sư phạm: 100% giáo viên không vi phạm quy chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kết quả đạt được tập thể vững mạnh.
2. Biện pháp về hoạt động giảng dạy của giáo viên:
Kết quả đạt được năm học ….:
* Học kỳ I:
+ Hồ sơ: xếp loại Tốt: 8/11 bộ = 72,7%; Khá: 3 /11 = 27,3%
+ Chuyên môn: Tốt: 7/11 = 63,6%; Khá: 4/11= 36,4%
* Học kỳ II:
+ Hồ sơ: xếp loại Tốt: 9/11 bộ = 81,8 %; Khá: 2 /11 = 18,2%
+ Chuyên môn: Tốt: 8/11 = 72,7%; Khá: 3/11 = 27,3%
3. Biện pháp chỉ đạo về việc kiểm tra – đánh giá kết quả việc học tập của học sinh:
* Chất lượng học sinh qua các kì nhà trường khảo sát:
+ Môn Tiếng Việt:
+ Môn Toán:
4. Biện pháp chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh:
Kết quả giáo dục học sinh có sự nâng lên rõ rệt: môn Tiếng Việt số học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học ở học kì I là 81,4%, học kì II tăng lên 88,1% (tăng lên 6,7%); môn Toán số học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng môn học ở học kì I là 80,5%, học kì II tăng lên 86,4% (tăng lên 5,9%). Ngoài nâng cao chất lượng giáo dục đại trà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác mũi nhọn trong nhà trường: Năm học 2016 – 2017, nhà trường có 5 học sinh tham gia Olympic Tiếng Việt tiểu học cấp huyện, trong đó có 3 học sinh đạt giải (Giải Nhì: 1em; giải Ba: 2 em); có 1 học sinh tham gia cấp tỉnh và đạt giải Khuyến khích.
* Tóm lại: Qua biểu thống kê cho thấy chất lượng đội ngũ, chất lượng giáo dục học sinh trong năm học vừa qua của nhà trường đã có sự chuyển biến rất rõ rệt giữa học kì I so với học kì II của năm học. Số học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo quy định giảm so với học kì I, đây là kết quả bước đầu mà bản thân tôi thiết nghĩ mình cần phải có những biện pháp, những kinh nghiệm có giá trị hơn nữa để chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở nhà trường ngày một nâng cao.
III. KẾT LUẬN 1. Kết luận:
Kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm là đúng đắn. Qua đó nhận thức của mọi người về biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học được nâng cao.
Kết quả đã xác định rõ thực trạng biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học trong trường tiểu học nói chung và biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói riêng.
Những thành quả trên đã chứng minh một điều: Con đường tôi đi là đúng đắn và tôi sẽ không dừng lại ở đó mà còn phải cố gắng phấn đấu hơn nữa để duy trì và phát huy những kết quả đạt được trên con đường giáo dục lâu dài của mình.
2. Những kiến nghị, đề xuất:
Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số nội dung sau:
2.1. Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy:
Ngay từ đầu năm học điều tra, nắm được đặc điểm tâm lí, hoàn cảnh của học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn.
Thiết kế bài dạy phù hợp với các đối tượng học sinh, chú ý dạy học phân hóa đối tượng.
2.2. Đối với Lãnh đạo nhà trường:
Vào đầu mỗi năm học tổ chức khảo sát chất lượng học sinh, giao chất lượng cụ thể cho giáo viên giảng dạy.
Duy trì tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường.
Tổ chức Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh cấp trường từ lớp 1- lớp 5.
Thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng trong trường.
Làm tốt công tác nghiệm thu, bàn giao chất lượng học sinh cuối năm học.
2.3. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
Hàng năm, tổ chức các chuyên đề tập huấn, bồi dưỡng cho các bộ quản lí, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ, công tác chỉ đạo, quản lí.
Duy trì tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện.
Tổ chức Olympic Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh dành cho học sinh lớp 4 và 5.
Hàng năm, tham mưu với UBND huyện ổn định đội ngũ giáo viên, tạo điều kiện cho nhà trường thực hiện việc bồi dưỡng đội ngũ để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Ở Tiểu Học
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời kì xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng đến giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung, chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Là một cán bộ quản lý, tôi nhận thấy bản thân giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nhà trường – nhiệm vụ phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói chung và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói riêng, đặc biệt là chất lượng học sinh đại trà. Năm học ………….. nhiệm vụ chung của ngành là: Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học;… Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh: Căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình lồng ghép giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh. Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình kiến thức, kĩ năng môn học và có mảng kiến thức dành cho đối tượng học sinh năng khiếu. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tiểu học căn cứ vào những nhận thức mới của học sinh về đạo đức, học tập và rèn luyện ở các em; căn cứ vào năng lực tổ chức, thiết kế và những hoạt động trong quá trình dạy học ở giáo viên vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp dạy học truyền thống mà họ không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lí để tạo cho người học lòng say mê học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp học tập, tạo ra sự phát triển mới, nâng cao hiệu quả giáo dục phù hợp với bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải thừa kế sự phát huy những thành tựu đã đạt được đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn của đơn vị. Tôi mạnh dạn chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học ……………” nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng dạy – học và đẩy mạnh công tác mũi nhọn của nhà trường.
Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Mĩ Thuật Ở Tiểu Học Theo Chủ Đề Đan Mạch trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!