Xem 13,959
Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Cho Học Sinh Dân Tộc Tại Trường Tiểu Học Lê Hồng Phong mới nhất ngày 19/05/2022 trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến thời điểm hiện tại, bài viết này đã đạt được 13,959 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………3
1.
Lý do chọn đề tài………………………………………………………………………………………….3
2.
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài………………………………………………………………………..3
3.
Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………………………………4
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………………..4
5.
Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………………………………4
II. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………………………………..4
1.
2.
3.
Cơ sở lý luận………………………………………………………………………………………………..4
1.1.
Cơ sở thực tiễn………………………………………………………………………………………4
1.2.
Cơ sở lý luận khoa học…………………………………………………………………………..5
Thực trạng…………………………………………………………………………………………………..5
2.1.
Thuận lợi và khó khăn…………………………………………………………………………..5
2.2.
Thành công và hạn chế………………………………………………………………………….6
2.3.
Mặt mạnh và mặt yếu…………………………………………………………………………….7
2.4.
Các nguyên nhân, các yếu tố tác động……………………………………………………..8
2.5.
Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra……………………..8
2.5.1.
Khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa………………………………………………………8
2.5.2.
Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc…………….9
2.5.3.
Khó khăn của đội ngũ giáo viên………………………………………………………..11
Giải pháp, biện pháp…………………………………………………………………………………..11
3.1.
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp…………………………………………………………11
3.2.
Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………….12
3.2.1.
Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em học sinh dân tộc…….12
3.2.2.
Tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái và tôn trọng…………………………12
3.2.3.
Quan tâm đến những khó khăn của học sinh……………………………………….15
3.2.4. Tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ trách nhiệm, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn
luyện ở lớp, ở nhà………………………………………………………………………………………..20
3.2.5. Tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là phong tục tập quán…………………22
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
3.2.6. Rèn luyện các thói quen và hành vi văn minh………………………………………….26
3.5.7. Phối hợp kịp thời với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường…….28
3.3.
Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp……………………………………………….29
3.4.
Mối liên hệ giữa các giải pháp, biện pháp………………………………………………29
Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu….29
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………………30
1.
Kết luận…………………………………………………………………………………………………….. 30
2.
Kiến nghị…………………………………………………………………………………………………… 31
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DTTS
Dân tộc thiểu số
HSDTTS
Học sinh dân tộc thiểu số
TCTV
Tăng cường tiếng việt
GDTH
Giáo dục tiểu học
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định vị thế cùng sự bình đẳng giữa các
quốc gia, dân tộc trong cùng khu vực hay trên thế giới là chất lượng nguồn nhân lực. Việc
tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học – kỹ thuật và kỹ năng làm
việc cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay là một đòi hỏi khách quan.
Để đáp ứng yêu cầu khách quan ấy, giáo dục – đào tạo là công cụ quan trọng bậc nhất,
có ý nghĩa quyết định trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Vai trò quan
trọng của giáo dục – đào tạo thể hiện ở chỗ nó phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực
không chỉ trên bình diện xã hội rộng lớn, mà còn có khả năng tiếp cận đến từng cá nhân, từ
đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò tạo nguồn trực tiếp về mặt chủ thể cho các quá trình
phát triển kinh tế – xã hội và đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế – xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, cơ hội học tập và
nâng cao trình độ của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng nhiều hơn. Đến nay, các tỉnh
miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống tái mù chữ. Tuy nhiên chất
lượng giáo dục của học sinh dân tộc thiểu số nhìn chung còn thấp so với mặt bằng của cả
nước.
Ở địa bàn huyện KrôngAna nói chung và trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng
tỷ lệ số học sinh dân tộc thiểu số khá cao, đặc biệt tại Phân hiệu Buôn Đrai. Bản thân tôi là
một giáo viên đã nhiều năm gắn bó với nghề, với trường nên tôi nhận thức được rất rõ chất
lượng giáo dục cũng như các điểm hạn chế của các em học sinh dân tộc thiểu số.
Để củng cố và chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục cho các em học sinh dân tộc, tôi chọn nghiên cứu và xây dựng đề tài ” Một số biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc tại trường Tiểu học Lê Hồng
Phong”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
– Xác định được thực trạng về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất, chất lượng của các em học sinh dân tộc thiểu số của nhà trường.
– Đưa ra được một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho các em học sinh dân
tộc thiểu số trong nhà trường.
3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
3. Đối tượng nghiên cứu
– Nghiên cứu một số phương pháp truyền thống, phương pháp mới mà giáo viên nhà
trường đã thực hiện trong quá trình giảng dạy những năm học vừa qua đối với học
sinh trường Tiểu học Lê Hồng Phong, một số hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên
quan đến việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh DTTS.
– Học sinh DTTS ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong, chất lượng và hiệu quả đào tạo
của nhà trường trong những năm gần đây, những thuận lợi – khó khăn và điều kiện
dạy học của nhà trường.
– Chất lượng đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
– Thực trạng về cơ sở vật chất của nhà trường, đặc điểm kinh tế và xã hội của khu vực.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số phương pháp dạy và học, những thành tựu trong việc đổi mới
phương pháp dạy học đối với học sinh dân tộc thiểu số ở tất cả các khối từ lớp 1 đến lớp 5
đặc biệt là kết quả của việc nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số của các giáo viên
đứng lớp và các giáo viên bộ môn ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
5. Phương pháp nghiên cứu
– Tổng hợp số liệu về thực trạng chất lượng học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học
Lê Hồng Phong, tổng hợp các số liệu về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất.
– Phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước khi thực hiện biện pháp và sau
khi áp dụng các biện pháp mới.
– Tham khảo ý kiến của giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả
đạt được và những hạn chế khi thực hiện những giải pháp để nâng cao chất lượng
giáo dục học sinh DTTS.
II.PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở thực tiễn
Nâng cao chất lượng học sinh DTTS là một yêu cầu trọng tâm trong đường lối phát
triển giáo dục của nước ta hiện nay. Chính phủ và Nhà nước đã và đang đưa ra nhiều đường
lối, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các em học sinh dân tộc thiểu số được
học tập, được nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo dục tiểu học đối với các em học sinh dân
tộc thiểu số là một nền tảng vô cùng quan trọng để các em tiếp cận tốt hơn với kho tàng tri
thức của nhân loại. Giai đoạn tiểu học sẽ là bước để các em tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt,
các kiến thức cơ bản và là một bước để các em thay đổi tư duy vốn có về mục đích và ý
nghĩa của việc học tập.
1.2. Cơ sở lý luận khoa học
4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
Giáo dục là hoạt động hướng tới con người, bằng những biện pháp hướng
tới truyền thụ: Tri thức và khái niệm, kỹ năng và lối sống, tư tưởng và đạo
đức. Từ đó hình thành năng lực, phẩm chất, nhân cách, phù hợp với mục đích, mục tiêu, hoạt
động lao động, sản xuất và lối sống xã hội.
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của giáo dục: Là nhằm
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi:
–
Đảng và nhà nước luôn quan tâm coi trọng công tác dân tộc và giáo dục dân tộc có
đường lối chính sách rõ ràng, pháp luật rõ ràng, các văn bản dưới luật chi tiết cụ thể.
–
Các cấp quản lí ngành Giáo dục luôn quan tâm chỉ đạo sát sao, đặc biệt là chất lượng
giáo dục HSDTTS.
–
Công tác xã hội hóa giáo dục ở thôn buôn được nâng cao, các tổ chức đoàn thể tham
gia nhiệt tình.
–
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình đa số có năng lực và tâm huyết đối với chất lượng giáo
dục nói chung và chất lượng HSDTTS nói riêng.
–
Bản thân sống gần gũi với người dân Ê đê, có hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục tập
quán, lối sống, thông thạo địa bàn.
–
Về cộng đồng dân cư đồng bào DTTS và HSDTTS. Ngày nay, hoạt động kinh tế xã
hội, phong tục tập quán, một số nếp sống trong cộng đồng dân cư đã thay đổi theo
hướng tiến bộ làm cho cha mẹ học sinh và HSDTTS xóa bản tính tự nhiên, dựa vào
thiên nhiên mà họ đã có nhu cầu phải học, trước hết là học để biết “cái chữ”.
–
Về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt và TCTV cho HSDTTS
ngày càng được trường và các cấp quan tâm đầu tư. Đặc biệt là ở 2 điểm trường buôn
Eana và Buôn Drai.
b. Khó khăn:
5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
–
Có sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên với học sinh; giữa giáo viên với phụ
huynh.
–
Nhận thức và nhu cầu học tập của một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số
cò thấp, tỉ lệ chuyên cần của HSDTTS vẫn chưa cao.
–
Phong tục tập quán, đặc điểm tâm lí, văn hóa dân tộc cũng tác động, ảnh hưởng đến
chất lượng học tập của các em.
–
Đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc Ê-đê ở hai buôn Eana và buôn Drai còn gặp
nhiều khó khăn cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của các em.
2.2. Thành công và hạn chế
a. Thành công:
–
HSDTTS được huy động đến trường cao. Trường Tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng
và xã Eana nói chung được cấp trên công nhận đạt Phổ cập GDTH đúng độ tuổi.
–
HSDTTS có cơ hội học tập và hòa nhập nhiều hơn.
–
Cộng đồng người đồng bào dân tộc đã có thay đổi nhận thức về việc học và nhu cầu
được học.
–
Chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt cho HSDT ngày càng được nâng cao, hầu hết
các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học, đa số các em có vốn tiếng Việt đủ
để làm phương tiện tìm hiểu kiến thức các môn học khác.
–
Khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ hợp tác của đồng
nghiệp, HSDTTS và ban tự quản.
b. Hạn chế:
Tuy với sự nỗ lực của thầy và trò, các em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học
theo quy định nhưng vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục:
–
Học sinh hạn chế về hưởng nền giáo dục gia đình và cộng đồng nơi cư trú, có ít cơ
hội được giao tiếp tiếng Việt ở cộng đồng .
–
Phụ huynh chưa tích cực giúp con em mình giao tiếp và sử dụng tiếng Việt.
–
Chất lượng sử dụng tiếng Việt của các em HS DTTS chưa cao.
–
Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Việt – Mường có nhiều đặc điểm khác hẳn so với tiếng Êđê
thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me về cấu trúc, cú pháp, … nên các em HSDT tiếp thu
tiếng Việt rất khó.
6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
2.3. Mặt mạnh và mặt yếu
a. Mặt mạnh:
–
Bản thân đã nhiều năm phụ trách lớp có tỷ lệ HSDTTS cao, giao tiếp trực tiếp với
HSDTTS và phụ huynh nên nắm bắt được nhiều thông tin phản hồi từ phía gia đình
học sinh.
–
–
Đội ngũ giáo viên được tập huấn đầy đủ về TCTV và có tinh thần tích cực học tập,
bồi dưỡng thường xuyên; có tình thương yêu đối với học sinh, luôn nhiệt tình, trách
nhiệm trong công tác giáo dục HSDT và TCTV cho HSDT.
–
Bản thân sống gần gũi với cộng đồng người Ê-đê, tìm hiểu, học tập được ngôn ngữ,
phong tục tập quán, đời sống của người dân Ê-đê nên thuận tiện nhiều trong việc giáo
dục học sinh dân tộc Ê-đê.
–
Công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục cũng được thực hiện thường xuyên.
–
Trường có giáo viên chuyên dạy tiếng Ê-đê.
Các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo sự gần gũi giữa giáo viên và các học sinh dân
tộc thiểu số chưa đạt hiệu quả cao.
–
Chất lượng học tập của các học sinh dân tộc thiểu số chưa đạt được kết quả tốt nhất
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Các nguyên nhân, các yếu tố tác động dẫn đến những thành công là:
–
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đề cao coi trọng công tác giáo dục
dân tộc.
–
Được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của các cấp quản lí giáo dục.
–
Đội ngũ giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tích cực đổi mới phương
pháp dạy học và trăn trở với chất lượng HSDT.
7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
–
GV: Thái Thị Luận
Một số tập tục lạc hậu trong cộng đồng dân tộc bị bãi bỏ, điều kiện tự nhiên không
còn ưu đãi cho cuộc sống tự nhiên mà yêu cầu sản xuất, phát triển kinh tế, giao lưu
văn hóa,.. cần phải biết thông tin, khoa học kĩ thuật cũng là yếu tố tác động khiến
đồng bào DTTS thay đổi nhận thức và có nhu cầu cần phải học.
Nguyên nhân, các yếu tố tác động làm cho chất lượng học tập tiếng Việt của HSDT
còn hạn chế là:
–
Nội dung chương trình học chưa thực sự phù hợp, người dạy thì hạn chế về ngôn ngữ,
văn hóa, tâm lí,… của học sinh nên khó có biện pháp TCTV.
–
Người học cũng học bằng ngôn ngữ thứ hai nên gặp nhiều rào cản.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng và đề tài đã đặt ra.
2.5.1. Khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa.
Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy
học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là nhiệm vụ
hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học tiếng Việt với tư
cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại dải đất này, các dân
tộc như Jrai, Bahnar… Mục đích của việc giáo dục ngôn ngữ này là nhằm cung cấp cho các
em một công cụ giao tiếp, một phương tiện tư duy, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, cùng
sống dưới mái nhà chung Việt Nam, cùng chung tiếng nói, cùng sử dụng một ngôn ngữ, phát
huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng mới. Thế nhưng xét về mặt chất
lượng, hiệu quả giáo dục ngôn ngữ hiện nay ở các tỉnh Tây Nguyên, như Gia Lai, KonTum,
ĐăkLăk vẫn còn thấp.
Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân
tộc thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự chăm
sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn
giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm Non đã trang
bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào
lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử
dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông,
tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy
cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các
môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến
lớp là các em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn
thường trực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.
8
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em,
trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn
xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ
trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản
năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít
ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các
cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở buôn, làng, họ phát biểu bằng tiếng Việt
rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia
đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các
em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp,
từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt
khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
2.5.2. Hạn chế về điều kiện kinh tế và nhận thức của đồng bào dân tộc.
Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy rằng, các em học sinh ở
đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo luôn nhắc nhở con người sống trong
cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân.
Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm,
tự ti, bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không thể thoát
khỏi những thiếu thốn vật chất, không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học
sinh tiểu học người dân tộc thiểu số nơi đây không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ
có “ngày hai buổi đến trường”, các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa, trồng
ngô,…lo cho cuộc sống vật chất. Nghe những đồng nghiệp tâm sự, rằng “chúng tôi phải vào
tận buôn lùng sục các em, đưa các em đến trường.”; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, “Tôi
phải dùng tiền lương của mình để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các
em trở lại trường. Nhưng có lúc cũng không thành công!”,… Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề
là ở chỗ, cái nghèo truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn
từng bữa còn chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của
các em là vậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống
nghèo khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng,
số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng
xin phép giáo viên chủ nhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên
trở lại trường khi mùa hái cà phê kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận nhà, vận
động các em đến trường.
9
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là sự
sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về điều kiện
sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu học dân tộc
thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản ngăn cách hoạt động
sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em khó tiếp xúc, hòa nhập
cộng đồng. Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở
một mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối quan hệ
trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh thực tại
nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số phận, làm thui chột
hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số đến trường trong
tâm thế “hèn mọn” đó. Các em cũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học
sinh người Kinh, nhìn lại trang phục của mình. Nhiều em học sinh đến trường bằng những
đôi dép cũ kỹ, hoặc trong trang phục không lành lặn, hay với những đồng phục bắt buộc
nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với những cuốn tập bị bỏ
quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần học tiếng Việt của các
em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.
Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em
một môi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các em
ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển
nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây
dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em
rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc kiềm hãm sự phát
triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo
lắng cho mỗi giờ đến lớp, “sợ” phải đến trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn
đối với các em. Đối với người dân tộc Ê-đê, không gian sống của họ rất đặc trưng, không có
ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không có không gian sống cá
nhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian sống đặc
thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn hóa, về cội
nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở của họ, một
không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy, việc tạo một không
gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này đã không tạo điều kiện học
tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập của các em ngày càng giảm sút. Đối với
các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia đình hoặc không có
khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc nhắc nhở quản lý, hay do
10
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
11
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
không nên ép buô êc các học sinh đó phải trả lời. Có thể tìm hiểu về những học sinh này qua
các bạn cùng lớp, cùng địa bàn. Cần kiên trì trong mô êt số trường hợp cụ thể.
3.2.2. Tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái và tôn trọng
Môi trường tâm lý thoải mái trong học tập và hoạt động sẽ tạo điều kiện cho HS tham
gia hiệu quả hơn vào bài học và các hoạt động của lớp học nói chung. Nó còn góp phần kiến
tạo nên một bầu không khí tâm lý, tinh thần hài hòa, cân bằng trong lớp học, giúp HS được
làm quen với một “xã hội thu nhỏ” lành mạnh, có văn hóa, có sự tôn trọng và chia sẻ của
mọi thành viên. Điều này không chỉ giúp ích cho quá trình học tập trong nhà trường, mà còn
mang lại lợi ích thiết thực về sau khi các em gia nhập cuộc sống của những người trưởng
thành, thực sự tham gia vào môi trường xã hội rộng lớn.
GV cũng thu nhận được nhiều lợi ích nếu cùng HS tạo ra được một môi trường tâm lí
thuận lợi cho việc học tập, như: dễ dàng hơn trong quản lý hành vi và hoạt động của HS, huy
động được HS tham gia tốt hơn vào quá trình học tập, HS đạt được kết quả học tập tích cực
hơn, xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, giúp đỡ, giúp GV quản lý lớp hiệu quả hơn,…
Về phía nhà trường nói chung, một môi trường học tập thoải mái, tin cậy, và hứng thú
mà các lớp học kiến tạo được sẽ mang lại cho nhà trường một bầu không khí sư phạm lành
mạnh, tạo điều kiện lý tưởng nhất cho mọi hoạt động của HS, GV, cán bộ nhà trường cũng
như sự tham gia của phụ huynh HS. Đây chính là một trong những điều kiện cốt lõi để thực
hiện chủ trương “trường học thân thiện, HS tích cực”, làm cho mỗi một ngày tới trường của
cả HS và GV đều là một ngày hứng thú, hiệu quả.
Một số cách thức tạo môi trường tâm lý an toàn, thoải mái, tin tưởng, tôn trọng trong
lớp học:
– Nỗ lực xây dựng, duy trì lòng tin của HS với GV và với tập thể lớp ngay từ những
ngày đầu tiếp cận lớp học: Lòng tin là một trong những cơ sở quan trọng cho bất kỳ hoạt
động tập thể, hoạt động nhóm nào giữa các cá nhân. Một số GV, do vị trí và quyền lực nhất
định của mình, có thể làm cho HS cảm thấy sợ và nể, nhưng không được các em tin tưởng,
yêu quí, và ngược lại, có những GV hết sức bình thường nhưng luôn được các em tìm đến
chia sẻ mọi điều khó khăn, khúc mắc. Vì vậy, có thể nói tạo dựng được lòng tin của HS đối
với mình tức là GV đã xây dựng được nền tảng quan trọng nhất của công việc quản lý lớp
học và kiến tạo bầu không khí tâm lý, tinh thần thoải mái, tin cậy trong tập thể lớp. Thiếu sự
tin tưởng ở GV, HS sẽ chỉ thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ GV đề ra vì trách nhiệm hoặc sự
phục tùng mà thiếu vắng yếu tố nhiệt huyết, tình yêu và sự tận tụy đối với công việc được
giao.
12
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
13
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
– Cá nhân hóa quá trình dạy học và GD, đặc biệt lưu tâm đến những điểm đặc trưng
về văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh… của HSDTTS. Việc cá nhân hóa hoạt động dạy học và
GD phải dựa trên cơ sở hiểu biết về phong cách học tập của những HS khác nhau cũng như
hoàn cảnh, điều kiện sống của từng em. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh kết quả học tập và
khả năng lĩnh hội kiến thức của HS phụ thuộc một phần đáng kể vào phong cách học tập cá
nhân, như có em học tốt nhất với hình ảnh, biểu tượng, có em lại thể hiện ưu thế với ngôn
ngữ, cách diễn đạt, v.v. Nếu nắm bắt được những đặc điểm này của từng nhóm HS trong lớp,
GV có thể tạo điều kiện tốt nhất cho mỗi em phát triển khả năng, thế mạnh của mình trong
học tập cũng như hoạt động tập thể, giúp các em tự tin và ngày càng tiến bộ hơn.
Bên cạnh đó, những hiểu biết của GV về đặc điểm văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng…
của các DTTS trong địa phương cũng sẽ là một thế mạnh giúp GV tiếp cận HS của mình tốt
hơn, quản lý lớp học hiệu quả hơn, tạo được sự tin cậy và chia sẻ đối với nhóm HSDTTS
trong lớp. Việc tìm hiểu này đương nhiên sẽ tốn thời gian và công sức của GV, song hiệu quả
mang lại đối với lớp và với bản thân công tác quản lý lớp học của người GV thì không thể
phủ nhận.
– Bài trí, sắp xếp không gian và bối cảnh lớp học theo phong cách thân thiện với
người học, tích cực, sáng tạo. Không chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các hoạt động học tập hàng
ngày, không gian lớp học tác động không nhỏ tới tâm lý, tinh thần, động cơ và hứng thú học
tập của HS. Bàn ghế trong lớp nên bố trí theo các nhóm với khoảng từ 4-6 người để HS dễ
dàng thực hiện các hoạt động học theo nhóm nhỏ. Bố trí những góc trưng bày nho nhỏ ở
cuối lớp như góc thư viện, góc trò chơi, góc cây xanh, huy động HS tự cung cấp sản phẩm
của mình để trang trí, bày biện cho các góc này, hoặc GV tìm cách liên hệ với các đơn vị
trong trường như Đoàn thanh niên, thư viện trường… để yêu cầu hỗ trợ về nguồn tài liệu.
GV nên hỏi ý kiến của chính HS trong việc bài trí lớp học và tôn trọng nguyện vọng, sáng
kiến, ý tưởng riêng của các em trong sự hài hòa với điều kiện và qui định của nhà trường.
Một không gian lớp học sinh động, hấp dẫn sẽ làm cho HS yêu quí lớp của mình hơn và cảm
thấy vui thích, phấn khởi mỗi khi đến trường.
– Kết hợp việc dạy học hàng ngày với các hoạt động “khởi động”, “thư giãn” nhỏ
hoặc trò chơi đơn giản để tạo hứng thú học tập và tăng cường tinh thần đồng đội, tính hợp
tác cũng như rèn luyện nhiều kỹ năng khác nhau cho HS. Một số thầy cô giáo chúng ta
thường chỉ coi trọng chất lượng giờ giảng dạy trên lớp mà không chú ý nhiều đến những
dạng hoạt động “xây dựng tinh thần nhóm” hoặc mang tính “khởi động”, “thư giãn”, giúp
HS tạo cảm giác thỏai mái, hứng thú trước, trong, hoặc giữa các tiết học. Đó có thể là những
trò chơi nho nhỏ, một vài động tác thể dục vui đơn giản, đôi ba câu đố vui/đố mẹo… được
14
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
15
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
Việc GV phát hiện ra những trở ngại, khó khăn của HS trong lớp và hỗ trợ các em
vượt qua chúng sẽ tạo cho HS có cảm giác được bảo vệ, chăm sóc và quan tâm, giúp các em
có thêm nghị lực vượt khó. Bên cạnh đó, khi được GV chú ý đến những vấn đề khó khăn của
mình, bản thân HS có thêm động lực để cố gắng hơn trong học tập và rèn luyện. Đồng thời,
GV cũng được HS thêm yêu mến, tin cậy để có thể sẵn lòng chia sẻ nhiều hơn những khó
khăn, khúc mắc của mình trong cuộc sống hoặc học tập.
Quan tâm đến khó khăn của HS còn góp phần giúp GV xây dựng và duy trì được một
tập thể lớp đoàn kết, tương trợ, nơi HS cảm thấy mình là một phần có ý nghĩa của cộng đồng
lớp học và tích cực tham gia các hoạt động chung. Từ đó, từng bước hình thành, củng cố tinh
thần trách nhiệm và ý thức tập thể cho HS. Điều này càng có ý nghĩa đối với nhóm thiểu số
HS dân tộc thường hay mặc cảm, tự ti và ngại giao tiếp trong một tập thể có đông HS người
Kinh hơn.
Một số cách thức thực hiện việc quan tâm đến những khó khăn của học sinh
– Lập hồ sơ chi tiết của từng HS và thường xuyên cập nhật, bổ sung. Hồ sơ HS ở đây
không chỉ thuần túy là một bản ‘trích ngang’ những thông tin về hoàn cảnh cá nhân, gia đình
của HS như quan niệm truyền thống, mà còn bao gồm cả các sản phẩm trong quá trình học
tập và hoạt động của HS như bài tập/bài thi các môn học, các bản thu hoạch, tranh vẽ sáng
tác, bài thơ dự thi, bài báo tường, các nhận xét của những GV khác về HS, bằng chứng về
việc khen thưởng/kỷ luật, v.v. Túi hồ sơ hoàn thiện của một HS chính là “cửa sổ để quan sát
tư duy và quá trình học tập của HS”, mà GV thông qua đó có thể nhìn rõ hơn bức tranh sinh
động, chân thực về các HS của mình bao gồm cả những thuận lợi, khó khăn mà em đó gặp
phải trong học tập và cuộc sống.
Việc xây dựng, quản lý và cập nhật hồ sơ HS có thể hiệu quả hơn nếu GV huy động
được sự tham gia của hội đồng tự quản lớp trong công việc này, vì hơn ai hết, HS hiểu rõ
hoàn cảnh và một số khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của bạn bè mình. Hội đồng tự quản
lớp hoặc một số HS có trách nhiệm trong lớp học có thể cung cấp những nguồn thông tin xác
thực, cập nhật nhất về hoàn cảnh, điều kiện, những thay đổi trong cuộc sống của các thành
viên trong lớp, giúp GV hiểu rõ hơn về tập thể HS của mình và những khó khăn mà các em
phải đối mặt.
Dựa trên thông tin có được về từng HS, GV có thể đánh dấu những hồ sơ, trường hợp
đặc biệt cần sự quan tâm riêng để có sự hỗ trợ sau này trong quá trình giảng dạy, tiếp cận em
16
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
17
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
– Tăng cường sự tham gia và ý thức trách nhiệm của hội đồng tự quản và tập thể HS
để HS có ý thức tự quan tâm đến thành viên lớp mình và tìm cách hỗ trợ nhau. Trong một số
trường hợp nhất định, HS tự giúp nhau sẽ hiệu quả và thiết thực nhất.
Giao trách nhiệm cụ thể cho Ban cán sự lớp trong việc tìm hiểu hoàn cảnh một số HS
đặc biệt trong lớp để có hướng giúp đỡ hiệu quả. Tuy nhiên việc tìm hiểu cần tế nhị, tránh
gây tổn thương, mặc cảm đến em HS đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, GV cũng không thể
phó mặc hoàn toàn việc này cho Ban cán sự lớp, mà cần thường xuyên theo dõi, đôn đốc và
giám sát công việc của các em để có những chỉ dẫn hoặc can thiệp kịp thời.
– Chú trọng xây dựng và duy trì bầu không khí tập thể lớp học đoàn kết thân ái, luôn
tương trợ giúp đỡ nhau. Muốn vậy, trước hết bản thân GV phải làm gương tốt cho HS bằng
cách luôn cư xử đúng mực với người khác, tận tình giúp đỡ người gặp khó khăn bất kể đó là
đồng nghiệp, HS, hay những hoàn cảnh không may khác xung quanh mình. HS rất có ấn
tượng với cách cư xử, lối sống hàng ngày của GV, do vậy một gương GV nhân ái, luôn biết
quan tâm giúp đỡ những người xung quanh sẽ là bài học ‘sống’ giá trị nhất để tác động tới
các em. Mặt khác, GV có thể phối hợp với Đoàn thanh niên và Ban cán sự lớp để phát động
những phong trào, hoạt động tương thân tương ái trong lớp, trường hoặc có phạm vi rộng
hơn nhà trường như: thu gom và trao đổi đồ dùng học tập, quần áo cũ; tiết kiệm tiền ‘bỏ ống’
cho các bạn khó khăn; tổ chức thăm hỏi, tặng quà định kì những gia đình có hoàn cảnh éo le,
bất hạnh; tham gia hoặc khởi xướng các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng như trồng cây,
giúp đỡ người già, người neo đơn, giúp nạn nhân chất độc da cam, lao động công ích trong
các công trình công cộng,…
Thông qua các hoạt động thiện nguyện trợ giúp những người khó khăn trong lớp,
trường của mình cũng như ngoài xã hội như vậy, HS sẽ phát triển được những nét tính cách
nhân ái, bao dung, biết quan tâm giúp đỡ người khác. Đồng thời, việc cùng nhau tổ chức
hoạt động tập thể còn giúp các em tăng cường tinh thần đồng đội, hợp tác hiệu quả – những
yếu tố quan trọng giúp xây dựng một tập thể lớp thân ái, đoàn kết.
– Trang bị cho HS, và Hội đồng tự quản lớp những kỹ năng sống quan trọng để biết
cách giao tiếp, ứng xử phù hợp và quan tâm đến người khác, như các kỹ năng giao tiếp, tự
nhận thức, hợp tác, thương lượng, làm việc nhóm, ra quyết định, giải quyết vấn đề, lãnh đạo
nhóm… Để làm được điều đó, trước hết GV cũng phải có hiểu biết, tự trang bị cho mình
những kiến thức, kỹ năng này, hoặc phải tham gia vào những khóa tập huấn chuyên sâu về
kỹ năng sống, sau đó biết cách tổ chức các hoạt động cụ thể để huấn luyện lại cho HS.
18
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
19
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV: Thái Thị Luận
Tổ chức các nhóm học tâ êp, đôi bạn cùng tiến
Học nhóm là một phần quan trọng để tạo ra một lớp học hiệu quả. Tuy nhiên, đây
không chỉ là học sinh “làm việc cùng nhau” đơn thuần mà là cùng hợp tác học tập dưới hình
thức học nhóm. Mục tiêu chính yếu của học nhóm là giúp học sinh chủ động học tập để đạt
được một mục tiêu học tập chung. Việc tạo nhóm học tập như vậy cho phép học sinh làm
việc cùng nhau để tối ưu hóa việc học tập của mình và của các bạn khác trong nhóm.
Thông qua việc học nhóm người học có thể được:
– Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tạo cảm giác thoải mái cho người học:
Xuyên suốt quá trình học nhóm là các hoạt động học tập mang tính hợp tác. Khi học theo
nhóm, người học cảm thấy thoải mái, không bị căng thẳng như lúc học một mình. Các em
nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của những người trong nhóm nên sẽ trở nên tự tin hơn và vì
thế, việc học của các em sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
– Phát triển kỹ năng giao tiếp: Bên cạnh việc đạt được mục tiêu học tập là phát triển
kỹ năng ngôn ngữ, người học tham gia vào các hoạt động học tập của nhóm còn có điều kiện
để phát triển kỹ năng giao tiếp. Các em sẽ học được cách trình bày và bảo vệ quan điểm của
mình, biết cách thuyết phục và thương lượng trong việc giải quyết vấn đề. Các em trở nên
mềm dẻo và linh hoạt hơn trong giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp của các em vì thế mà ngày càng
được hoàn thiện đáng kể.
– Phát triển tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và khả năng giải quyết vấn
đề: Trong khi học nhóm, người học phải tham gia vào các hoạt động như thuyết trình, thảo
luận, tranh luận, giải quyết vấn đề,… Các hoạt động này đòi hỏi người học phải sáng tạo,
lôgic, linh hoạt và nhạy bén. Người học còn phải đánh giá các hoạt động mà nhóm mình
thực hiện để có những điều chỉnh hợp lý.
Các hoạt động nêu trên đã giúp người học phát triển tư duy sáng tạo cũng như khả
năng phân tích, tổng hợp và khả năng giải quyết vấn đề.
Để việc học nhóm của học sinh có hiệu quả, trước hết giáo viên cần giúp từng học
sinh xác định trách nhiệm của bản thân, ngoài ra các thành viên trong nhóm cần có ý thức tự
giác: tự giác về thời gian, bài vở, tự giác “phát biểu”…
– Hãy hoàn thành tất cả các bài tập có thể, dàn ý bài học thuộc và các bài đọc tham
khảo, đối với các môn xã hội.
– Trình bày những gì mình đã chuẩn bị và biết đặt ra các câu hỏi
20
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Cho Học Sinh Dân Tộc Tại Trường Tiểu Học Lê Hồng Phong trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!