Xem Nhiều 6/2023 #️ Skkn: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tiết Thực Hành Môn Tin Học 4 # Top 13 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 6/2023 # Skkn: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tiết Thực Hành Môn Tin Học 4 # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tiết Thực Hành Môn Tin Học 4 mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Mở đầu1.1 Lí do chọn đề tàiTrong xu thế phát triển của hệ thống giáo dục hiện nay, môn Tin học đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện mà còn tạo tiền đề vững chắc cho các em học sinh trên con đường hội nhập. Mặc dù vậy, việc triển khai dạy và học môn Tin học vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn thách thức.

Trường Tiểu học được nhà nước đầu tư phòng máy tính cho học sinh từ nhiều năm trước, nhưng đến năm học 2016 – 2017 các em mới chính thức được học Tin học ở các khối lớp 3, lớp 4 và lớp 5. Trong quá trình dạy học tôi phát hiện các em rất thông minh và có hứng thú trong việc học bộ môn này. Tuy nhiên, kĩ năng thực hành của các em còn chậm và hiệu quả chưa cao. Qua thực tế đó tôi luôn băn khoăn, trăn trở và mong muốn tìm ra biện pháp khắc phục, nâng cao chất lượng mỗi giờ thực hành. Chính vì thế mà tôi lựa chọn đề tài “một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết thực hành trên máy tính trong môn Tin học cho học sinh lớp 4″ nhằm cải thiện được tình trạng nói trên.

1.2. Mục đích nghiên cứuMục đích của đề tài: “một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết thực hành trên máy tính trong môn Tin học cho học sinh lớp 4″ được hình thành trên cơ sở thực tiễn nói trên, ngoài nâng cao các kĩ năng thực hành Tin học còn giúp hoc sinh:Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và trong đời sống.Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác, trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời sống xã hội hiện đại.Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ Tin học.Góp phần rèn luyện một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, nâng cao kiến thức cho học sinh.

1.3. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 4.

1.4. Phương pháp nghiên cứua) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luậnBộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường Tiểu học và chủ yếu là sử dụng phương pháp trực quan sinh động để ứng dụng thực hành. Do đó việc nghiên cứu lí luận là không thể thiếu, nên khi xây dựng đề tài này tôi đã nghiên cứu các tài liệu tham khảo sau: Giáo trình Word thực hành, Giáo trình Excel thực hành, Tin Học Thực Hành, Đồ họa thực hành, Hướng dẫn sửa lỗi máy tính, Sách giáo khoa quyển 1, Sách giáo khoa quyển 2, Sách giáo khoa quyển 3.b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp quan sát. – Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới, kĩ năng thực hành)Phương pháp điều tra. (Phỏng vấn học sinh khối 4).Phương pháp khảo nghiệm thăm lớp, dự giờ. Kiểm tra kết quả sau giờ thực hành.

1.5. Những điểm mới của SKKN2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:Tin học là vô cùng quan trọng. Trong guồng quay nhanh chóng của công nghệ đòi hỏi giáo dục hiện nay phải đem lại cho học sinh tư duy, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng. đâu đâu quanh ta, ở hầu hết các lĩnh vực ngành nghề đều có sử dụng các sản phẩm của tin học. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách đầu tư và phát triển về ứng dụng công nghệ thông tin như:– Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã chỉ rõ : “ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên tring chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước”.– Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của bộ GD&ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngàng giáo dục đã chỉ rõ : “Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT, ứng dụng và phát triển CNTT trong GD&ĐT sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục”. Phấn đấu thực hiện các mục tiêu cụ thể của ngành là: tổ chức tốt việc dạy và học tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học trong nhà trường…– Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TT ngày 9/12/2000 về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học.– Chỉ thị số: 3398 /CT-BGDĐT của bộ giáo dục đào tạo ngày 11/8/2011 chỉ rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục là “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy – học và công tác quản lý giáo dục”.Đặc trưng của môn Tin học là lí thuyết gắn liền với thực hành, do vậy bên cạnh việc cung cấp lí thuyết cho học sinh còn phải hướng dẫn các em kĩ năng thực hành, ứng dụng tin học vào học tập và cuộc sống. Môn tin học lớp 4 được thiết kế xen kẽ giữa lí thuyết và thực hành nên học sinh cũng nhanh chóng nắm bắt được các chuẩn của từng bài, từng chương.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:Trước khi thực hiện đề tài tôi đã khảo sát học sinh khối 4 thông qua giờ dạy lí thuyết và thực hành. Kết quả thu được:

Năm học: 2017 – 2018

Thuận lợi:– Được các cấp lãnh đạo, nhà trường quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phòng máy, phụ huynh học sinh trang bị cho con em đầy đủ sách vở, một số gia đình phụ huynh còn có máy tính để bàn ở nhà cho học sinh thực hành.– Nội dung sách nhẹ nhàng, trình bày đẹp, sách chú trọng nhiều về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học.– Phần lớn học sinh đều có hứng thú với máy tính.– Việc thực hành mang lại kết quả ngay lập tức và có được cái nhìn trực quan, sinh động. chính vì thế các em thích học tin học, nhất là tiết thực hành.– Được Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên đầu tư kinh phí để nâng cấp, sửa chữa phòng máy.– Môn Tin học là một môn học Tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, không bị gò ép.– Học sinh đã nắm được các kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó các em đã biết sử dụng và ứng dụng phần mềm vào việc học tập.– Kỹ năng thực hành của một bộ phận học sinh khá tốt.– Nhà trường đã trang bị cho phòng máy mạng internet để kết nối và tải các phần mềm học tập khi cần thiết.

Khó khăn– Các em học sinh của trường chủ yếu là con em đồng bào dân tộc thiểu số, chưa có nhiều điều kiện để tiếp cận với môn Tin học. Trong khi đây là một môn học mới, cần sự hỗ trợ từ máy tính. Do vậy việc tiếp thu bài học của các em cũng còn rất hạn chế.– Mặt khác, do điều kiện kinh tế khó khăn, về nhà các em không có máy tính để học mà chỉ khi đến lớp mới có máy để thực hành nên cũng ảnh hưởng lớn tới chất lượng dạy và học môn Tin học.– Đây là môn học tự chọn nên một số học sinh học chưa nghiêm túc và phụ huynh chưa quan tâm.– Việc rèn luyện thói quen gõ 10 ngón tay cho học sinh còn gặp khó khăn do các em không có nhiều thời gian cho việc luyện tập trên lớp.– Sĩ số học sinh trong một lớp đông, máy tính cũ lại hay bị hỏng, vì thế các em phải ngồi 2 người một máy và thay ca thực hành nên thời gian thực hành trong một tiết học chưa đảm bảo.– Học sinh học tiết thực hành thường hay mất trật tự.

Biện pháp 2: Kiểm tra phòng máy trước giờ dạyTrước mỗi giờ thực hành, giáo viên cần đến trước để kiểm tra phòng máy, các thiết bị điện, màn hình, cây máy tính, sự hoạt động của máy tính, máy chiếu, các bàn ghế ngồi học… đảm bảo cho một tiết dạy thực hành được ổn định, an toàn với tất cả học sinh.

Biện pháp 4: Chia nhỏ nội dung bài tập thực hànhMột số bài thực hành gồm nhiều yêu cầu khác nhau, giáo viên có thể chia nhỏ ra thành nhiều yêu cầu với mức độ từ dễ đến khó, cho học sinh thực hành theo những yêu cầu đã nêu. Giáo viên phải đặt ra mỗi yêu cầu hoàn thành trong khoảng thời gian nhất định nào đó với mỗi nhóm đối tượng. Điều đó có thể thúc đẩy sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của học sinh; học sinh khá giỏi có thể thực hiện theo nhiều cách để có thể hoàn thành nhiệm vụ trong khoảng thời gian nhanh nhất.

Ví dụ: Khi thực hành vẽ hình vuông, giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ theo mẫu sau:

Biện pháp 5: Phát động phong trào “đôi bạn cùng tiến”Phương pháp này không chỉ dùng trong môn Tin học, ở cấp Tiểu học. Mà ở các môn học khác, cấp học khác vẫn có hiệu quả cao. Trong phương pháp này, giáo viên chia lớp thành hai nhóm lớn, trong mỗi nhóm lại chia thành các cặp mỗi cặp ngồi một máy tính, ngồi cố định với nhau trong suốt học kì, các em sẽ cùng học, cùng thực hành ngay từ đầu năm học cho đến hết năm học. Giáo viên sẽ theo dõi quá trình học, tiến bộ của các nhóm qua các tuần, tháng và có đánh giá sau mỗi tháng, học kì. Xem hai bạn nào tiến bộ nhất trong nhóm đó thì cuối học kì cô sẽ có phần thưởng.Học sinh hỗ trợ lẫn nhau là phương pháp thu hút sự tham gia của học sinh, phù hợp với đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay là “dạy ít, học nhiều”. Với phương pháp này thì giáo viên chia mỗi máy tính một học sinh khá, giỏi kèm một học sinh yếu để các học sinh giỏi này hỗ trợ giáo viên kèm cặp, giúp đỡ bạn thực hành. Giáo viên hướng dẫn cho nhóm học sinh có khả năng học tập tốt thật kỹ trước khi tiến hành để nhóm đối tượng hỗ trợ này nắm chắc kiến thức; Nhắc nhở học sinh thực hiện tốt vai trò của người hỗ trợ và người nhận hỗ trợ. Giáo viên cũng nên chỉ ra các điều kiện cần để đảm bảo có được hoạt động học sinh hỗ trợ lẫn nhau hiệu quả.

Biện pháp 6: Có phần thưởng để khuyến khích học sinhTrong môn Tin học Giáo viên có thể sử dụng các phần mềm, các trò chơi để treo thưởng, khuyến khích cho học sinh có đọng lực học tập. Ví dụ nhóm nào hoàn thành bài trước thời gian quy định thì sẽ được chơi các phần mềm trong máy tính hoặc vào xem mạng internet… Làm như vậy sẽ khuyến khích học sinh tập trung vào làm bài và hoàn thành sớm yêu cầu của giáo viên.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, các học sinh thực hành tin học chưa mấy hứng thú,vừa làm vừa chơi, đa phần các em làm cho có bài. Từ sau khi áp dụng tôi nhận thấy nhiều học sinh đã có thái độ yêu thích môn học hơn, Thao tác thành thạo, đúng chuẩn, biết vận dụng môn tin học vào trong học toán, tiếng việt và đặc biệt hơn là xây dựng cho các em tác phong hoạt động nhóm . Việc dạy học với các biện pháp đã nêu đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học phù hợp và hiệu quả. Tôi tin rằng nếu áp dụng biện pháp này ở những giờ học bộ môn của các khối lớp khác thì cũng sẽ đem lại những hiệu quả rõ rệt, áp dụng được nhiều kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày, góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng môn học. So với năm học trước thì số học sinh thao tác nhanh, thao tác đúng đã tăng rõ rệt, số học thao tác chậm, chưa biết thao tác giảm đáng kể.* Kết quả thu được trước và sau khi thực hiện:

Năm học: 2017 – 2018

3. Kết luận và kiến nghị3.1. Kết luậnNhững biện pháp tổ chức tiết thực hành tin học của trường Tiểu học thực hiện có lẽ không phải là những biện pháp mới lạ đối với các đơn vị bạn, tuy nhiên đây là một số biện pháp đơn giản mà hiệu quả. Qua cách làm trên, tôi đã nâng cao chất lượng các giờ thực hành tin học và góp phần giúp các em áp dụng vào học tập các môn học khác trong nhà trường.

3.2. Kiến nghịVới bộ môn tin học cần có sự quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học thực hành. Trong một đề tài nhỏ và thời gian hạn chế những vấn đề nêu ra chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và mong muốn các vị lãnh đạo cấp trên, các đồng nghiệp bổ xung để nội dung trên được hoàn thiện và phát huy hiệu quả. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ nhiệt tình của tổ chuyên môn và sự đóng góp ý kiến quý giá của các đồng nghiệp trong nhà trường đã giúp tôi hoàn thành và áp dụng có hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm này.

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Dạy Môn Tin Học Lớp 3

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lí do chọn đề tài1. Tính lịch sử Tin học, hay thuật ngữ phổ biến hiện nay là Công nghệ thông tin (CNTT) là ngành khoa học xử lý thông tin bằng máy tính điện tử, được hình thành và phát triển từ cuối những năm 1940. Đến nay, con người đã biết đến CNTT là một trong những công cụ thiết yếu, có ảnh hưởng tới nhiều ngành nghề khác nhau của xã hội như xây dựng, kiến trúc, tài chính, hàng không, chế tạo máy… Ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục là một trong những số đó. Ứng dụng CNTT từ bậc tiểu học cho tới đại học đã đem lại sự tương tác, hỗ trợ mang tính quan trọng. Nhờ đó, các phương pháp dạy và học đã được hiện đại hóa, cung cấp hiểu biết, kiến thức hiệu quả cả về chiều rộng và chiều sâu. 2. Tính cấp thiết Tin học trong nhà trường là môn học mang tính khoa học và công nghệ cao với tốc độ phát triển và thay đổi nhanh nên chương trình phải có tính cập nhật cao. Điều này đòi hỏi người dạy và người học cần có sự chủ động, tích cực trong phương pháp và cách thức truyền đạt cũng như tiếp thu. Bậc học Tiểu học đã đưa môn Tin học vào chương trình giảng dạy nhằm giúp học sinh tiếp xúc và làm quen với lĩnh vực CNTT. Đó là nền móng ban đầu để trang bị cho học sinh trong các cấp học tiếp theo và đáp ứng tính cập nhật của CNTT đối với học sinh ngay khi học ở các lớp học đầu tiên.Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Việc học tập, thực hành của học sinh ngày một đơn giản song vẫn đảm bảm tính hiệu quả. Ngoài những thông tin đã học trên lớp, trên trường, học sinh còn có thể tham gia các diễn đàn trên các trang mạng (website) để đáp ứng việc học và thực hành của mình một cách tốt nhất. Nên, hiện nay đã có rất nhiều website giáo dục được đưa ra với cách thức “học đi đôi với hành”, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và cung cấp những kiến thức bổ ích cho người sử dụng. Các website này không chỉ bổ ích cho học sinh mà còn có ứng dụng tốt dành cho giáo viên khi cập nhật, bổ sung vào bài giảng của mình thêm phong phú và dễ hiểu hơn, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, dễ mà không phải “học chay, học vẹt”. Vì vậy, mỗi

Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Trong Giảng Dạy Môn Toán Lớp 5

Nội dung Trang 1 MỞ ĐẦU 2 1.1 Lí do chọn đề tài. 2 1.2. Mục đích nghiên cứu. 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu. 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu. 3 1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. 3 2 NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 2.1 Cơ sở lí luận. 4 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 5 2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 2.3.1 Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và thích học toán ở học sinh. 6 2.3.2 Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. 8 2.3.3 Giải pháp 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học theo hướng đổi mới để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. 10 2.3.4 Giải pháp 4: Lồng ghép tổ chức trò chơi trong giờ học toán. 12 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 3.1 Kết luận. 17 3.2 Kiến nghị. 18 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu Giáo dục đào tạo phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học. Ở cấp Tiểu học môn Toán có vai trò đặc biệt quan trọng cùng với các môn học khác nó góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển tư duy của người học, đồng thời nó còn góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Ở trường tiểu học, việc dạy học toán cho học sinh tạo năng lực cho các em sử dụng toán trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học toán ở nhà trường đã rèn cho các em năng lực tư duy, phát triển trí thông minh, kĩ năng tính toán. Chính vì thế, môn Toán luôn được chú trọng và được dành một thời lượng rất lớn trong chương trình Giáo dục phổ thông. Theo yêu cầu của Bộ giáo dục và Đào tạo về đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở cấp Tiểu học, ngoài việc tổ chức các hoạt động dạy học để học sinh nắm được kiến thức chuẩn thì tùy vào năng lực của học sinh, giáo viên cần phải phát triển, khai thác, mở rộng thêm kiến thức một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu học tập của các em. Hơn nữa, cấp Tiểu học là bậc học quan trọng, nó đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Chính vì vậy mà cấp Tiểu học được coi là “nền móng vững chắc của toà nhà phổ thông”. Trong đó, môn Toán lớp 5 góp phần không nhỏ để tạo nên cái gọi là “nền móng” đó. Học sinh học tốt môn Toán sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực học toán ở các lớp tiếp theo. Và để đạt kết quả cao trong dạy học toán đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học dựa trên đặc điểm tâm lý của học sinh. Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán không còn mới lạ đối với học sinh, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những tích lũy nhất định. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học toán là rất cần thiết. Một trong những đổi mới phương pháp dạy học đó là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Quá trình dạy học phải đạt được yêu cầu, tạo ra động cơ học tập tốt nhất để phát triển trí tuệ, trí thông minh cho học sinh. Để có được điều đó, các em phải tích cực học tập biểu hiện ở chỗ: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề giáo viên nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn. Trong khi đó, học sinh tiểu học vốn ưa hoạt động, khả năng tập trung chú ý chưa cao, các em thường chỉ chú ý tới những vấn đề mới lạ, hấp dẫn. Mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh, nhu cầu hứng thú học tập của các em là khác nhau. Vì vậy làm thế nào để thu hút tất cả các em đều chú ý tập trung trong giờ học, tích cực hoạt động để lĩnh hội kiến thức là điều mà giáo viên cần quan tâm. Với những băn khoăn đó, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Xây dựng và áp dụng một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. – Giáo viên dạy toán và học sinh lớp 5 của nhà trường. – Các giải pháp nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Toán lớp 5. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. – Phương pháp điều tra: + Trao đổi với giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy toán lớp 5. + Tiếp cận, trò chuyện với học sinh về những hứng thú, khó khăn khi học toán. + Dự giờ để đánh giá thực trạng việc dạy và học ở lớp 5 để đề xuất giải pháp khắc phục. – Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm tra tính khả thi của những vấn đề đã được nghiên cứu. – Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm. – Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lí, đánh giá số liệu 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Góp phần giúp học sinh hứng thú học tập môn Toán. Đó là một môn học được coi là khô khan và khó khăn. Do đó việc đưa ra những câu đố, trò chơi toán học nhằm giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt trò chơi toán học không những giúp các em lĩnh hội được tri thức mà nó còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm giúp học sinh nắm kiến thức môn Toán ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong các giờ học toán, nâng cao chất lượng giảng dạy và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên. Điểm mới trong việc nghiên cứu và áp dụng đề tài này là tạo dựng được lòng say mê và thích học toán, sự chủ động, tích cực của học sinh và các trò chơi dạy học toán phù hợp với đối tượng học sinh của lớp qua từng dạng bài, một sáng kiến mang tính mới mẻ mà từ trước tới nay ít được vận dụng hoặc có vận dụng thì cũng đang dừng lại mang tính hình thức, chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận. Môn Toán lớp 5 là một môn học luyện tập, thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực học toán cho học sinh. Năng lực của học sinh qua các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng sau: – Về số và phép tính: + Bổ sung những hiểu biết cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để chuẩn bị học số thập phân. + Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số và phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân. – Về đo lường: + Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa một đơn vị đo diện tích, thể tích thông dụng. + Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới dạng số thập phân. – Về hình học: + Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương và một số dạng của hình tam giác. + Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn. + Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương. – Về các yếu tố thống kê. + Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt. + Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu đồ. – Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần nhân cách của học sinh. + Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất… bằng ngôn ngữ (nói, viết dưới dạng công thức…) ở dạng khái quát. + Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, cụ thể hoá; bước đầu hình thành và phát triển tư duy phê phán và sáng tạo; phát triển trí tượng không gian… + Tiếp tục rèn luyện các đức tính: chăm học, cẩn thận, tự tin, trung thực, có tinh thần trách nhiệm… góp phần hình thành nhân cách ở học sinh. Các yêu cầu kiến thức, kĩ năng trên được hình thành trong quá trình giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh. Vì thế trong dạy học toán ở tiểu học, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Cốt lõi của vấn đề là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. – Đối với giáo viên: Chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhưng vẫn còn giáo viên còn gặp nhiều lúng túng, chủ yếu là giảng giải thuyết trình, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một lớp, năng lực nhận thức của học sinh không đồng đều nhưng giáo viên thường chỉ thiết kế giáo án theo đường thẳng, chung cho mọi đối tượng học sinh. Trên lớp giáo viên chủ động thực hiện một mạch theo các bước đã chuẩn bị, giáo viên chưa vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới bằng hình thức giao việc cụ thể cho từng học sinh. Qua dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy một số tiết dạy còn nặng nề, gò bó không lôi cuốn được tất cả học sinh cùng tham gia. Phần đánh giá kết quả học tập giáo viên thường là người độc quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. Không ít giáo viên chưa chú trọng đúng mức tới việc kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết của lứa tuổi tiểu học trong giờ học toán. – Đối với học sinh: Ở cấp Tiểu học một bộ phận các em còn ngại khó, còn thụ động, chủ yếu là nghe giảng, ghi nhớ và làm theo bài mẫu. Chính vì vậy mà kiến thức của các em còn mang tính hời hợt, nhớ không lâu, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo và khả năng phân tích của các em còn hạn chế. Năm học 2018-2019, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5A, kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau: Tổng số học sinh Điểm 9 -10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 25 4 16 7 28 8 40 6 24 Kết quả trên cho thấy: chất lượng môn Toán của lớp 5A còn thấp, thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu của trường chuẩn quốc gia. Tỉ lệ học sinh điểm dưới 5 còn nhiều. Tôi tiến hành điều tra, tìm hiểu nguyên nhân thì nhận thấy: phần lớn học sinh có tâm lí ngại học toán vì các em cảm thấy khó và nặng nề, sợ mỗi khi gặp dạng toán mới, lúng túng khi gặp bài toán khó, không đủ niềm tin để khẳng định bài toán mình làm đúng hay sai, Trước thực trạng trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức thực hiện các giải pháp sau đây. 2.3. Các giải pháp thực hiện. Qua thực tế giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi rút ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5 cụ thể như sau: 2.3.1. Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và thích học toán ở học sinh. a. Phân nhóm đối tượng học sinh. Ngay từ đầu năm học, dựa vào kết quả khảo sát và kết hợp dạy học hàng ngày trên lớp, tôi phân loại số học sinh trong lớp thành các nhóm đối tượng như sau: – Nhóm gồm các học sinh có khả năng hoàn thành tốt nội dung học tập: Nguyễn Hà Thảo Ly, Nguyễn Đình Phú, Mai Văn Chính, Hoàng Thị Thúy Nhi, Lê Xuân Hùng, Nguyễn Khắc Sáng. – Nhóm gồm các học sinh hoàn thành nội dung học tập: Lê Thị Ngọc Ánh, Lê Đình Việt Anh, Lê Thị Thủy, Lê Đình Văn, Vũ Thị Hà Vi, Nguyễn Thị Thùy Linh, Lê Thị Thùy Linh, Nguyễn Thị Anh Đào, Nguyễn Đình Đạt, Nguyễn Văn Hùng Dương, Nguyễn Viết Nhật, Lê Văn Sơn, Trịnh Đình Thanh. – Nhóm gồm các học sinh chưa hoàn thành: Lê Đình Đức, Lê Thế Hoàng, Lê Đình Trường Sơn, Ngô Tiến Thành, Vũ Đình Tùng, Lê Đình Hùng. b. Khơi dậy lòng say mê và thích học toán của học sinh: – Trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các giải pháp sau để giúp các em say mê và thích học môn Toán: Xem kỹ nội dung chương trình môn Toán, nội dung từng bài dạy và mục tiêu của mỗi bài để tránh việc truyền đạt quá tải cho học sinh; phối hợp nhịp nhàng giữa phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy tính tích cực, chủ động, kích thích sự hứng thú của học sinh, tránh sự đơn điệu và tẻ nhạt ở mỗi tiết học. Tổ chức các hoạt động trong từng bài để giúp các em tự mình tìm tòi, chủ động phát hiện kiến thức mới, rèn thêm kỹ năng mới dựa trên các kiến thức và kỹ năng các em đã có. Luôn thay đổi không khí giờ học toán để tạo ra sự thoải mái, giảm bớt căng thẳng cho học sinh. Nhờ thế, các em sẽ tập trung sự chú ý, tiếp thu bài tốt hơn. Để thực hiện điều này, tôi tổ chức cho các em giải các câu đố vui toán học mà mình đã sưu tầm được. Hoạt động này sẽ kích thích sự tò mò và bồi dưỡng tính hài hước cho các em vì các câu đố thường được viết dưới dạng các câu thơ, các bài văn vần, các câu hò, vè quen thuộc rất dí dỏm, vui tươi, ngộ nghĩnh. Ví dụ: Khi dạy phần ôn tập phân số, số tự nhiên, dấu hiệu chia hết, tôi đã đưa ra các câu đố: Câu 1: Thân em gồm có hai phần. Càng thêm vào dưới, lại càng bé đi”. (là gi?) Câu 2: Đố em viết tiếp Vào dãy số sau: 0; 15; 30; 5 số nối nhau Tìm mau kẻo lỡ Xong sau bạn cười. Câu 3: 2325; 3446; 4590; 1000. Những số đã viết Số nào chia hết Cho cả ba, năm? Số nào chia thêm Cho hai và chín? Các câu đố này sẽ biến những bài toán với các con số khô khan thành những bài toán vui, hóm hỉnh, gần gũi với học sinh giúp củng cố kiến thức và kỹ năng thực hành, góp phần rèn luyện tư duy sáng tạo, óc nhanh nhạy trước các tình huống toán học chứa đựng trong câu đố. – Ngoài ra trong các buổi ngoại khoá, trong những giờ ra chơi hay những buổi sinh hoạt tập thể, tôi luôn tìm cách khơi dậy tinh thần hăng say học tập, kích thích chí hướng phấn đấu vươn lên thành học sinh xuất sắc bằng những câu chuyện bổ ích, những tấm gương học tốt, những bài học về phương pháp học được rút ra từ các nhà khoa học hay đơn giản chỉ là những câu nói thể hiện niềm tin về sự cố gắng của một học sinh nào đó. Ví dụ: Kể về các gương học sinh trước đây có hoàn cảnh khó khăn nhưng nhờ chăm chỉ, chịu khó đã trở thành học sinh xuất sắc, đỗ đạt vào các trường đại học. Cụ thể như : Em Lê Hữu Hùng ở thôn 5, nhà nghèo, bố mẹ khuyết tật, ngoài giờ học em phải đi quấn kẹo thuê để kiếm thêm tiền đỡ cho bố mẹ. Nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng, say mê học tập đến nay Hùng đã thi đỗ vào Trường Học viện Kĩ thuật Quân sự Ngoài những câu chuyện thực tế trong trường, lớp, địa phương tôi còn sưu tầm các câu chuyện khác trên báo trí, mạng internet Những việc đơn giản đó đã giúp tôi hiểu rõ và tìm được phương pháp kích thích hứng thú học tập cho từng học sinh. Hầu hết các em luôn tin tưởng và gần gũi giáo viên. Sẵn sàng tham gia vào các hoạt động do giáo viên tổ chức trong giờ học toán. 2.3.2. Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Trong quá trình chuẩn bị kế hoạch bài dạy, tôi thường chuẩn bị bài dựa vào thực tế năng lực và khả năng tiếp thu của học sinh mình phụ trách. Kế hoạch bài dạy được thiết kế bằng nhiều phương án theo kiểu phương án nhánh. Giáo viên linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học với sự tham gia tích cực của học sinh. Dù ở loại bài nào thì việc lựa chọn câu hỏi, các bài tập có vai trò quan trọng nhất vì các câu hỏi, bài tập đưa ra phải phù hợp với các đối tượng để ba đối tượng đều được phát huy khả năng tích cực của mình mà không bị nhàm chán, không bị thừa thời gian cho học sinh hoàn thành tốt. Ở mỗi dạng bài tập, mỗi câu hỏi thì mỗi đối tượng học sinh có các yêu cầu khác nhau: Ví dụ 1: So sánh A và B biết: A = 3,54 + 2,17 + 6,46 B = 2,54 + 6,17 + 3,46 – Đối với đối tượng chưa hoàn thành chỉ yêu cầu học sinh tính kết quả theo thứ tự thực hiện phép tính, sau đó so sánh. (A = 12,17 ; B = 12,17. Vậy A = B) – Đối tượng học sinh hoàn thành, ngoài cách tính kết quả để so sánh, các em có thể sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp đã học để tính nhanh kết quả rồi so sánh. A = (3,54 + 6,46) + 2,17 = 10 + 2,17 = 12,17 B = (2,54 + 3,46) + 6,17 = 6 + 6,17 = 12,17 Vậy A = B – Nhưng với đối tượng học sinh hoàn thành tốt, ngoài cách tính kết quả để so sánh, sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp để tính nhanh kết quả rồi so sánh, các em còn phải suy nghĩ để tìm cách so sánh nhanh nhất (xét các chữ số hàng đơn vị, hàng phần mười, hàng phần trăm của A và B). Ví dụ 2: So sánh hai phân số và . – Đối với học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành các em chỉ việc quy đồng mẫu số hai phân số để so sánh như sau: – Đối với học sinh hoàn thành tốt khuyến khích học sinh tìm ra cách so sánh nhanh hơn bằng cách so sánh với phân số trung gian như sau: Ví dụ 3: Phần củng cố tính chất kết hợp của phép nhân sau khi học nhân số thập phân. Hãy nêu tính chất kết hợp của phép nhân, hãy lấy ví dụ và thực hiện. – Với học sinh chưa hoàn thành: chỉ cần nêu được tính chất. – Với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt: nêu được tính chất, lấy được ví dụ minh họa. Ví dụ 4: Phần bài tập 3,5 x 0,4 x 25 – Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành chỉ cần tính được giá trị biểu thức ví dụ như sau: 3,5 x 0,4 x 25 = 1,4 x 25 = 35 – Với học sinh hoàn thành tốt: Sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp tính giá trị biểu thức theo các cách khác nhau như sau: Cách 1: 3,5 x 0,4 x 25 = 1,4 x 25 = 35 Cách 2; 3,5 x 0,4 x 25 = 3,5 x (0,4 x 25) = 3,5 x 10 = 35 Cách 3: 3,5 x 0,4 x 25 = 3,5 x 25 x 0,4 = 87,5 x 0,4 = 35 Cuối cùng cả ba đối tượng đều phát huy được khả năng chủ động của mình trong việc thực hiện phép tính. Học sinh chưa hoàn thành sẽ không cảm thấy quá sức. Học sinh hoàn thành tốt không thấy nhàm chán. Ví dụ 5: Khi dạy bài ôn tập và bổ sung giải toán, phần “Bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần (tỉ lệ thuận). Phần củng cố giáo viên hỏi: Nêu cách giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần. – Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành: Học sinh chỉ cần nêu cách giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần là giải bằng phương pháp rút về đơn vị hoặc tìm tỉ số. – Với học sinh hoàn thành tốt: Ngoài câu hỏi chung ở trên giáo viên còn hỏi thêm: Khi nào bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần giải được bằng phương pháp tìm tỉ số, khi nào giải được bằng phương pháp rút về đơn vị ? + Như bài toán sau đây ta chỉ có cách giải là tìm tỉ số: Bài 3 (trang19). Số dân của một xã hiện nay có 4000 người. a, Với mức tăng hằng năm là cứ 1000 người thì tăng thêm 21 người, hãy tính xem một năm sau số dân của xã đó tăng thêm bao nhiêu người. b, Nếu hạ mức tăng hằng năm là cứ 1000 người chỉ tăng thêm 15 người, thì sa

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả – Giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học.

Nền giáo dục nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước ở cuối thế kỉ XX, quan niệm giáo dục hoạt động ngoại khóa bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông. Đồng thời yêu cầu giáo dục toàn diện đi đôi sự phát triển kinh tế xã hội và xu thế hội nhập làm tiền đề bước sang thế kỷ nguyên mới. Từ đó đất nước cũng đang thay đổi chuyển dịch dần theo sự vận động và phát triển của các nước trên thế giới, sự chuyển dịch đó là từng bước phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là cơ sở định hướng khơi dậy và phát huy tối đa các tiềm năng của người học; đào tạo một thế hệ năng động, sáng tạo, thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Theo đó, vấn đề giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh được đông đảo các nước quan tâm. Nói cách khác giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động dạy học, tạo điều kiện gắn lí thuyết với thực hành, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong toàn bộ quá trình giáo dục của các trường phổ thông nói chung, của trường tiểu học nói riêng.

Trong giáo dục hiện đại, Điều lệ giáo dục bậc tiểu học năm 2010 cũng đã quy định giáo dục hoạt động ngoài giờ của người học là một tiêu chí về chất lượng giáo dục. Đồng thời học sinh cần phải được rèn luyện song song cả kiến thức kỹ năng, và các hoạt động vui chơi…

Vì vậy nhân tố con người đóng vai trò quan trọng, vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội xây dựng đất nước. Đảng và nhà nước ta đã đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho con người, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chính vì thế con người được đặt ở trung tâm chiến lược, trong đó lớp thiếu niên, nhi đồng hôm nay sẽ là những công dân, những người làm chủ tương lai đất nước sau này. Tuy nhiên, giáo viên băn khoăn nhất là liệu việc đưa giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp vào chương trình phổ thông có làm nặng thêm không, vốn dĩ đã quá tải như hiện nay. (vì các ngành học, bậc học đang thực hiện chủ trương điều chỉnh nội dung nói chung, bậc tiểu học nói riêng).

Song song là đánh giá học sinh theo thông tư 32 của Bộ Trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về đánh giá học sinh tiểu học, lại đánh giá hoạt động ngoài giờ lên lớp nữa là nỗi lo lắng của giáo viên hiện nay. Vì người giáo viên đa số chưa thoát khỏi cách làm của giáo dục áp đặt.

Thêm nữa, mặc dù, giáo viên hết sức nhiệt tình, nhưng chỉ biết hiểu và làm một cách máy móc theo đề cương hướng dẫn. Cũng hỏi đáp, hát hò, tổ chức các hoạt động vui chơi, chơi các trò chơi dân gian, trò chơi tập thể, thi tìm hiểu (dưới nhiều hình thức), thi khéo tay hay làm, tổng vệ sinh trường, lớp nơi công cộng. Trang trí trường, lớp học, trồng cây, trồng hoa ở nơi ở, trang hoàng, bày biện nhà cửa. Làm đồ chơi, đồ dùng đơn giản từ các phế liệu sẵn có,… Và tổ chức câu lạc bộ như câu lạc bộ các nhà thiết kế thời trang trẻ, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ Mĩ thuật, câu lạc bộ thể dục, câu lạc bộ Tiếng Anh, … trẻ cũng rất thích nhưng không có một sự thay đổi sâu sắc.

Muốn làm được điều đó đòi hỏi phải đổi mới tư duy, đổi mới quản lý giáo dục, trong đó nhiệm vụ đặt ra cho từng môn học là hết sức cần thiết. Đối với giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp còn phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản về Tự nhiên – Xã hội và con người, có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết, tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật…nhằm “Phát triển các kĩ năng sử dụng giao tiếp ở học sinh trên cơ sở từ những tri thức căn bản nhằm từng bước giúp các em làm chủ được và tự tin trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi lứa tuổi “.

Ngoài ra giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được, nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về các tố chất đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, thông minh, hoạt bát, ham hoạt động, ngoan ngoãn, giàu lòng nhân ái, biết chia sẽ; Có kỹ năng sống, biết sống an toàn; Thích đi học, thích học, biết cách học và học tốt các môn học; Yêu thiên nhiên, yêu nghệ thuật, ngoài ra còn phát triển năng khiếu của học sinh là tích lũy được các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”

Tuy nhiên, giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp để đạt hiệu quả tốt đòi hỏi người giáo viên phải biết kết hợp nhiều yếu tố; Nhiệm vụ giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp đòi hỏi phải có tính chủ động của học sinh đầu tiên. Vì vậy, khi đưa giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp làm sao cho có hiệu quả, nhất là khi giáo viên chỉ mới làm quen với các tài liệu hướng dẫn mới mẻ này.

Với kinh nghiệm nhiều năm trong công tác quản lí, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả – Giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp trong trường Tiểu học” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường.

2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp – biện pháp

Xoay quanh chủ điểm của nhà trường, khi thiết kế và tổ chức hiệu quả Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng đối với giáo viên. Nhà trường kết hợp với các đoàn thể, giáo viên xây dựng kế hoạch, lựa chọn nội dung hình thức cho phù hợp.

Thời điểm chọn tổ chức hợp lí để phát huy được tối đa sự hỗ trợ của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với dạy học các môn văn hoá. Mỗi cán bộ giáo viên phải tự mình học hỏi, phải thực sự đầu tư thời gian công sức để lựa chọn và thiết kế những hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hay và bổ ích.

Khi chúng ta tổ chức hoạt động. Cần chuẩn bị về phương tiện hoạt động, chuẩn bị về hình thức, cách thức tổ chức (phân chia nhiệm vụ cho giáo viên, học sinh).

Cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp muốn đạt hiệu quả chúng ta chú trọng các nội dung tổ chức hoạt động giáo dục theo các chủ điểm trong năm và thể hiện các loại hình hoạt động sau:

– Tổ chức hoạt động văn hóa – nghệ thuật

Từng lớp hoặc câu lạc bộ giới thiệu hoặc tìm hiểu các nét đẹp văn hóa, tổ chức đồ hoạ tranh ảnh, trưng bày triển lãm tranh tự vẽ, tổ chức ngày hội văn hóa,… Dạy vẽ tranh, nặn tượng, …Thăm quan các di tích lịch sử – văn hóa,…

– Tổ chức hoạt động lao động công ích: Vệ sinh làm sạch các công trình văn hóa – lịch sử và giúp đỡ gia đình Thương binh – Liệt sĩ… trực nhật vệ sinh lớp học, sân trường, sửa sang bồn hoa cây cảnh cho đẹp trường lớp… thường được tổ chức thường xuyên hàng ngày, hàng tuần.

– Tổ chức hoạt động vui chơi giải trí thể thao: Hoạt động này làm cho tinh thần sau những giờ học, (học mà chơi – chơi mà học) thoải mái hơn. Đồng thời góp phần rèn luyện một số phẩm chất như tính kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết lòng nhân ái …thường được tổ chức xen kẽ trong các tháng học, tuần học .

– Hoạt động văn hoá văn nghệ: Thường được tổ chức sinh hoạt tập thể. Hoạt động này bao gồm các thể loại khác nhau về loại hình sân khấu, tập múa hát, thơ ca, kịch ngắn, tiểu phẩm, thi kể chuyện, vẽ, đồng diễn thể dục…Tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ, đọc thơ, trình diễn thời trang thường được tổ chức vào các ngày lễ lớn trong năm.

– Tổ chức hoạt động trò chơi dân gian. Như tổ chức đi, chạy khà kheo, nhảy bao bố, đồng diễn thể dục nhịp điệu,cầu lông, đá cầu, cờ vua, bóng đá,…

– Tổ chức hoạt động trong giờ sinh hoạt lớp. Giao cho mỗi giáo viên chủ nhiệm hàng tháng tự thiết kế những nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp khác phù hợp với trình độ học sinh, điều kiện cơ sở vật chất lớp mình để tổ chức tạo sân chơi lành mạnh nhằm khích lệ động viên việc học của các em.

Tổ chức các chi Đội viết báo tường về nhân ngày nhà giáo Việt Nam, thể hiện lòng tôn sư trọng đạo của học sinh đối với các thầy cô.

Tổ chức tiếp cận khoa học kỹ thuật: Có thể cho học sinh sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh hoạt câu lạc bộ khoa học, hội vui, giải Lê Quý Đôn tìm hiểu các nhà danh nhân nhà bác học…

* Để tổ chức các hoạt động hàng tuần đạt hiệu quả cao thì sau mỗi hoạt động giáo viên đánh giá nhận xét kết quả giáo dục để rút kinh nghiệm như:

– Củng cố, khắc sâu những kiến thức đã được học qua các môn học ở lớp.

– Hình thành và phát triển sự hiểu biết của học sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó làm phong phú thêm vốn tri thức của các em.

Đồng thời cung cấp cho học sinh các kỹ năng ban đầu, cơ bản cần thiết phù hợp với sự phát triển chung của các em (kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham gia các hoạt động tập thể, kĩ năng nhận thức,…)

Qua kinh nghiệm quản lý, tôi đã hướng dẫn, giúp giáo viên tổ chức hiệu quả giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học, bản thân nhận thấy đạt đươc những hiệu quả thiết thực: Giáo viên nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn những nội dung hoạt động. Giáo viên dành nhiều thời gian hơn để tìm tư liệu hoặc nghiên cứu cho bài dạy. Cùng một nội dung, giáo viên có thể chỉnh sửa ngay những thiếu sót của mình để thực hiện và rút kinh nghiệm cho những tiết học khác. Giáo viên yên tâm vững vàng hơn trong việc giảng dạy hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Nhận được sự đồng tình và khen ngợi từ phía Cha mẹ học sinh. Học sinh thích tham gia các hoạt động như: Văn nghệ, thể thao, hoạt động ngoài giờ lên lớp, từ đó trang bị cho các em kĩ năng sống vững vàng hơn, các em trở nên tự tin trong học tập cũng như trong cuộc sống. So sánh kết quả năm chưa thường xuyên áp dụng kinh nghiệm giúp giáo viên tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp với năm đã áp dụng tôi thấy từ khi áp dụng giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học, các em không những được trang bị một cách tương đối đầy đủ về kĩ năng sống mà còn có hành trang để bước vào đời. Các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn nên kết quả học tập nhờ thế cũng tiến bộ rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:

Năm học 2018-2019 khi chưa áp dụng: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên tổ chức hiệu quả hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tôi nhận thấy khâu tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp của giáo viên và học sinh còn rất hạn chế, các em thường ngại tiếp xúc với người lạ không tự tin trong nói năng, tiếp xúc với thầy cô và người lớn còn rất e dè, nói chuyện với nhau thường dùng ngôn ngữ địa phương. Chính vì các em còn thiếu một số kĩ năng dẫn đến chất lượng giáo dục của học sinh còn thấp.

Xác định được yêu cầu quan trọng, việc tổ chức giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp. ở các trường hiện nay, và trường tiểu học Nguyễn Văn Bé nói riêng. Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên tổng phụ trách Đội đã có nhiều đổi mới như thực hiện đồng đều, đúng kế hoạch hàng tuần và đạt chất lượng hiệu quả. Các hoạt động sinh hoạt Đội, Sao, ngoại khóa, theo chủ đề, nhân dịp các ngày lễ, tết…được tổ chức thường xuyên trong năm học đã giúp cho học sinh tiểu học thông qua các tiết dạy kết đọng lại những kĩ năng ở lứa tuổi học sinh và cũng phát huy hết khả năng của bản thân, tự tin tham gia sôi nổi các hoạt động của nhà trường, có ý thức giúp đỡ bạn bè lúc khó khăn. Đồng thời các em rất thích tham gia sinh hoạt Đội, nề nếp của các lớp rất tốt, tự điều chỉnh những hành vi sai của bản thân và bạn bè trong các hoạt động vui chơi và học tập để góp phần vươn lên phát triển toàn diện, xây dựng trường, lớp thân thiện, học sinh tích cực thi đua học tập. Tuy nhiên trong nhiều hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có lúc một số lớp chưa được duy trì thường xuyên, hình thức tổ chức hoạt động chưa phong phú dẫn đến hiệu quả chưa cao so với sự đổi mới giáo dục hiện nay.

Bạn đang xem bài viết Skkn: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Tiết Thực Hành Môn Tin Học 4 trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!