Xem Nhiều 3/2023 #️ Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Trang 39 Sgk Ngữ Văn 11 Tập 1 # Top 8 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Trang 39 Sgk Ngữ Văn 11 Tập 1 # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Trang 39 Sgk Ngữ Văn 11 Tập 1 mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Qua phần soạn bài Bài ca ngất ngưởng trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1, các em sẽ hiểu hơn về quan niệm làm quan cũng như thái độ coi thường danh lợi tầm thường của nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng giống như những nhà Nho khác vô cùng chán ghét chốn quan trường gò bó, xô bồ.

Soạn bài Bài ca ngất ngưởng trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Soạn bài Bài ca ngất ngưởng, Ngắn 1

Xem trước và xem lại các bài học gần đây để học tốt Ngữ Văn lớp 11 hơn

– Soạn bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát– Soạn bài Luyện tập thao tác lập luận phân tích– Soạn bài Lẽ ghét thương

Soạn bài Bài ca ngất ngưởng, Ngắn 2

I. Về tác giả, tác phẩm1. Tác giảNguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Nguyễn Công Trứ học hành cần cù, say mê. Đến năm 1819, ông thi đỗ Giải Nguyên và được bổ làm quan. Bằng cuộc đời của chính bản thân, ông đã chứng tỏ mình là người có tài năng và nhuyệt huyết trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội từ văn hóa, kinh tế đến quân sự. Nhưng con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ lại không bằng phẳng. Ông được thăng chức và giáng chức thất thường.Nguyễn Công Trứ sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích của ông là hát nói. Đây là thể loại khá phổ biến từ các thế kỉ trước, nhất là cuối thế kỉ XVIII, song Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.2. Bài ca ngất ngưởng là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Công Trứ. Tác phẩm được sáng tác năm 1848 và được làm theo thể ca trù. Bài thơ đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho.II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):Trong bài thơ, ngoài nhan đề, tác giả có tới bốn lần sử dụng từ ngất ngưởng.– Từ ngất ngưởng thứ nhất chỉ sự thao lược, tài năng, và phong cách ngạo nghễ khi làm quan của Nguyễn Công Trứ.– Từ ngất ngưởng thứ hai chỉ sự ngang tàng của tác giả ngay khi làm dân thường.– Từ ngất ngưởng thứ ba khẳng định cái chơi ngông hơn người của Nguyễn Công Trứ, ông dẫn các cô gái trẻ lên chùa, đi hát ả đào, … và tự đánh giá cao các việc làm ấy.– Từ ngất ngưởng cuối cùng cho thấy tác giả hơn người là vì dám coi thường công danh phú quý, coi thường cả dư luận khen chê, thỏa thích vui chơi bất cứ thú gì, không vướng bận đến sự ràng buộc thân phận.Câu 2 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):Nguyễn Công Trứ biết làm quan là gò bó, mất tự do nhưng ông vẫn ra làm quan bởi đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của mình. Do đó, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, cách sống tự do, phóng khoáng của chính mình.Câu 3 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):Trong bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ đã tự kể về mình, tự thuật, tư đánh giá về bản thân. Giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính. Con người Nguyễn Công Trứ hiện lên qua hình ảnh ngất ngưởng: từng làm nên sự nghiệp lớn, tâm hồn tự do phóng khoáng, có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua khuôn sáo khắt khe của lễ giáo phong kiến.Câu 4 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):So với các bài thơ Đường luật gò bó, hát nói có sự linh hoạt hơn rất nhiều. Hát nói quy định về số câu, cách chia khổ nhưng người viết hoàn toàn có thể phá cách để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, về cách gieo vần, nhịp điệu,… Sự phóng khoáng của thể thơ rất thích hợp với việc truyền tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử khao khát khẳng định mình, bỏ qua sự gò bó của lễ giáo phong kiến.III. Luyện tập(trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Theo anh (chị) …Sự khác biệt về từ ngữ giữa bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công trứ và Bài phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh:– Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ: phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ…– Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thẫm đấm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.

Câu 3: Những biện pháp tu từ nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ:

⟹ Tăng sức diễn tả trong bài thơ

Soạn bài Bài ca ngất ngưởng, Ngắn 3

I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI Câu 1: Trong Bài ca ngất ngưởng, từ “ngất ngưởng” xuất hiện 4 lần:

Khi từ giã chốn kinh thành về quê nghỉ hưu

Trong những ngày sống ung dung tự tại ở quê nhà

“Ngất ngưởng” khẳng định chính mình trong câu thơ cuối.

⇒ Cái tôi “ngông” của Nguyễn Công Trứ

Câu 2: Vì sao Nguyễn Công trứ biết rằng việc ra làm quan là gò bó, mất tự do nhưng vẫn ra làm quan

Bởi lẽ chỉ có ra làm quan ông mới được thể hiện tài năng của bản thân và nhất là để”trọn nghĩa vua tôi”

Thực chất ông à người có tài (thăng quan nhanh, tài thao lược,…) đó là điều đáng tự hào. Nhưng tự hào hơn ở chỗ ông làm quan không vì danh lợi, không nhằm lập công đức để lại tiếng thơm cho đời mà làm quan để giúp vua, giúp dân để thỏa chí nguyện chi làm trai.

Ông là người có đức độ, “trọn nghĩa vua tôi” khác hẳn đám quan lại tham quyền cố vị, hữu danh vô thực lúc bấy giờ.

Ông còn cho mình là “ngất ngưởng” bởi vì ông có một quan niệm sống khác với mọi người: ông không quan tâm đến chuyện được mất, khen chê xấu tốt.

⇒ “Ngất ngưởng” là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.

So với thể thơ Đường luật gò bó về số câu và niêm luật chặt chẽ

Hát nói là thể loại tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chất tự do phóng khoáng, thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.

Bên cạnh nội dung đã học, các em cần chuẩn bị bài học sắp tới với phần Soạn bài Một số thể loại văn học: Thơ, truyện để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 11 của mình.

Trong chương trình học Ngữ Văn 11 phần Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-bai-ca-ngat-nguong-37683n.aspx

Soạn Bài Ca Dao Hài Hước, Trang 90 Sgk Ngữ Văn 10, Tập 1

Soạn bài Ca dao hài hước để em hiểu hơn về đặc điểm của một bộ phận ca dao rất được ưa chuộng và quan trọng trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam, đây đều là những sản phẩm mang đầy chất trí tuệ của người dân lao động với mục đích tạo ra những tiếng cười giải trí, ngoài ra ẩn sâu trong những cách nói dí dỏm, hài hước ấy là tiếng cười châm biếm, chế giễu những thói hư, tật xấu, những hạng người xấu trong xã hội.

SOẠN BÀI CA DAO HÀI HƯỚC, ngắn 1

Đây là lời đối đáp vui đùa của nam nữ thường thấy trong ca dao. Nó đem đến tiếng cười và hàm chứa một ý nghĩa văn sâu sắc.

– Hỏi cưới là việc hệ trọng cả đời vậy mà chàng trai trong bài ca dao lại sử dụng những hình ảnh tự trào hài hước: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn chuột,….

– Lời dẫn cưới của chàng trai trong 6 câu đầu:

Cưới nàng anh toan dẫn voi

Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng

– Lời thách cưới của cô gái: một nhà khoai lang

🡺 Cách đối đáp đầy hài hước của đôi trai gái trong lời dẫn cưới và thách cưới cho ta thấy niềm lạc quan, yêu đời, vui trong cảnh nghèo khó của đôi trai gái

– Biện pháp được sử dụng trong bài ca dao là: nói quá kết hợp với lối nói khoa trương , lối diễn đạt đối lập.

Tiếng cười trong 3 bài ca dao 1, 2 và 3 là tiếng cười phê phán, châm biếm những thói hư tật xấu của một bộ phận người trong xã hội.

– Sự khác nhau trong mỗi tiếng cười

Bài ca dao 2: vận dụng biện pháp đối lập giữa sức trai với khả năng “khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng”.

Bài ca dao 3: Vận dụng biện pháp nói quá, đối lập để chế giễu kiểu đàn ông lười nhác, không có ý chí

Bài ca dao 4: Vận dụng biện pháp nói quá để chế giễu loại phụ nữ vô duyên, thiếu tế nhị trong xã hội

Ca dao hài hước thường sử dụng các biện pháp nghệ thuật như sau:

– Ngôn từ mỉa mai, châm biếm

SOẠN BÀI CA DAO HÀI HƯỚC, ngắn 2

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. Bài ca dao 1 1. Đối tượng bị chế giễu– Bài ca dao là tiếng cười tự trào của người bình dân về chính mình.– Tiếng cười ấy thể hiện tinh thần lạc quan. Trong cảnh nghèo, con người không hề nao núng, than vãn mà vẫn lạc quan yêu đời. Điều đó cho thấy một khát vọng vượt lên hoàn cảnh thực tại, một niềm tin mạnh mẽ vào cuộc đời. Tiếng cười cho thấy sự yêu đời, ham sống của con người.

2. Hình thức bài ca dao – Bài ca dao được viết theo thể lục bát, giàu vần điệu, có thể dùng để hát.– Bài ca dao được chia làm hai phần: lời người con trai và lời người con gái.– Chủ đề của bài ca dao hướng đến việc cưới xin, cụ thể là đồ dẫn cưới.3. Nghệ thuật gây cười– Sự khoa trương, phóng đại: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò,…– Sự đối lập: + dẫn voi – sợ quốc cấm.+ dẫn trâu – sợ máu hàn.+ dẫn bò – sợ co gân.+ dẫn lợn gà – khoai lang– Cách nói giảm: + từ voi – trâu -bò – chuột chàng trai)+ từ củ to – củ nhỏ – củ mê – của rím, củ hà (cô gái)+ từ mời làng – họ hàng – trẻ con – con lợn, con gà.4. Không gian bài ca dao– Từ voi cho đến chuột, khoai lang, từ quốc gia, dân làng đến con lợn, con gà… Cách nói giảm này đã bao quát một không gian rộng lớn.– Càng thu hẹp theo lối nói giảm, người đọc càng buồn cười và cảm nhận sâu sắc hơn về cảnh nghèo của đôi trai gái và niềm vui lạc quan của họ trong cảnh nghèo.5. Nội dung lời thách cưới của cô gái: “Nhà em thách cưới một nhà khoailang”– Lời thách cưới chứng tỏ cô gái thấu hiểu cảnh nghèo khổ của chàng trai.– Cho thấy sự vô tư, thanh thản, yêu đời.– Người con gái không cần lễ vật cao sang mà cốt cần tấm chân tình của chàng trai.– Không hề mặc cảm vì sự nghèo khổ, cả chàng trai và cô gái rất lạc quan vì thế lời thơ mang tính dí dỏm, đáng yêu.II. Các bài ca dao 2, 3, 4 1. Đối tượng bị chế giễu ở các bài ca dao– Đối tượng bị chế giễu: chàng trai, người chồng, cô vợ.– Đối tượng bị chê cười không phải là tự trào như ở bài 1 mà là những đối tượng tồn tại độc lập với chủ thể các bài thơ.2. Mục đích của tiếng cười– Chế giễu thói hư tật xấu của con người:+ Chàng trai yếu đến mức không gánh nối hai hạt vừng.+ Người chồng không có chí tiến thủ chỉ quanh quẩn nơi xó bếp.+ Cô vợ có nhiều thói tật xấu: lông mũi nhiều, ngủ ngày, ăn quà, ở bẩn (rác trên đầu).– Đây là dạng tiếng cười phê phán trong nội bộ nhân dân để tránh những thói hư tật xấu con người dễ mắc phải.3. Đặc điểm tiếng cười ở bài 2, 3– Thủ pháp phóng đại: hai hạt vùng năng đến nỗi chàng trai phải dốc hết sức mới gánh được.– Thủ pháp tương phản (đối lập):+ Khom lưng chống gối gánh – hai hạt vừng+ Đi ngược về xuôi – ngồi bếp sờ đuôi mèo.4. Chân dung hài của cô vợ ở bài ca dao 4– Hình thức: lỗ mũi mười tám gánh lông.– Thói tật: ngáy o o…– Tính xấu: hay ăn quà.– Cách sống luộm thuộm (rác trên đầu).– Trong đời thực, hiếm có người phụ nữ nào hội đủ các thói xấu trên. Điều này, vì thế cũng đủ để gây cười.5. Các biện pháp nghệ thuật tạo tiếng cười của bài ca dao 4 – Biện pháp phóng đại: lỗ mũi mười tám gánh lông.– Biện pháp tương phản: tuy nhiều tật xấu nhưng chồng vẫn yêu.+ Lỗ mũi nhiều lông – râu rồng trời cho+ Ngáy o o… – ngáy cho vui nhà.+ Hay ăn quà – đỡ cơm.+ Rác cùng rơm – hoa thơm rắc đầu.– Biện pháp lặp: chồng yêu… chồng yêu… .6. Những biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao hài hước– Các chi tiết, hình ảnh,… mang tính điển hình cao.– Phóng đại, tương phản, đối lập…– Biện pháp lặp, tăng cấp, nói giảm, nói quá.B. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI, BÀI TẬP 1. Nêu cảm nghĩ của anh (chị) về lời thách cưới của cô gái– Đấy là tiếng cười tự trào của người lao động thể hiện tinh thần lạc quan, không hề mặc cảm trước cuộc sống đang còn thiếu thốn của mình.– Tiếng cười đó tiếp thêm sức mạnh để họ vượt qua mọi gian khó– Thể hiện sự vô tư trước vật chất.– Với những người lao động tình yêu là quý hơn tất cả, đồ thách cưới không quan trọng lắm…2. Sưu tầm những bài ca dao hài hước phê phán thói lười nhác, lê la an quà, thầy bói,…1. Ra đường võng giá nghêng ngangVề nhà vợ hỏi cám rang đầu mày?2. Chồng người đi Hán, về HồChồng tôi ngồi bếp, rang ngô cháy quần.3. Làm trai cho đáng nên traiĂn cơm với vợ lại nài vét niêu.

Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 10

– Soạn bài Lời tiễn dặn– Soạn bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự

SOẠN BÀI CA DAO HÀI HƯỚC, ngắn 3

Tấm cám là bài học nổi bật trong Tuần 7 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 10, học sinh cần Soạn bài Tấm Cám, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.

Trong chương trình học Ngữ Văn 10 phần Soạn bài Tóm tắt văn bản tự sự (dựa theo nhân vật chính) là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-ca-dao-hai-huoc-38146n.aspx

Soạn Văn Bài Ca Ngất Ngưởng Đầy Đủ Nhất Của Nguyễn Công Trứ

Trong bài soạn văn Bài ca ngất ngưởng này, Kiến Guru xin gửi đến các bạn những gợi ý để trả lời các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài học trong SGK Ngữ văn 11, tập một. Sau khi tham khảo bài viết, mong rằng các bạn học sinh sẽ có những định hướng để chuẩn bị thật tốt phần soạn Bài ca ngất ngưởng trước khi đến lớp.

I. Hướng dẫn soạn văn Bài ca ngất ngưởng: Tác giả – Tác phẩm

Trước nhất, các bạn nên giới thiệu sơ lược về tác giả khi soạn bài Bài ca ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) có tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông là người con của miền đất miền Trung Hà Tĩnh, tại huyện Nghi Xuân, làng Uy Viễn. Nguyễn Công Trứ vốn có tinh thần ham học từ bé nhưng lận đận trên con đường khoa cử nên mãi đến năm bốn mươi hai tuổi thì con đường công danh của ông mới hiển lộ.

Nguyễn Công Trứ có khoảng thời gian dài tận hai mươi tám năm làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Mặc dù ở chốn quan trường phải đối diện với nhiều thăng trầm nhưng tuyệt nhiên, ở Nguyễn Công Trứ vẫn toát lên khí khái cứng rắn, bình tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó và lập được nhiều chiến tích lẫy lừng, cả việc triều chính, khai khẩn đất hoàng, tu bổ chùa chiền hay chống giặc ngoại xâm.

Đến năm ông bước sang tuổi thứ bảy mươi, ông về quê sống cuộc đời riêng của mình sau hai lần cáo quan. Dù chọn về quê nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn dành sự quan tâm rất nhiệt thành dành cho đất nước và nhân dân. Bằng chứng là khi biết đến thông tin Pháp xâm lược Việt Nam, ông vẫn quyết tâm xin tòng quân diệt giặc dù tuổi đã cao.

II. Hướng dẫn soạn văn Bài ca ngất ngưởng qua gợi ý trả lời câu hỏi SGK

Bắt đầu với câu 1 trong soạn Bài ca ngất ngưởng. Trong bài thơ, ngoài nhan đề thì có 4 lần tác giả sử dụng từ “ngất ngưởng” và mỗi lần lặp lại ấy có vai trò nhất định. Trước hết, cần lí giải nghĩa của từ “ngất ngưởng”, đây vốn là từ láy tượng hình, gợi ra thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Tuy từ “ngất ngưởng” mang ý nghĩa trên nhưng với mỗi lần nhắc đến, tác giả lại giúp người đọc hình dung những trạng thái “ngất ngưởng” riêng biệt. Lần thứ nhất, từ “ngất ngưởng” xuất hiện để miêu tả hình ảnh của Nguyễn Công Trứ khi có công danh vinh hiển và đảm nhiệm những trọng trách quan trọng: Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông. Lúc này, ông tỏ rõ là người có khí khái của một vị quan ngạo nghễ và đặc biệt là có tài năng thao lược. Lần thứ hai, từ “ngất ngưởng” cũng dùng để khắc hoạ hình ảnh của chính Nguyễn Công Trứ, nhưng lúc này đã ở trong hoàn cảnh khác – trở thành dân thường. Thế nhưng dù vai trò xã hội có thay đổi thì ông vẫn bộc lộ phong thái tự tại, phóng khoáng của mình.

Từ “ngất ngưởng” ở lần thứ ba trong câu “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” thêm lần nữa khẳng định cá tính ngang tàng của nhà thơ. Thế nên, mặc dù nói về thú chơi ngông của mình, Nguyễn Công Trứ tỏ rõ việc muốn khẳng định những gì thuộc về nét riêng biệt của bản thân, dù có thể nó khác biệt rất nhiều với số đông. Ở lần cuối, “ngất ngưởng” diễn tả nhân cách của Nguyễn Công Trứ trong việc xem thường vinh hoa phú quý, tĩnh tại thưởng ngoạn những sở thích bản thân mà không màng đến điều tiếng của nhân gian, thế sự. Ông không muốn bị ràng buộc, gò ép trong bất cứ điều gì.

Có thể thấy Nguyễn Công Trứ vẫn quyết định ra làm quan dù biết trước làm quan là gò bó, mất tự do bởi lẽ: làm quan chính là cách ông tạo cơ hội cho chính mình để thể tài năng và khí khái, hoài bão và khát vọng của một đấng nam nhi. Thế nên, ông đã chọn làm quan như một cách để tôn trọng khát vọng của chính mình nhưng là làm quan một cách “ngất ngưởng”, vẫn phóng túng, tự do, không gò ép mình vào khuôn phép cứng nhắc và cũng không chịu khuất phục trước những cái xấu, cái ác.

Bài thơ chính là một cách để nhà thơ bộc lộ cách nhìn nhận lại và tự đánh giá chính bản thân mình. Việc tự nhìn nhận ấy được ông thể hiện cụ thể: Thứ nhất, giọng điệu kể chuyện khảng khái, mạnh mẽ nhưng cũng đầy cá tính Thứ hai, qua cách kể chuyện, ông thể hiện sự tự ý thức về tài năng, phong cách, khí tiết của bản thân và ông tự hào vì mình là người dám nghĩ dám làm, dám sống cho mình chứ không bị chi phối bởi dư luận hay định kiến của lễ giáo hà khắc.

Thể hát nói là thể loại được khá nhiều những nhà thơ, nhà văn và chính trị gia sử dụng để bày tỏ tâm tư và giải toả nỗi niềm của mình. Chính vì những đặc điểm riêng biệt về thể loại, đặc biệt là tính chất phóng khoáng, tự do nên chuyên chở những quan niệm về lẽ sống một cách thoải mái, gần gũi với con người. Bởi những lí do trên mà thể hát nói chuyển tải ít nhiều hiệu quả những điều mà họ trăn trở và khi làm được sứ mệnh đó, nó được ưu ái và trở thành một khuynh hướng văn học. Đây là câu hỏi cuối cùng của soạn văn 11 Bài ca ngất ngưởng.

Soạn văn bài Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

Phân tích nhân vật Liên – Hai Đứa Trẻ

Soạn văn bài Chữ Người Tử Tù

Như vậy, với những gợi ý nêu trên, mong rằng các bạn học sinh sẽ có thêm gợi ý từ Kiến Guru để soạn văn Bài ca ngất ngưởng hiệu quả!

Đọc Hiểu Bài Ca Ngất Ngưởng

1. Tác giả

Nguyễn Công Trứ làm quan cho nhà Nguyễn, nhưng tính tình phóng khoáng, thích tự do nên cuộc đời quan trường khá lận đận. Nguyễn Công Trứ là nhà nho yêu nước thương dân. Ông để lại khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Các sáng tác của ông chủ yếu viết bằng chữ Nôm.

2. Bài ca ngất ngưởng thuộc thể hát nói, được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Bài thơ là sự ý thức rất rõ tài năng và nhân cách sống của một nhà nho có tài, có nhân cách.

3. Khi đọc chú ý nhấn giọng từ ngất ngưởng ở những vị trí khác nhau, chú ý cách ngắt nhịp, âm điệu các câu thơ, xen kẽ giữa nhịp dồn với câu dài : 3/3/4 (câu 3), 3/3 (câu 5)…, 5 câu thơ cuối (2/2/2, 2/2/3…).

1. Bài ca ngất ngưởng được làm theo thể hát nói – một thể thơ bác học phát triển mạnh đầu thế kỉ XIX do các tác gia người Việt sáng tạo trong môi trường văn hoá song ngữ Hán Nôm thời trung đại, đó là thể thơ “nửa hát, nửa nói, có tính chất kể chuyện”. Nhiều nhà nho, nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng lúc đó, dường như đều gửi gắm tâm sự của mình trong hát nói. Nhờ đó thể loại này nhanh chóng chiếm được vị trí độc tôn và trở thành một khuynh hướng văn học của thời đại.

Có thể nói, so với các bài thơ Đường luật gò bó, hát nói phóng khoáng hơn nhiều. Hát nói có quy định về số câu, về cách chia khổ nhưng nhìn chung người viết hoàn toàn có thể phá cách toàn bộ điều này để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, số chữ, về cách gieo vần, nhịp điệu,… Sự phóng khoáng của thể thơ đặc biệt thích hợp với việc chuyển tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử khao khát khẳng định mình, sống theo mình, coi thường những ràng buộc chật chội của lễ nghi, của cuộc đời trần thế mà Nguyễn Công Trứ là một đại biểu ưu tú nhất.

Bài thơ thuộc loại hát nói dôi khổ gồm 19 câu, gieo vần theo một bài hát nói điển hình. Câu đầu tiên gieo vần chân, thanh trắc, câu 2, 3 gieo vần lưng, thanh bằng, các cặp câu cứ như thế luân phiên đến hết bài. Trong bài có xen kẽ những câu thơ chữ Hán và số lượng từ trong các câu không cố định. Điều đó làm nên giọng điệu đặc trưng của bài hát nói, thể hiện được tâm trạng và tình cảm của nhân vật trữ tình.

2. Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất tự xưng, đó là : Ông Hi Văn, tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng, phường Hàn, Phú. Những cách tự xưng này đã góp phần thể hiện cái ngất ngưởng, thái độ tự tôn, sự ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ, làm nổi bật hình ảnh cái tôi cá nhân cao ngạo của tác giả.

3. Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định. ở bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ ngất ngưởng được nhắc đi nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, một lối chơi ngông thách thức xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân.

4. Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kì quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì”. Rõ ràng trong bộ dạng từ bi, Nguyễn Công Trứ vẫn vương đầy nợ trần, vẫn đèo bòng đằng sau mấy bóng giai nhân. Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là ở đó… Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại. Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm sống, triết lí sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hưởng mọi lạc thú, cầm, kì, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.

Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những cái đối lập nhau để thể hiện thái độ ngất ngưởng của mình.

5. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong tác phẩm là một con người có cá tính ngông, một con người đầy tự tin, yêu thích cuộc sống tự do tự tại, coi thường danh lợi. Con người ấy tự tin vào tài năng và tin tưởng vào quan điểm sống của mình nên đã rất bản lĩnh vượt lên trên thói thường cuộc đời để sống và làm điều mình thích. Nhưng dù ngất ngưởng, ngông ngạo đến đâu, ông vẫn ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vì thế, sau những phút giây cao hứng, thả mình phóng túng cùng trời đất tự do, ông vẫn không quên tự nhắc : “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Tư tưởng ấy không hề mâu thuẫn với cái ngông ngạo, ngất ngưởng của ông. Trên thực tế, Nguyễn Công Trứ là một nhà nho có trách nhiệm với đất nước. Tuy cuộc sống quan trường gặp nhiều lận đận nhưng ông vẫn luôn một lòng trung thành với triều đình. Dù ham cuộc sống tự do phóng túng nhưng ông vẫn nhiệt tình thực hiện trách nhiệm quân thần.

6. Cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở chỗ nhà thơ sử dụng khá nhiều khẩu ngữ trong bài thơ. Điều này tạo nên tính chất sống động, gần gũi, hóm hỉnh cho thể hát nói. Các từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ: ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng… cũng… cũng góp phần khắc hoạ rõ nét tâm hòn tự do, khoáng đạt và thái độ tự tin của tác giả.

1. Trong một bài thơ khác, Nguyễn Công Trứ viết về “Chí nam nhi”:

Thông minh nhất nam tử. Trót sinh ra thời phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. Nợ tang bồng quyết trả cho xong. Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử. Trong vũ trụ đã đành phận sự, Phải có danh gì với núi sông. Đi không chẳng lẽ về không !

2. Khi “Thăm nhà thờ Nguyễn Công Trứ”, nhà thơ Hồng Nhu tâm sự :

Giật mình gặp một ánh nhìn Trẻ xanh như lá nổi chìm như mây Mắt cười cợt ngắm tháng ngày đi qua Lên voi xuống chó vào ra sự đời Tướng thì tướng thật cũng oai Lính thì lính cũng là nòi trời ơi Khi vui thì chạy làm người Khi buồn thì đứng giữa trời làm thông !… Một vùng Uy Viễn Tướng công, Bàn thờ nghi ngút bóng bồng khói hương. Thuỳ dương dừng lại bên đường Sững sờ hạ cháy đỏ tường vông vangNhấp nhô điệu ví gái làng Ngực như nón úp hai hàng đò đưa Tôi nay xin được theo liền Hát rằng “tứ thập niên tiền…” mà chơi… chúng tôi , . , . , , . , . . . ,

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Trang 39 Sgk Ngữ Văn 11 Tập 1 trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!