Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Lọc Ở Tiểu Cầu Thận mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thận có nhiệm vụ tạo nước tiểu, để thực hiện hai chức năng chính là bài xuất phần lớn những sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa trong cơ thể, và điều hòa nồng độ các thành phần của dịch cơ thể, giữ hằng định nội môi .
Thận được cấu tạo bởi những Đơn vị cơ bản, gọi là nephron, mỗi nephron là một đơn vị giải phẫu và chức năng, có khả năng tạo nước tiểu độc lập đối với nhau. Hai thận chứa khoảng trên hai triệu nephron .
1.1.Cấu tạo của nephron
Mỗi nephron được tạo thành từ một tiểu cầu thận, trong đó dịch được lọc từ máu, và một ống dài, trong đó dịch được biến đổi để thành nước tiểu, rồi đổ vào bể thận.
– Tiểu cầu thận (glomerulus): đường kính khoảng 200 microns, được cấu tạo bởi một chùm mao mạch, đưa vào đầu tận cùng của nephron, phần này gọi là bao Bowman (Bowmans capsule). Mỗi tiểu cầu thận có chừng 50 quai mao mạch, xuất phát từ một tiểu động mạch vào (afferent arteriole), và các mao mạch tập trung lại thành một tiểu động mạch ra (efferent arteriole), có đường kính hơi nhỏ hơn, Có hai lớp tế bào phân cách giữa máu trong mao mạch và dịch lọc tiểu cầu trong bao Bowman: tếbăĩổ hội mô của mao mạch và tế bào biểu mô của bao .
Dưới kính hiển vi điện tử, tế bào nội mô (en- dothelial cells) như bị đục thủng thành các cửa sổ, các chân của các tế bào biểu mô tạo thành các khía xẻ dọc vách mao mạch, hai lớp tế bào là màng đáy, và diện tích toàn phần của nội mô mao mạch tiểu cầu, qua dó diễn ra quá; trình lọc là khoảng l,5m 2 ở người .
– Ống thận. Có thể chia làm ba đoạn, lần lượt là ống lượn gần (proximal tubule), quai llenle (Henles 100p), và ống lượn xa (distal tubule), ống lượn gần khoảng 45 milimét chiều dài và 55 micromét đường kính, vách của nó được lót bởi một lớp tế bào biểu mô, có phân ngón về phía bờ tiếp với màng đáy, còn bờ phía lòng ông có nhiều vi nhung mao, nên được gọi là bờ. bàn chải .
Tiếp theo ống lượn gần là quai Henle quai này có hai cành, cành xuống và cành lên. Vách của cành xuống và đoạn dưới của cành lên thì rất mảnh, có một lớp tế bào biểu mô đẹp, nền được gọi là đoạn mảnh của quai (thin limb). Còn đoạn trên của cành lên của quai có tế bào biểu mô cao hơn, như các phần khác của hệ thống ống, nên gọi là đoạn dày của cành lên của quai (thick limb) .
Tiếp quai Henle là ống lượn xa, tế bào biểu mô của ống lượn xạ thì thấp hơn ống lượn gần, mặc dầu nó có một ít vi nhung mao, nhưng không thành bờ bàn chải. Có khoảng tám ống lượn xa đổ vào một ống góp nhỏ rồi đi xuống vùng tủy thận. Những ống góp nhỏ hợp lại thành ống góp lớn hơn, rồi đi qua toàn bộ tủy thận song song với các quai Henlẹ .
Ông góp lớn nhất thì đổ vào trong bể thận (pelvis), qua đỉnh của tháp thận (pyramid)i mỗi thận có khoảng 250 ống góp (collecting duct) lớn nhất, mỗi ống tập hợp nước tiểu từ khoảng 4000 nephron .
Những nephrons nằm ở vùng ngoài của vỏ thận, được gọi là những nephrons vỏ (su- perficial nephron), chứng chiếm phần lớn nephron, khoảng 80 phần trăm .
Những nephron với tiểu cầu thận nằm ở vùng vỏ sát tủy, có quai Henle dài, thọc sâu vào tủy thận, có khi tới tận đỉnh của tháp thận, được gọi là những nephron cận tủy (juxtamedullary nephron), chúng chiêm khoảng 20 phần trăm tổng số nephron .
1.2. Mạch máu và thần kinh thận
– Mạch máu thận. Thận có khá nhiều máu, khoảng một phần tư cung lượng tim .
Động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ bụng, vào rốn thận, rồi chia thành các nhánh gian thùy (interlobar artery), từ đó chia thành các nhánh bán cung (arcuate artery), đi men theo đường ranh giới vỏ tủy. Từ động mạch bán cung xuất phát những động mạch gian tiểu thùy (interlobular artery), chạy thẳng góc với động mạch bán cung ra đến tận cùng vỏ ngoài của thận .
Tiểu động mạch tiểu cầu là ngành thẳng và ngắn của động mạch gian tiểu thùy. Tiểu động mạch ra tỏa ra một màng lưới mào mạch thứ hai, xoắn xuýt quanh ống thận, gọi là lưới mao mạch quanh ông (perịtubular capillaries). Từ đó máu sẽ theo tĩnh mạch bán cung, rồi tĩnh mạch gian thùy mà đổ vào tĩnh mạch thậ n. Tiểu động mạch ra nằm giữa hai lưới mao mạch, nên được gọi là hệ mạch gánh, hay mạch cửa, vàllứới mao mạch tiểu cầu chỉ là máo mạch chức năng, có nhiệm vụ lọc máu, còn lưới mao mạch quanh ống là mao mạch dinh dưỡng, nuôi thận .
Riêng, các tiểu động mạch ra của các nephron cận tủy không tỏa thành mạng lưới mạo mạch quanh ống; mà lại tạo thành quai hình kẹp. tóc, chọc thẳng vào tủy thận, gọi là động mạch thẳng (vasa recta). Các mao mạch thẳng này chạy song song với các cành của quai Henle của những nephron cận tủy, cùng vào đến tủy trong gần nhú tháp, rồi quay trở lên đổ vào tĩnh mạch gian tiểu thủy .
– Mạch bạch huyết. Thận có mạng lưới mạch bạch huyết phong phú, đổ vào ống ngực .
Thận có mạng lưới mạch bạch huyết phong phú, đổ vào ống ngực .
– Thần kinh thận. Thần kinh thận là những sợi giao cảm, khi vào thận đi dọc theo các mạch máu của thận, đặc biệt được phân phối tới. các tiểu động mạch vào và rã của tiểu cầu thận. Chúng cũng tới các tế bào ông thận và lớp phức hợp cận tiểu cầu. Những sợi giao cảm gâ-y, co mạch thận làm giảm dòng máu vào các tiểu cầu thận.
Bao thận là một tổ chức mỏng nhưng dài và chắc, bao quanh thận. Nếu thận bị phù viêm, bao giới hạn sự phình ra của thận, làm áp suất khoảng kẽ thận tang lên, do đó làm; giảm mức lọc tiểu cầu, và được coi là một trong những yếu tố làm tăng và kéo dài thiểu niệu, vô niệu .
1.3.Phúc hợp tiểu cầu
Phức hợp cận tiểu cầu (juxtaglome rular apparatus) là phần đầu của ống lượn xa tiếp xực với tiểu cầu của cùng một nephron, ở đây, tế bào biểu mô của ống lượn xa, nơi tiếp xúc với tiểu động mạch vào tiểu cầu thận thì dày đặc hơn so với các tế bào biểu mô ống khác, chúng được gọi là vết đặc (macula densa). Bộ máy Golgi, một cơ quan bài tiết của các tế bào này, hướng về tiểu động mạch vào, chứ không hướng về lòng ống như các tế bào biểu mô ống khác, có lể chúng bài tiết các chất vào thành của tiểu động mạch vào, nơi có các tế bào cận tiểu cầu .
Mặt khác các tế bào cơ trơn của thành tiểu động mạch vào, tiếp xúc chặt chề với vết đặc, thì có khác so với các tế bào cùng loại của tiểu động mạch. Chúng, phình lên và chứa các hạt động đặc,..đó là tiền chất của renin không hoạt động,;.chúng dược gọi là các tế bào cận tiểu cầu.
-.Tất cả các tổ chức trên, bao gồm vết đặc và các tế bào cận tiểu cầu, được gọi là phức hợp cận tiểu cầu. Chúng có vai trò quan trọng trong sự tạo thành hệ thống renin-angiotensin, điều hòa dòng máu qua thận, và hệ erythropoi- etin, điều hòa sự sinh hồng cầu của tủy xương
2.1.Dòng máu thận
Dòng máu qua cả hai thận ở một người lớn bình thường là khoảng 1200mL/phút, chừng trên 20 phần trăm của cung lượng tim .
Dòng máu trong vỏ thận, nơi có các nephron, thì lớn hơn nhiều so với dòng máu trong tủy thận, nói chung dòng máu tủy chỉ bằng 1/10 dòng máu thận toàn phần, Chỉ có khoảng 1 đến 2. phần trăm dòng máu thận chảy qua vasa recta, số còn lại một phần nhỏ lọc qua tiểu cầu thận còn một phần lớn chây, trong lưới mao mạch quanh ống tróm-lại dòng máu trọng vỏ thận thì nhiều và nhanh, còn dòng máu trong tủy thận thì ít và chậm.
2.2.Các áp suất trong tuần hoàn thận
Áp suất máu trọng map.mạch tiểu cầu thận thì cao hơn áp suất máu ở các mao mạch khác của cơ thể, vì tiểu động mạch vào tiểu cầu thận là ngành thẳng và ngắn của tiểu động mạch gian thùy, và mạch dưới dòng .
Tiểu động mạch ra, có đường kính nhỏ hơn tiểu động mạch vào, nên có một cản tương đối lớn Áp suất này vào khoảng 60mmHg, thuận lợi cho sự lọc của tiểu cầu thận.
Áp suất máu của mao mạch quạnh ống bị giảm đi nhiều, khi máu từ mao mạch tiểu cầu thận quạ tiểu động mạch ra tới mao mạch quanh ống, nó chỉ còn khoảng 13 mmHg, còn áp suất kẹp của huyết tương thì cao, vì protein không lọc qua tiểu cầu thận, Hai yếu tố trên thuận lợi cho việc tái hấp thu dịch vào trong hệ mao mạch, tức là tái hấp thu ống, Áp suất máu trong tiểu tĩnh mạch gian tiểu thùy chỉ còn 8 mmHg .
2.3.Áp suất trong thận và áp suất của dịch kẽ thận
Thận được bọc trong một bao xơ, nên trong tổ chức thận có một áp suất vào khoảng 12mmHg .
Còn áp suất của dịch kẽ thận có giá trị trung bình khoảng 6mmHg.
3.1.Màng lục tiểu cầu thận và tính thẩm của tiểu cầu thận
Màng lọc tiểu cầu thận là màng mà qua độ huyết tương từ mao mạch tiểu cầu thận được lọc qua để vào bao Bowman.
Màng có ba lớp là lớp tể bào nội mô của mao mạch tiểu cầu thận (capillary endothe- lium), màng đáy (basal membrane), và lớp tế bào biểu mô của bao Bowman (visceral epithelium). Mặc dầu thế, tính thậm của mao mạch tiểu cầu thận mạnh gấp hàng trăm lần tính thấm của các mao mạch khác của cơ thể, tính thấm cao của màng lọc là do câu trục đặc biệt của nó. Tế bào nội mô của mao mạch tiểu cầu thận không xếp sát nhau, mà có những khe hở như cửa sổ với đường kính khoảng 160 angstroms (Ậ). Phía ngoài của tế bào nội mô là màng đáy, câu tạo chủ yếu bởi collagen và các sợi proteoglycan, màng cũng có những lỗ lọc đường kính chừng 110 , nhưng không quan sát thấy dưới kính hiển vi điện tử. Lớp cuối cùng là tế bào biểu mộ của bao Bowman, lớp tế bào này không phủ hết màng đáy, mà phân ngón thành những chân bám vào mặt ngoài của màng đáy. Những “ngón chân” này hình thành những rãnh là những lỗ lọc với đường kính khoảng 70 . Như vậy dịch lọc tiểu cầu thận phải qua ba lớp khác nhau trước khi vào bao Bowman, .
Sự thấm qua màng lọc phụ thuộc vào trọng lượng phân tử của một số chật. Báng sau đây là thí dụ : Như vậy là nếu trọng lượng phân tử của inulin là 5.200, chất hòa tan được lọc qua 100 phần trăm, còn albumin có trọng lượng phân tử 69 000 chỉ có 0.5 phần trăm được lọc qua. Lỗ lọc của màng chỉ cho qua các phân tử chất có đường kính dưới 70 , thực tế phân tử albumin đường kính chỉ là 60 ,nhưng nó không qua được với số lượng lớn, vì màng đáy được tạo bởi phức hợp proteoglycans, có tích điện âm rất mạnh, nên nó đẩy các phân tử protein,
3.2.Thành phần của dịch lọc tiểu cầu
Dịch lọc tiểu cầu thận có thành phần giống như dịch kẽ tế bào, dịch này không chứa các tế bào máu, và lượng protein rất thấp, chỉ có khoảng 0,03 phần trăm của pro-tein huyết tương .
Màng lọc tiểu cầu thận ngăn tất cả các phân tử có đường kính trên 70 angstroms, tương đương với kích thước protein có trọng lượng phân tử 70.000. Khi bị tán huyết, he- moglobin với trọng lượng phân tử 64.450 xuất hiện trong huyết tương và được lọc qua tiểu cầu thận khoảng 5 phần trăm nồng độ huyết tương .
Do thiếu protein tích điện âm trong dịch lọc, nên gây ra tác dụng thăng bằng Donnan, một số ions âm như Cl- và HCO,- (bicarbo- nate) qua dịch lọc để thay thế, làm cho nồng độ cao hơn khoảng 5 phần trăm so với huyết tương, còn nồng độ các ion dương hóa trị một trong dịch lọc là nhỏ hơn khoảng 5 phần trăm so với huyết tương. Ngoài ra, nồng độ của các chất không ion hóa như: urê, creatinin, và glucoz (glucose) được tăng lên 4 phần trăm, trong tình trang hầu như không có pro-tein .
3.3.Mức loc tiểu cầu
Số lượng dịch lọc qua tiểu cầu trong một phút của cả hai thận được gọi là mức lọc tiểu cầu (GFR: glomerular filtration rate) .
Ớ người bình thường nó khoảng chừng là 125 ml/phút tức là khoảng 180 l/24giờ, nhưng hơn 99 phần trăm dịch lọc được tái hấp thu trong ông thận, số còn lại, khoảng trên 11/24 giờ thành nước tiểu .
Dòng huyết tương qua tiểu cầu bình thường là 650mL/phi1t, nếu mức lọc tiểu cầu 236 thận là 125mL/phút, thì tỷ lệ lọc tiểu cầu (filtration fraction) bình thường sẽ là 125/ 650, bằng khoảng 19 phần trăm. Tỷ lệ này thay đổi nhiều trong một số trang thái sinh lý và bệnh lý .
3.4.Động học của sự lọc tiểu cầu
Sự lọc tiểu cầu hoàn toàn phụ thuộc vào các áp suất trong tiểu cầu thận, đó là áp suất thủy tĩnh (hydrostatic pressure) của mao mạch tiểu cầu, thuận lợi cho sự lọc; áp suất keo (oncotic pressure) của máu trong mao mạch; và áp suất thủy tĩnh của bao Bowman, hai áp suất này chông lại sự lọc. Lượng pro-tein trong dịch lọc là rất nhỏ, nên áp suất keo ở đây không đáng kể. Áp suất thủy tĩnh của mao mạch tiểu cầu chính là huyết áp mao mạch, có tác dụng đẩy dịch qua màng lọc sang bao Bowman, trị số trung bình của nó vào khoảng 60mmHg .
Áp suất keo của máu trong chúng tôi mạch do protein máu quyết định, nó có tác dụng giữ nước lại trong mao mạch, tức là chống lại áp suất lọc, Trị số trung bình của nó là 32 mmHg, trong khi áp suất keo của protein máu động mạch trong cơ thể chỉ Ịà 25 mmHg,.vì 20 phần trăm lượng huyết tương qua tiểu cầu được lọc, mà protein không qua mạng lọc; do đó nồng độ protein tăng lên chừng 20 phần trăm khi máu qua mao mạch tiểu cầu .
Áp suất thủy tĩnh trong bao Bowman chính là áp suất thủy tĩnh của dịch lọc tiểu cầu, nó cũng chông lại áp suất lọc. Trị số trung bình của nó là 18 mmHg .
Áp suất lọc của tiểu cầu (ultrafiltration pressure) là áp suất đẩy dịch qua màng lọc tiểu cầu vào bao Bowman. Nó là hiệu của áp suất thủy tĩnh mao mạch tiểu cầu với tổng các áp suất keo của máu mao mạch và áp suất thủy tĩnh của bao Bowman .
Áp suất lọc bình thường vào khoảng 10 mmHg (60 – [32 + 18] = 10)1 M Hệ số lọc Kf (ultrafiltration coefficient) là mức lọc tiểu cầu đôi với 1 mmHg áp suất lọc. Do đó mức lọc tiểu cầu lý thuyết bằng áp suất lọc nhân với hệ số lọc, hay hệ số lọc bằng mức lọc tiểu cầu chia cho áp suất lọc .
Hệ số lọc Kf bình thường là 12,5 mL/phút/ mmHg áp suất lọc. (Kf = 125 mL/phút/10 mrnHg) .
3.5.Các yếu tố ảnh hưởng đến mức lọc cầu thận
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức lọc tiểu cầu, hay áp suất lọc tiểu cầu .
3.5.1.Các áp suất ở tiểu cầu thận
Áp suất thủy tĩnh của mao mạch tiểu cầu tăng, làm mức lọc tăng và ngược lại. Khi dòng máu thận tăng làm tăng mức lọc, vì nó làm tăng áp suất thủy tĩnh của tiểu cầu .
Áp suất keo của protein huyết tương tăng giảm mức lọc và ngược lại.
Áp suất thủy tĩnh của bao Bowman ít thay đổi, nên không ảnh hưởng. Nhưng trong trường hợp tắc ống thận hay niệu quản, hoặc phù thận, áp suất bao Bowman tăng lên và mức lọc giảm .
3.5.2.Sự co gỉãn tiểu động mạch tiểu cầu
Giãn tiểu động mạch vào làm tăng dòng máu thận và lọc tăng, ngược lại, khi co tiểu động mạch vào làm giảm lọc .
3.5.3.Sự co tiểu động mạch ra
Sự co tiểu động mạch ra làm tăng sức cản của mạch, do đó lâm lăng áp suất thủy tĩnh tiểu cầu và tăng lọc. Nhưng nếu co mạnh và co lâu, sẽ làm giảm lọc, vì thời gian lưu lại của huyết tương lâu, nó sẽ lọc nhiều, và pro-tein ứ lại sẽ tăng áp suất keo, chông lại áp suất lọc .
3.5.4.Kích thích thần kinh giao cảm thận
Kích thích giao cảm với cường độ vừa phải làm tiểu động mạch vào co lại vù mức lọc giảm. Khi kích thích mạnh, dòng máu thận bị giảm mạnh, có thể dẫn đến ngừng lọc tạm thời .
3.5.5.Áp suất động mạch hệ thống (huyết áp)
Khi áp suất động mạch tăng làm tăng áp suất thủy tĩnh mao mạch tiểu cầu và mức lọc tăng. Tuy nhiên không có sự tăng cân xứng, do hiện tượng gọi là điều hòa tự động dòng máu thận, nghĩa là khi áp suất động mạch tăng, sẽ có các cơ chế làm co tiểu động mạch vào tiểu cầu một cách tự động, giới hạn dồng máu vào tiểu cầu ồ ạt, quá mức .
Thí dụ khi áp suất động mạch tăng lên gấp đôi, mức lọc tiểu cầu chỉ tăng khoảng 15 phần trăm. Tuy nhiên cũng cần biết rằng, khi mức lọc tiểu cầu chỉ tăng lên một ít, đủ làm lưu lượng nước tiểu tăng lên nhiều .
3.6.Điều hòa mức lọc tiểu cầu thận
Mức lọc tiểu cầu luôn giữ tương dối hằng định, nếu thay đổi nhiều sẽ ảnh hưởng đến cơ thể: Nếu lọc ít, dịch xuống ống.ít, thì.sự thải các sản phẩm chuyển hóa và những chất thừa cũng sẽ giảm đi, chúng sẽ ứ lại trong dịch cơ thể .
Nêu lọc nhiều, dịch qua nhanh, ông không kịp tái hấp thu, cơ thể sẽ mất nhiều chất cần thiết.
3.6.1.Cơ chế điều hòa mức lọc tiểu cầu – Điều hòa ngược cầu-ống
Có hai cơ chế điều hòa tự động mức lọc tiểu cầu: (1) cơ chế điều hòa ngược giãn tiểu động mạch vào, (2) cơ chế điều hòa ngược co tiểu động mạch ra. Kết hợp hai cơ chế này gọi là điều hòa ngược cẩu – ổng (tubuloglomerular feedback), quá trình này có sự tham gia của phức hợp cận tiểu cầu.
Cơ chế điều hòa ngược giặn tiểu động mạch vào .
Khi mức lọc tiểu cầu giảm thấp, sẽ làm tăng tái hấp thu Na” và C1 ở cành lên của quai Henle, và làm giảm nồng độ ỉon ở vết dặc (macula dẹnsa). Sự giảm.nồng độ ion này kích thích macula densa gây giậỊỊ.tịặu động mạch vào, làm tăng lượng máu vào tiếu cầu, và tặng mức lọc tiêu cầu .
Cơ chế điều hòa ngược co tiểu động mạch ra .
Khi có rất ít ion Na+ và Cbđến vết đặc, làm tế bào cận tiểu cầu tiết ra renin, dẫn đến sự tạo thành angiotensin II*chấtnày ,l,ạm co tiểu động mạch ra vì nó mẫn câm,cao với angiotensin, điều đó làm tăng áp suất ở tiểu cầU; và tặng mức lọc tiểu cầu .
Khi cả hai cơ chế này phối hợp với nhau, mức lọc tiểu cầu sẽ tăng lên và trở về bình thường, hay chỉ tăng thêm một ít phần trăm, dù áp suất động mạch hệ thống có thể thay đổi từ 75 tới 160 mmHg .
3.6.2.Điều hòa tự dộng dòng máu thận
Dòng máu thận được giữ tương đôi hằng định khoảng 1200mL/phút, mặc dù huyết áp toàn phần Cỗ thay đổi lớn (từ 75 -160 mmHg) .
Trước hết đó là do cơ chế điều hòa tự động (autoregulation) mức lọc tiểu cầu làm giãn tiểu động mạch vào. Khi dòng máu thận giảm, nó sẽ làm giảm mức lọc tiểu cầu, điều đó sẽ gây điều hòa ngược cầu ống làm giãn tiểu động mạch vào cho phép tăng dòng máu trong tiểu cầu. Như vậy cả hai, dòng máu thận và mức lọc tiểu cầu, đều được tăng lên và trở về mức bình thường .
Ngoài ra còn một cơ chế khác điều hòa dòng máu thận, đó là cơ chế co cơ trơn thành tiểu động mạch vào (myogenic mechanism) .
Khi áp suất động mạch tăng lên, làm căng vách của tiểu động mạch vào, nó sẽ phản ứng bằng cách co lại, làm giảm dòng máu thận về bình thường. Ngược lại khi áp suất động mạch giảm, tiểu động mạch vào sẽ giãn ra làm tăng dòng máu thận. Tuy nhiên cơ chế này chỉ là giả thiết, chưa được chứng minh .
3.6.3.Tác dụng của áp suất động mạch trên lưụ lượng nước tiểu
Sự thay đổi áp suất động mạch chỉ làm thay đổi nhẹ dòng máu thận và mức lọc tiểu cầu, nhưng làm thay đổi đáng kể lưu lượng nước tiểu. Nếu áp suất động mạch giảm từ 100 mmHg xuông mức 50 mmHg, làm ngừng hoàn toàn sự bài xuất nước tiểu, còn khi áp suất động mạch tăng lên gấp đôi (khoảng 200 mmHg), làm tăng lượng nước tiểu lên gấp từ 7 đến 8 lần so với bình thường. Lý do là khi áp suất động mạch tăng, làm tăng mức lọc tiểu cầu, nhưng không làm tăng tái hấp thu ống, do đó phần dịch ống tăng sẽ thải qua nước tiểu .
Sự Lọc Của Cầu Thận
1) Màng mao mạch cầu thận
Màng mao mạch cầu thận tương tự như các mao mạch khác, ngoại trừ là nó có 3 (thay vì 2 như bình thường) lớp chính: nội mô mao mạch, màng đáy và lớp tế bào biểu mô bao quanh mặt ngoài màng đáy mao mạch (podocyte).
3 lớp này tạo nên hàng rào lọc, mặc dù là có 3 lớp nhưng chúng lọc gấp hàng trăm lần các màng mao mạch bình thường. Với tỉ lệ lọc cao như vậy nhưng màng mao mạch cầu thận vẫn ngăn cản được protein huyết tương.
Phần cuối cùng là lớp tế bào biểu mô. Những tế bào này không liên tục mà phân ngón thành những chân bám vào mặt ngoài màng đáy. Những “ngón chân” này ngăn cách bởi các cái lỗ nhỏ đường kính khoảng 70 (slit pore) cho dịch lọc đi qua. Các tế bào biểu mô cũng có điện tích âm lại càng làm tăng thêm sự hạn chế lọc protein huyết tương. Tóm lại 3 lớp của thành mao mạch cầu thận tạo nên một hàng rào lọc vững chắc đối với protein huyết tương.
Khả năng lọc của các chất tan tỉ lệ nghịch với kích thước của chúng.
Màng mao mạch cầu thận thì dày hơn các mao mạch khác, nhưng nó lại xốp hơn (có nhiều lỗ) và vì vậy dịch lọc có tỉ lệ cao hơn. Mặc dù tỉ lệ lọc cao, nhưng hàng rào lọc vẫn chọn lọc trong việc phân tử nào sẽ được lọc, dựa trên kích thước và điện tích của chúng.
Phân tử mang điện tích âm thì lọc khó hơn là phân tử mang điện tích dương cùng kích thước (ví dụ albumin đường kính chỉ là 6nm, trong khi các đường kính lỗ là 8 nm nhưng nó lại bị hạn chế lọc do điện tích âm của nó và lực đẩy tĩnh điện của điện tích âm của proteoglycan ở thành mao mạch cầu thận).
Vậy thì khi mà điện tích âm trên màng đáy bị mất thì một số protein trọng lượng phân tử thấp, đặc biệt là albumin, sẽ được lọc vào trong nước tiểu (tình trạng này gọi là protein niệu hay albumin niệu).
Thành phần dịch lọc
Sự hình thành nước tiểu bắt đầu bằng việc lọc một lượng lớn dịch qua mao mạch cầu thận vào bao Bowman. Giống như hầu hết các mao mạch khác, mao mạch cầu thận thì tương đối không thấm với protein, do đó dịch lọc (glomerular filtrate) gồm rất ít protein tự do, không chứa hồng cầu.
Nồng độ của các thành phần khác của dịch lọc, gồm hầu hết các muối là các phân tử hữu cơ, thì có nồng độ tương tự như trong huyết tương. Có một số trường hợp ngoại lệ đó là các phân tử có trọng lượng phân tử thấp, như canxi và acid béo, không được lọc một cách tự do bởi chúng gắn một phần với các protein huyết tương. Ví dụ gần ½ canxi huyết tương là hầu hết các acid béo huyết tương gắn với protein và những phần gắn này không được lọc qua mao mạch cầu thận.
2) Tính GFR
Mức lọc cầu thận – GFR (glomercular filtration rate) là lượng dịch lọc (plasma ultrafiltrate) qua cầu thận trong một phút, được tính bằng cách đo lượng một chất trong huyết tương và lượng chất đó được thải ra. Chất dùng để đo GFR phải đảm bảo được lọc tự do qua cầu thận và phải là hoặc được tiết hoặc hấp thu. ngoài ra thì chất đó còn phải đảm bảo là không gây độc cho cơ thể và không bị chuyển hóa bởi cơ thể. Inulin, một polyme của fructoz với trọng lượng phân tử là 5200, đắp ứng được những tiêu chí này ở người và hầu hết các động vật, do đó được dùng để đo GFR.
Độ thanh thải (clearance) huyết tương ở thận là thể tích huyết tương trong đó một chất được loại bỏ hoàn toàn bởi thận trong một đơn vị thời gian (thường là một phút). Lượng chất xuất hiện trong nước tiểu trên một đơn vị thời gian là kết quả sự lọc ở thận một lượng nhất định huyết tương. GFR và độ thanh thải tính bằng đơn vị mL/min.
Qua tiến hành thao tác đo, người ta thu được các số liệu và cách tính độ thanh thải như sau:
Trong đó: UIN là nồng độ inulin nước tiểu V là lượng nước tiểu trong một phút PIN là lượng inulin trong huyết tương động mạch C là độ thanh thải
Có thể nói lại cách tính như sau:
– U nhân với V ta được lượng inulin được lọc trong một phút
– Theo như giá trị của P, ta có được lượng inulin có trong một ml huyết tương động mạch ta có lượng inulin được lọc trong một phút là 35×0,9=63/2, vậy để lọc hết 1/4 mg inulin cần 1/126 phút.
Trong 1/126 phút thì “độ thanh thải” là 1ml, vậy suy ra độ thanh thải cần tính (trong một phút) bằng 126 mL/phút (nhân chéo chia ngang).
Độ thanh thải của creatinin cũng có thể được dùng để tính GFR, tuy nhiên đôi khi nó được tiết bởi ống thận vì vậy sẽ làm tăng nhẹ độ thanh thải của nó so với inulin (điều này có thể dễ thấy dựa trên công thức tính trên). Nó được dùng như là một chỉ số đánh giá chức năng thận (bình thường là 1mg/dL).
GFR bình thường
GFR ở người trưởng thành khỏe mạnh trung bình khoảng 125 mL/phút, tương đương 180L/ngày trong khi lượng nước tiểu chỉ có 1L/ngày. Vì vậy 99% hoặc hơn dịch lọc được tái hấp thu. Với tỉ lệ 125mL/phút, trong một ngày thận lọc một lượng dịch bằng 4 lần tổng lượng nước cơ thể, 15 lần thể tích dịch ngoại bào và 60 lần thể tích huyết tương.
3) Điều hòa GFR
Các yếu tố chi phối sự lọc qua mao mạch cầu thận cũng giống như ở các mao mạch khác, đó là kích thước giường mao mạch, tính thấm của mao mạch, áp suất thủy tĩnh và áp cuất thẩm thấu qua thành mao mạch. Với mỗi nephron ta có công thức sau:
Trong đó: Kf là hệ số lọc cầu thận (phụ thuộc tính thấm của mao mạch cầu thận và diện tích bề mặt) Pgc là áp suất thủy tĩnh của mao mạch cầu thận, Pt là áp suất thủy tĩnh của bao Bowman π GC là áp suất keo của mao mạch cầu thận, và π T là áp suất keo của dịch lọc bao Bowman
Chú ý: ở đây do protein bị ngăn chặn lọc qua màng lọc nên lượng protein hay là áp suất keo ở bao Bowman là không đáng kể. Còn lại 3 thành phần (trong đó chỉ có áp suất thủy tĩnh của mao mạch cầu thận là thuận lợi cho sự lọc, hai thành phần còn lại thì chống lại sự lọc). Điểm đặc biệt là áp suất keo ở mao mạch cầu thận là 32 mmHg, cao hơn áp suất keo của động mạch cơ thể – chỉ là 25 (do 20% lượng huyết tương qua cầu thận được lọc, trong khi protein lại không qua được màng lọc).
a) Tính thấm
Tính thấm của mao mạch cầu thận khoảng 50 lần mao mạch ở cơ bắp. Các chất trung tính với đường kính nhỏ hơn 4 nm thì được lọc từ do, nhưng nếu đường kính hơn 8 nm thì sự lọc gần bằng 0 (giữa hai giá trị đường kính này, sự lọc tỉ lệ nghịch với đường kính).
b) Kích thước giường mao mạch
c) Áp suất keo và áp suất thủy tĩnh
Áp lực mao mạch cầu thận thì cao hơn các giường mao mạch khác do 2 điểm: (1) động mạch đến là các nhành thẳng, ngắn của động mạch gian tiểu thùy, (2) động mạch đi với kháng lực cao.
Áp suất thủy tĩnh của mao mạch chống lại với áp suất thủy tĩnh của bao Bowman, Tương tự như với áp suất keo, tuy nhiên ở đây áp suất keo dịch lọc không đáng kể do đó hiệu số áp suất keo giữa mao mạch và bao Bowman tương đương với áp suất keo của mao mạch. Một điểm cần lưu ý là áp suất thủy tĩnh của bao Bowman ít thay đổi nên không ảnh hưởng. Tuy nhiên trong trường hợp tắc ống thận/niệu quản, hay phù thận sẽ làm áp suất bao Bowman tăng lên gây giảm lọc.
3. Thay đổi GFR
– Áp suất máu hệ thống tăng thì làm tăng áp suất thủy tĩnh mao mạch à tăng lọc. Tuy nhiên sự tăng là không cân xứng, do cơ chế tự điều hòa (khi mà áp suất động mạch tăng sẽ có các cơ chế làm co tiểu động mạch đến để hạn chế dòng máu tới quá mức).
– Sự co giãn của các tiểu động mạch: động mạch đến nếu giãn sẽ làm tăng dòng máu tới thận và lọc tăng, ngược lại. Đối với động mạch đi, sự co làm tăng áp suất thủy tĩnh mao mạch cầu thận do đó làm tăng lọc (tuy nhiên nếu co mạnh lâu quá thì sẽ giảm lọc vì lúc đó protein ứ lại làm tăng sáp suất keo).
– Trường hợp phù thận và tắc niệu quản thì đã trình bày ở trên, gây giảm lọc.
– GFR cũng phụ thuộc vào Kf.
– Một số yếu tố khác cũng đã trình bày ở trên.
4. Tỉ lệ lọc cầu thận
Là tỉ lệ của GFR (~125 mL.phút) với dòng huyết tương qua thận (renal plasma flow – RPF (~ 650 mL/phút), khoảng 16-20%. GFR thay đổi ít hơn RPF :khi có sự giảm huyết áp hệ thống, GFR giảm ít hơn là RPF do sự co động mạch đi, do đó tỉ lệ lọc tăng lên.
– Ganongs Review of Medical Physiology, 24th – Guyton and Hall Textbook of Medical Physiology, 12th – Sinh lý học y khoa của GS. Phạm Đình Lựu
Bài viết của thành viên conan274318_SM
Quá Trình Lọc Máu Và Hình Thành Nước Tiểu Ở Thận
Chức năng chính của thận là quá trình lọc máu và hình thành nước tiểu, bài thải các chất độc hại, chất thải ra ngoài cơ thể qua nước tiểu. Chức năng này của thận được thực hiện tại các tiểu đơn vị chức năng thận- nephron bao gồm 3 giai đoạn: quá trinh lọc máu tại cầu thận, quá trình tái hấp thu tại ống thận và hình thành nước tiểu chính thức.
Quá trình lọc máu và hình thành nước tiểu ở thận
Quá trình lọc máu diễn ra tại cầu thận nhờ màng lọc cầu thận, sự chênh lệch áp suất giữa bên trong cầu thận và tạo lực đẩy các chất qua màng. Các tế bào máu và protein có kích thước lớn hơn lỗ lọc sẽ được giữ lại theo động mạch trở lại cơ thể. Các chất qua màng hình thành nước tiểu đầu được chuyển đến ống thận.
Cứ mỗi phút có khoảng hơn 1 lít máu qua thận, người trưởng thành sau 1 giờ có thể lọc 60 lít máu và có 7,5lít dịch lọc được tạo ra. Như vậy với lượng 5 lít máu trong con người sau 24 giờ có thể chảy qua thận 288 lần hay cứ 5 phút thì đi qua 1 lần. Vì thế thận cần cung cấp lượng oxy rất lớn, nhu cầu oxy của thận chiếm tới 9% tổng lượng oxy cung cấp cho cơ thể.
Quá trình lọc máu qua cầu thận phụ thuộc vào hai yếu tố là: lỗ lọc của màng và áp suất lọc.
+Các lỗ lọc ở màng lọc cầu thận có kích thước rất nhỏ chỉ cho những vật rất bé đi qua còn những vật lớn hơn phải nhờ áp suất lọc.
+Áp suất lọc là giá trị chênh lệch giữa huyết áp trong mao mạch (khoảng 75mmHg) và áp suất keo loại trong huyết tương (khoảng 30mmHg) cộng với áp suất thuỷ tĩnh trong xoang Bowman (khoảng 6mmHg)
Thành phần của nước tiểu đầu gần giống với huyết tương gồm các chất như: đường glucose, acid amin, Na+, K+, HCO3-, Cl-… còn protein ít hơn huyết tương từ 300 đến 400 lần vì những protein kích thước lớn không thể qua được màng lọc.
Quá trình lọc máu và hình thành nước tiểu ở thận
Nước tiểu đầu sau khi được lọc ở cầu thận do vẫn còn nhiều chất dinh dưỡng nên sẽ được tái hấp thu tại ống thận. Trung bình mỗi ngày có khoảng 170-180 lít nước tiểu đầu được tạo ra nhưng sau khi tái hấp thu thì chỉ có khoảng 1-2 lít nước tiểu thực sự được hình thành. Quá trình tái hấp thu tại ống thận lần lượt đi qua ống lượn gần, quai henle, ống lượn xa, ống góp.
, quá trình tái hấp thu hầu hết các chất dinh dưỡng, nước và chất điện giải:
+Glucose: được hấp thu hoàn toàn theo cơ chế vận chuyển tích cực, glucose được vận chuyển qua phía đối diện của tế bào biểu mô của thành ống để đổ vào máu. Nếu trường hợp đường huyết trong máu tăng cao hơn mức bình thường thì quá trình tái hấp thu glucose sẽ không xảy ra hoàn toàn dẫn tới tiểu đường.
+Protein: được tái hấp thu ở ngay đoạn đầu ống lượn gần bằng phương thức ẩm bào.
+Acid amin: mỗi loại acid amin được gắn với chất mang đặc hiệu trên màng, khi tách khỏi chất mang chúng được khuếch tán vào dịch ngoại bào vào máu
+Ion Na+ được tái hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực nhờ gắn vào vật tải được bơm vào dịch ngoại bào để vào máu. Khoảng 90% Na+ được tái hấp thu ở ống lượng gần và chúng mang theo 1 lượng Ion Cl- thương đương.
+Ion K+ cũng được tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần bằng phương thức tích cực giống như Na+.
+HCO3- được tái hấp thu gián tiếp thông qua khí CO2.
+Ở nhánh xuống các tế bào biểu bì của quai Henle chỉ cho nước thấm qua, còn Na+ thì bị giữ lại hoàn toàn, nên làm tăng nồng độ Na+ trong dịch lọc khi qua đáy chữ U sang nhánh lên của quai.
+Ở nhánh lên thì ngược lại Na+ lại được thấm ra còn nước thì không. Người ta gọi đó là hiện tượng nhân nồng độ ngược dòng.
+Quai Henle cùng với mạch thẳng và ống góp nằm song song với nhau, một phần nằm ở lớp vỏ, một phần nằm ở lớp tuỷ. Áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào càng đến gần lớp tuỷ càng cao. Ở lớp tuỷ áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào cao gấp 4 lần so với dịch ngoại bào của lớp vỏ. Điều đó càng tạo điều kiện cho việc tại hấp thu nước ở nhánh xuống và Na+ ở nhánh lên.
Quá trình lọc máu và hình thành nước tiểu ở thận
+ Ở phần đầu của ống lượn xa: Cl- được bơm ra dịch ngoại bào và do đó kéo theo các ion khác như Na+, K+, Ca++, Mg++…Các ion được tái hấp thu nhiều làm cho dịch lọc ở phần đầu của ống lượn xa bị loãng hơn. Có người gọi đây là đoạn pha loãng. Nhờ sự pha loãng này đã tạo điều kiện cho quá trình tái hấp thu nước ở đoạn sau.
+ Ở phần sau của ống lượn xa, nước được tái hấp thu do dịch lọc bị loãng nên áp suất thẩm thấu của dịch lọc thấp hơn nhiều so với áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào, kết quả là nước dễ dàng đi ra dịch ngoại bào mà vào máu.
+Tái hấp thu Na+ và Cl-: Nhờ tác động của hormon aldosteron của phần vỏ tuyến thượng thận mà ion Na+ được tái hấp thu theo cơ chế tích cực. Aldosteron xuyên qua màng tế bào tới màng nhân và gắn vào một protein thụ cảm ở màng nhân tạo phức aldosteron – protein. Phức hợp này vào nhân kích thích ADN tăng tổng hợp ARN thông tin, kết quả làm tăng tổng hợp loại protein mang để vận chuyển Na+ trong khi (bơm Na) hoạt động (đây là cơ chế hoạt hoá gen). Còn Cl- được hấp thu theo Na+ như ở ống lượn gần.
+ Từ tế bào thành biểu mô của ống lượn xa một số chất như K+, NH3, H+ lại được chuyển vào góp nằm ở tuỷ thận cho ure đi qua còn ở phần vỏ không cho ure đi qua).
còn tái hấp thu thêm Na+, K+, Ca++, nước. Một lượng NH3 từ huyết tương tới tế bào biểu mô của thành ống lượn xa để bài tiết. Vào dịch lọc NH3 kết hợp với H+ tạo ra NH4 để thải ra theo nước tiểu, nhờ vậy đã điều chỉnh được độ pH của dịch lọc.
Sự hình thành nước tiểu chính thức
Sau khi quá trình tái hấp thu tại ống thận diễn ra, dịch lọc chuyển thành nước tiểu tập hợp tại bể thận rồi qua niệu quản xuống dự trữ tại bàng quang. Khi bàng quang đầy thì nước tiểu sẽ được bài tiết ra bên ngoài thông qua niệu đạo.
Thành phần của nước tiểu chính thức là nước, các chất cặn bã (acid uric, creatinin, ure…), sản phẩm chuyển hóa của một số thuốc, các ion điện giải (K+, H+,…)…
Làm Sao Để Đánh Giá Chức Năng Của Tiểu Cầu Thận Và Tiểu Quản Thận?
Làm sao để có thể đánh giá được chức năng của tiểu cầu thận, tiểu quản thận đang là vấn đề mà rất nhiều người quan tâm. Và, bài viết hôm nay bacsichuabenhsoithan sẽ giúp bạn đọc tìm câu trả lời cho vấn đề đang được thắc mắc ở trên.
Làm sao để đánh giá được chức năng của tiểu cầu thận
Đôi điều về tiểu cầu thận
Chức năng cho qua của tiểu cầu thận: Trong lâm sàng người ta thường dùng giá trị đo được về tỉ lệ loại trừ các loại vật chất để phản ánh chức năng tiểu cầu thận.
Khi máu chảy qua thận, một chất nào đó trong huyết tương sau khi qua xử lí lọc của tiểu cầu thận và hấp thu lại của tiểu quản thận, bị bài thải ra ngoài. Người ta gọi lượng chất đó trong huyết tương bị thận bài thải ra ngoài là tỉ lệ loại trừ.
Đánh giá chức năng tiểu cầu thận như thế nào?
Để đánh giá chức năng tiểu cầu thận bác sĩ cẩn phải tính toán theo phương pháp tính toán như sau:
Tỉ lệ ngoại trừ (ml/phút)= (Nồng độ chất đó trong nước tiểu(mg/d) x lượng nước tiểu(ml/phút)) / nồng độ chất đó trong huyết tương (mg/dl).
Thông thường những chất được chọn để đo định, đại bộ phận có thể đã lọt qua màng lọc của tiểu cầu thận, không bị tiểu quản thận hấp thu trở lại. Như là:
Đo định tỉ lệ loại trừ đường gluco:
Phân tử đường gluco nhỏ nhất, sau khi tiêm vào cơ thể, không bị trao đổi phân giải mà giữ nguyên hình tự do lọt qua màng lọc của tiểu cầu thận, không những không bị tiểu quản thận bài tiết mà cũng không bị nó hấp thu trở lại, bởi vậy tỉ lệ loại trừ đường gluco có thể phản ánh chính xác tỉ lệ lọc của tiểu cầu thận.
Người bệnh 3 ngày không ăn thức ăn động vật thì inocin rõ nguồn gốc bên ngoài đều bị bài thải ra ngoài, khi độ inocin trong huyết tương là sản phẩm trao đổi chất của creatin trong cơ thể.
Do inocin có phân tử lượng nhỏ nên tuyệt đại bộ phận có thể lọt qua màng lọc của tiểu cầu thận, không bị tiểu quản thận hấp thu trở lại, chỉ có một số ít bị tiểu quản thận ở đầu gần bài tiết, bởi vậy tỉ lệ loại trừ chất này cơ bản có thể phản ánh tỉ lệ cho qua của màng lọc tiểu cầu thận.
Nồng độ inocin trong huyết tương và nồng độ nitơ trong nước tiểu có máu do sự trao đổi phân giải nitơ của cơ thể và năng lực bài tiết của thận quyết định, trong tình trang ăn uống và trao đổi phân giải trong cơ thể tương đối ổn định thì nồng độ trong máu của chúng do năng lực bài tiết của thận quyết định.
Do đó nồng độ inocin trong máu và nitơ trong nước tiểu có máu phản ánh ở một mức nhất định tình trạng tổn hại chức năng lọc của tiểu cầu thận, nhưng phản ánh tương đối chậm.
Đo định tỉ lệ cho qua của tiểu cầu thận đôi vói một số chất có tính phóng xạ:
Tiêm 1 lần, liều nhỏ chất có tính phóng xạ như – axít iodic, 99Tc (tếchnêti) V. V…, sau đó lấy máu nhiều lần đo định tính phóng xạ của huyết tương, vẽ đồ thị thay đổi nồng độ của nó, xác định diện tích dưới đường biểu diễn.
Sau đó dùng diện tích đó trừ đi lượng chất có tính phóng xạ trị vào cơ thể, có thể tìm ra được tỉ lê loại trừ chất phóng xạ của tiểu cầu thận.
Đo định protein dạng cầu nhỏ trong huyết thanh để đánh giá chức năng của tiểu cầu thận:
Protein dạng cầu rất nhỏ P2 là một chất protein có phân tử nhỏ, chủ yếu do tê bào limpha sinh ra, các tế bào ở u bướu cỏ năng lực hợp thành nó rất mạnh.
Do phân tử lượng của nó nhỏ, nên protein dạng cầu nhỏ p2 tuần hoàn trong máu CÓ thể tự do lọt qua màng lọc của tiểu cầu thận, có khoảng 99,9% bị tiểu quản thận ở đầu dưới hấp thu trở lại, chỉ có 0,1% bị bài tiết ra ngoài.
Bởi vậy khi tỉ lệ loại trừ của màng lọc của tiểu cầu thận hạ thấp thì lượng protein dạng cầu P2 trong nước tiểu tăng cao. Những cơ thể đã được miễn dịch với một sô” bệnh nào đó và có u ác tính, cũng có thể thấy chất này tăng cao trong nước tiểu.
Làm sao để đánh giá được chức năng của tiểu quản thận
Kiểm tra chức năng của tiểu quản thận ở đầu gần:
Sau khi tiêm phenol đỏ vào cơ thể, tuyệt đại bộ phận (94%) do tế bào mặt ngoài trên tiểu quản thận ở đầu dưới phân tiết vào nước tiểu, bởi vậy đo định lượng bài tiết phenol đỏ trong nước tiểu (tỉ lệ bài tiết phenol đỏ), có thể dùng làm tiêu chí sơ bộ để phán đoán chức năng bài tiết của tiểu cầu thận.
Như đã nói ở trên, tuyệt đại bộ phận protein dạng cầu nhỏ P2 đều bị tiểu quản thận ở đầu dưới hấp thu trở lại, khi chức năng hấp thu trở lại của tiểu cầu thận không tốt thì lượng protein dạng cầu nhỏ P2 trong nước tiểu sẽ tăng cao.
Chức năng của tiểu quản đầu xa và của ống tập hợp:
Trong tình trạng bình thường, khả năng hấp thu trở lại các chất hòa tan và nước của tiểu quản thận đầu gần, căn bản là ổn định, nhưng tiểu quản đầu xa và ông tập hợp có thể căn cứ vào nhu cầu nước và các chất hòa tan của cơ thể mà điều tiết lượng hấp thu trở lại.
Do đó nước tiểu loãng hay đặc chủ yếu phản ánh chức năng của tiểu quản đầu xa và ống tập hợp. Trong lâm sàng thường dùng chí nghiệm liste (khi không dùng thuốc lợi tiểu, ban ngày ăn uống bình thường, sau 8 giờ tối cấm ăn, đo nhiều lần tỉ trọng và lượng nước tiểu) để xác định tỉ số áp lực thẩm thấu của nước tiểu có máu và tỉ lệ loại trừ nước tự do.
Ngoài ra do định lượng hấp thu đường gluco lốn nhất của thận cũng có thể phản ánh chức năng hấp thu trở lại của tiểu quản thận đầu gần, vì đo định lâm sàng tương đối phiền phức, nên nếu tình trạng đường trong máu (đường huyết) và đường trong nước tiểu (đường niệu) không cao thì ý nghĩa đo định không lớn, bởi vậy ít sử dụng.
Nguyên lí là: Khi đường huyết bình thường thì tiểu quản thận có thể hấp thu toàn bộ số đường lọt qua màng lọc của tiểu cầu thận.
Nếu nồng độ đường huyết không ngừng tăng cao, thì lượng hấp thu đường gluco trở lại của tiểu quản thận cũng tăng theo, khi nồng độ đường gluco trong máu vượt quá một giá trị nhất định thì năng lực hấp thu lại của tiểu quản thận bị bão hòa, không thể hấp thu được những lượng đường quá nhiều xuất hiện dường trong nước tiểu.
Khi đó lượng đường gluco bị hấp thu lại trong dịch lọt qua màng lọc được gọi là lượng đường gluco hấp thu lại lớn nhất của tiểu quản thận. Lấy lượng đường gluco lọt qua tiểu cầu thận trong một đơn vị thòi gian, trừ đi lượng đường gluco xuất hiện trong nước tiểu trong khoảng thời gian đó, sẽ tính ra được giá trị hấp thu lại lớn nhất.
Đo định lượng bài tiết axit amonic nhiều nhất của tiểu quản thận: sau khi tiêm axit amọnic vào cơ thể, chưa phân giải, sẽ có khoảng 20% giữ nguyên hình lọt qua tiểu cầu thận, 80% sẽ giữ nguyên hình khi bị tiểu quản thận đầu gần bài tiết, khi mức axit amonic trong huyết tương tăng cao thì lượng bị bài tiết cũng tăng theo.
Khi nồng độ trong huyết tương tăng tới một giá trị nhất định (khoảng 6mg/ml) thì lượng axit amonic bị tiểu quản thận bài tiết đạt tới giá trị lớn nhất, tức là dù nồng độ trong huyết tương tăng thêm thì lượng bài tiết vào nước tiểu cũng không tăng nữa.
Lượng bài xuất khi đó là lượng axit amonic bài tiết lốn nhất. Nếu dùng lượng bài tiết lớn nhất trừ đi lượng lọt qua tiểu cầu thận sẽ được lượng bài tiết axit amonic lớn nhất của tiểu quản thận. Giá trị này được dùng để đánh giá số lượng và chất lượng các tiểu quản thận, để biết chức năng bài tiết chủ động của tiểu quản thận đầu gần.
Bạn đang xem bài viết Sự Lọc Ở Tiểu Cầu Thận trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!