Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tin Cải cách hành chính
Lượt xem: 12875
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Sơn La hiện nay
Cấp xã có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo và giữ vững ổn định chính trị – xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn; Kết luận số 64-KL/TW, Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng khóa XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” ; Nghị định 92/2010/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở xã,…Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh Sơn La đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh.
Tính đến ngày 30/6/2019, tổng số cán bộ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh 4.557 người, trong đó: Nữ 990 người chiếm 21,72%, đảng viên 4.020 người chiếm 88,21%, người dân tộc thiểu số 3.926 người chiếm 86,2%, trình độ văn hóa phổ thông 4.333 người chiếm 95%, trình độ chuyên môn trung cấp trở lên 4.382 người chiếm 96,16% (tăng 15,8% so với năm 2015); trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên 3.205 người chiếm 70,33% (tăng 26,65% so với năm 2015); trình độ tin học đã qua bồi dưỡng 3.440 người chiếm 75,49%; trình độ ngoại ngữ đã qua bồi dưỡng 1.219 người chiếm 27%.
Nhìn chung, công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách cán bộ, công chức cấp xã, đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, thực hiện, từ đó chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã từng bước được nâng lên, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn một số hạn chế, cụ thể: Cán bộ, công chức cấp xã chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên còn chiếm tỷ lệ 3,84%; năng lực lãnh đạo của một số cán bộ cấp xã, nhất là cán bộ chủ chốt còn nhiều hạn chế, thiếu năng động, chủ động giải quyết công việc; năng lực và kỹ năng hành chính, kỹ năng vận dụng các kiến thức đã được đào tạo, bồi dưỡng của một số cán bộ, công chức vào công việc cụ thể còn yếu; công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, công chức còn có mặt hạn chế, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ còn thấp; việc đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức làm căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức ở một số nơi thực hiện chưa nghiêm,… Để tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong giai đoạn tới, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng tuyển dụng và bố trí, sử dụng công chức cấp xã; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn cán bộ cấp xã; đổi mới, quy trình lựa chọn, bầu cử cán bộ cấp xã. Thứ hai, tăng cường, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo, bồi dưỡng phải theo quy hoạch, gắn với việc sử dụng; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng việc nâng cao kỹ năng hành chính, kỹ năng xử lý và giải quyết vấn đề cho cán bộ, công chức cấp xã. Thứ ba, đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức cấp xã; việc đánh giá phải đảm bảo nội dung, quy trình theo quy định, công khai, dân chủ với tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch; tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia giám sát, đánh giá và góp ý cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Gắn việc đánh giá với công tác bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức. Thứ tư, tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ nhằm từng bước khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ địa phương. Việc thực hiện điều động, luân chuyển lãnh đạo các phòng, ban của huyện về giữ các chức danh chủ chốt ở các xã có tình hình phức tạp, yếu kém trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở; đồng thời luân chuyển cán bộ từ xã lên huyện nhằm kết hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã dự nguồn các chức danh chủ chốt ở cơ sở. Thứ năm, Tăng cường công tác quản lý và tiếp tục nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vu, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức cấp xã. Nguồn: Sở Nội vụ
Thuận Châu họp bàn giải pháp nâng cao chất lượng…
Thuận Châu tăng cường kiểm tra, tháo gỡ khó khăn…
Thuận Châu: Nỗ lực phát triển xây dựng Chính phủ…
Thuận Châu hội nghị nâng cao chất lượng giải…
Đoàn kiểm tra cải cách hành chính, công chức,…
1
2
Bệnh “Lười Học Lý Luận Chính Trị” Và Những Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Giáo Dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ, Đảng Viên Hiện Nay
Những biểu hiện của bệnh lười học lý luận chính trị
Hiện nay, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện lười học lý luận, nhất là lý luận chính trị. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ ra những biểu hiện chính của bệnh lười học tập lý luận chính trị là: Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Khi phân tích những nguyên nhân dẫn đến chứng bệnh chủ quan của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những hạn chế trong học tập và nghiên cứu lý luận, trong việc gắn lý luận với thực tiễn. Những hạn chế đó được chia làm ba nhóm: kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Ba chứng bệnh mà Người nêu ra, cho đến nay vẫn là những căn bệnh đang thực sự tồn tại trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII gọi chung là bệnh “lười học lý luận chính trị”. Việc lười học lý luận chính trị có thể thấy rõ ở một số biểu hiện cụ thể như:
– Nhiều cán bộ, đảng viên có biểu hiện coi thường học tập lý luận chính trị nói chung, nghị quyết của Đảng nói riêng, cho rằng chỉ cần có trình độ chuyên môn là đủ; xác định động cơ học tập lý luận chính trị không đúng, cho rằng việc học tập này chỉ là để đủ tiêu chuẩn về bằng cấp chứ không phải để nghiên cứu, nắm vững lý luận chính trị phục vụ nhu cầu công tác, không coi học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài của cán bộ, đảng viên.
– Nhiều cán bộ, đảng viên có thái độ thiếu nghiêm túc khi tham gia các lớp học nghị quyết, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Biểu hiện rõ nét là khi tham gia học tập, không ít cán bộ, đảng viên xuất hiện tư tưởng “có mặt” để điểm danh mà chưa thực tâm chú ý lắng nghe, trăn trở trước những vấn đề quan trọng, cốt lõi của lý luận chính trị. Đáng buồn hơn, không ít cán bộ, đảng viên mặc nhiên sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin, vô tư trò chuyện trong lớp học mà quên đi việc tập trung, chú ý lắng nghe báo cáo viên, giảng viên truyền thụ kiến thức lý luận chính trị. Thậm chí, sau mỗi đợt học tập chính trị tập trung, một số cán bộ, đảng viên còn “bỏ quên” tài liệu, văn kiện tại giảng đường, dưới gầm bàn… Khi làm bài thi, bài thu hoạch, do không nắm được kiến thức nên tình trạng sao chép, quay cóp diễn ra khá phổ biến.
– Một bộ phận cán bộ, đảng viên lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin, hiểu biết mới; không có sự trăn trở và sáng tạo trong quá trình học tập. Học tập lý luận chính trị một cách thụ động nên nghe mà không hiểu, hoặc hiểu không thấu đáo. Sau học tập, một số cán bộ, đảng viên “nói” như thể hiểu thấm thía nội dung nghị quyết, chủ trương của Đảng, nhưng khi tuyên truyền lại thể hiện một cách chủ quan, chung chung, thậm chí làm sai lệch nội dung nghị quyết. Nhiều vấn đề mới, hệ trọng trong nghị quyết vừa được ban hành không được họ chú trọng, lưu tâm nghiên cứu, cập nhật.
– Tình trạng lý luận xa rời thực tiễn đang diễn ra khá phổ biến ở không ít cán bộ, đảng viên. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay có người am hiểu lý luận, nhưng ít hiểu biết thực tiễn; số khác có hiểu biết thực tiễn, nhưng yếu về lý luận; hoặc là, vừa không am hiểu lý luận, vừa xa rời thực tiễn. Số cán bộ, đảng viên vừa am hiểu lý luận, vừa sâu sát thực tiễn không nhiều. Điều đó dẫn đến một số chủ trương, nghị quyết của Đảng được xây dựng chưa phù hợp với thực tiễn, hoặc phù hợp nhưng triển khai vào thực tế chậm và kém hiệu quả, thậm chí xảy ra những sai phạm nghiêm trọng. Tình trạng này gây những hệ lụy không nhỏ cho Đảng, cho Nhà nước và xã hội, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Tại Hải Dương, những biểu hiện của bệnh “lười học lý luận chính trị” đang thể hiện tương đối rõ nét trong không ít cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp của tỉnh nói riêng. Tình trạng “nợ bằng”, trốn tránh việc học tập lý luận, học chỉ để hoàn thiện bằng cấp; thiếu nghiêm túc trong học tập và thi cử; lười suy nghĩ, nghiên cứu và vận dụng kiến thức đã học; thiếu quan tâm, cập nhật thường xuyên các nghị quyết của Đảng, hiểu mơ hồ về nội dung các nghị quyết; lý luận xa rời thực tiễn… đang là căn bệnh nguy hiểm trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Năm 2017, nhằm chuẩn hóa tiêu chuẩn về lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của tỉnh, qua rà soát có gần 300 trường hợp cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh và cấp huyện hiện đang nợ bằng trung cấp lý luận chính trị – hành chính. Trường chính trị tỉnh đã phải mở bổ sung 04 lớp trung cấp lý luận chính trị – hành chính để đáp ứng nhu cầu học tập, bảo đảm tiêu chuẩn bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cho nhóm đối tượng này.
Nguyên nhân của bệnh lười học lý luận chính trị
Bệnh lười học lý luận chính trị bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó chủ yếu là từ chính cá nhân người học, như:
– Người học không xác định được mục đích đúng đắn của việc học tập lý luận chính trị, học không vì mục đích tự thân mà vì lý do thăng tiến; học để lấy bằng cấp, để đáp ứng tiêu chuẩn được đề bạt, bổ nhiệm lên những vị trí cao hơn.
– Trong thời đại công nghệ số, truyền thông, in-tơ-nét phát triển nhanh, một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trẻ ngại đọc, ngại cầm những cuốn sách, tập giáo trình, nhất là giáo trình lý luận chính trị thường trừu tượng, khô khan. Họ thích học, thi, viết luận văn theo kiểu “ăn xổi”, “mì ăn liền”…
– Với nhiều học viên, trong thời gian đi học lý luận chính trị còn chịu sức ép bởi vấn đề tuổi tác, công việc, cuộc sống gia đình, không thể toàn tâm, toàn ý cho việc học. Bởi thế, niềm say mê, hứng thú nghiên cứu lý luận chính trị cũng giảm sút.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan từ phía người học, một nguyên nhân quan trọng khác là do những hạn chế trong công tác giáo dục lý luận. Đúng như Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26-5-2014, của Bộ Chính trị, về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đã chỉ ra: Việc mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với nâng cao chất lượng. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi mới, bổ sung, cập nhật, còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách lãnh đạo, quản lý. Phương pháp giảng dạy, học tập chậm được đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học viên… Quản lý đào tạo còn có mặt yếu kém, nhất là quản lý tự học của học viên. Chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo còn có mặt hạn chế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng chỉ rõ: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hậu quả gây ra”.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị
Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, khắc phục căn bệnh lười học lý luận chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay, đòi hỏi phải có những giải pháp kiên quyết và đồng bộ, cả từ phía người học và từ công tác giáo dục lý luận chính trị. Trong đó, tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, phải xác định đúng vai trò của công tác giáo dục lý luận chính trị
Hiện nay, nhận thức của không ít cán bộ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị về giáo dục lý luận chính trị chưa đúng nên nhiều cơ quan, đơn vị không cử cán bộ đi học lý luận chính trị; khi quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ chưa đề cao tiêu chí về trình độ lý luận chính trị, dẫn đến tình trạng “cho nợ bằng”, bổ nhiệm trước, cử đi học lý luận chính trị sau. Bản thân cán bộ, đảng viên cũng ngại học lý luận chính trị nên chỉ khi nào bắt buộc mới đi học để được quy hoạch, bổ nhiệm, để “trả nợ”.
Xác định đúng vai trò, mục đích của việc học tập lý luận chính trị đòi hỏi phải tập trung vào mấy việc sau:
Đối với Đảng, Nhà nước: Xác định rõ vai trò của học tập lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, trong quy định pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần có chính sách đầu tư hợp lý cho giáo dục lý luận chính trị. Hiện nay, các trường chính trị cấp tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện là lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục lý luận chính trị. Với mô hình đơn vị sự nghiệp có thu nhưng lại bị kiểm soát chặt chẽ về việc liên kết, mở rộng loại hình đào tạo, nhiều trường và đa số các trung tâm bồi dưỡng chính trị chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên cơ sở vật chất nghèo nàn, đời sống cán bộ, giảng viên còn nhiều khó khăn. Điều đó cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị tại các địa phương.
Đối với các cơ quan, đơn vị quản lý cán bộ: Coi trọng đúng mức việc học tập lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên. Trong quy hoạch, bổ nhiệm phải quy định rõ tiêu chuẩn về lý luận chính trị, không bổ nhiệm cán bộ khi chưa đủ tiêu chuẩn về lý luận chính trị, kiên quyết không để tình trạng “nợ bằng”. Cần coi việc học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong việc bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, chứ không chỉ phục vụ cho việc quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ. Khi cán bộ đã được cử đi học lý luận chính trị, cần phối hợp với đơn vị đào tạo để quản lý cán bộ, đồng thời coi trọng kết quả, ý thức học tập và lấy đó là một tiêu chí đánh giá cán bộ.
Đối với các học viện, trường chính trị và đơn vị đào tạo: Xác định đúng vai trò cơ quan đào tạo cán bộ của Đảng; chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên sâu về lý luận và am hiểu thực tiễn, có kỹ năng sư phạm tốt; không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác quản lý học viên, tránh tình trạng lỏng lẻo về kỷ luật và không để tình trạng học viên học theo kiểu “đánh trống ghi tên” mà vẫn được thi, được lấy bằng.
Đối với bản thân cán bộ, đảng viên: Xác định đúng động cơ và mục đích của học tập lý luận chính trị, coi học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ thường xuyên của người cán bộ, đảng viên. Có thái độ học tập nghiêm túc, cầu thị; phát huy tính sáng tạo, chủ động trong học tập; tích cực mang kiến thức lý luận vận dụng vào thực tiễn.
Hai là, đổi mới nội dung giáo dục lý luận chính trị theo hướng lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ nhu cầu công tác của người học
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Đánh giá về những hạn chế của công tác giáo dục lý luận, Người nêu rõ: “Dạy chính trị thì mênh mông mà không thiết thực, học rồi không dùng được,… lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau”(1). Trong phần cuối của tác phẩm, khi nói về việc chữa chứng bệnh ba hoa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phê phán bệnh “nói mênh mông”: “Nói mênh mông trời đất. Nói gì cũng có. Nhưng chỉ chừa một điều không nói đến là những việc thiết thực cho địa phương đó, những việc mà dân chúng ở đó cần biết, cần hiểu, cần làm, thì không nói đến”(2).
Đây cũng là hạn chế rất lớn trong giáo dục lý luận hiện nay. Nội dung chương trình cũng như các giáo trình giáo dục lý luận chính trị thường nặng về lý luận và những kiến thức tổng quát, vĩ mô; phần nói về tình hình địa phương, các kỹ năng giải quyết công việc thực tế thường chiếm dung lượng nhỏ, nội dung sơ sài, thậm chí cách giải quyết vấn đề còn giáo điều, cứng nhắc, không phù hợp với thực tiễn. Thêm vào đó, giảng viên vì hạn chế về kiến thức thực tiễn nên cũng chỉ giảng sâu phần lý luận (giảng cái mình có) mà không đi sâu phần áp dụng thực tiễn (cái học viên cần).
Để khắc phục hạn chế trong giáo dục lý luận chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Học cốt để mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích. Vì vậy huấn luyện phải thiết thực, sao cho những người đến học, học rồi, về địa phương họ có thể thực hành ngay”(3).
Trên cơ sở quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh như đã nêu và xuất phát từ thực tiễn hiện nay, công tác giáo dục lý luận chính trị cần đổi mới về nội dung theo hướng gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với trình độ và nhu cầu của người học. Cụ thể:
– Trong xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cần tăng cường phần nội dung về tình hình, nhiệm vụ cụ thể của ngành, địa phương; tăng phần kiến thức về kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tế trong các lĩnh vực công tác; giảm những nội dung lý luận chung, trừu tượng, trùng lặp trong nhiều chương trình đào tạo.
– Chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phải thiết kế phù hợp với đặc điểm, vị trí công tác, trình độ người học để học viên học xong rồi có thể hiểu và vận dụng được ngay. Tránh tình trạng người học ở trình độ thấp mà giáo trình lại có nội dung quá cao siêu, khó hiểu, hoặc người học công tác ở lĩnh vực này nhưng nội dung học lại đề cập đến lĩnh vực khác. Để khắc phục vấn đề này, giáo trình chung trên toàn quốc nên thiết kế theo khung nội dung hướng đến các vấn đề lý luận và kỹ năng cơ bản; phần các kiến thức, kỹ năng cụ thể theo từng ngành, từng địa phương, từng đối tượng nên giao cho các trường cấp tỉnh xây dựng. Như vậy, nội dung chương trình sẽ sát thực và phù hợp hơn.
Bốn là, đa dạng hóa các phương thức giáo dục lý luận chính trị, nhất là phương thức kết hợp giữa học ở trường, lớp với quá trình tự học
Đối với học tập lý luận chính trị, việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng là hình thức cơ bản. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, các lớp giáo dục lý luận chính trị phải được tổ chức thường xuyên; chương trình, giáo trình phải có tính hệ thống và theo từng mức độ từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao quá trình tự học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu: “Ở các cơ quan, mỗi ngày ít nhất phải học tập một tiếng đồng hồ… Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc. Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác khác mà định”(4).
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 309 (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tr. 343 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tr. 313
ThS. Đỗ Thị Phương – Trường Chính trị tỉnh Hải Dương Tạp chí Cộng sản
Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Âm Nhạc
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC NINHTRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ KINH BẮC
BÁO CÁOBIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN ÂM NHẠC“MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH THCS TRONG DẠY MÔN ÂM NHẠC”
Họ và tên: LÊ THỊ LỆ THỦY Môn giảng dạy: Âm nhạc Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Kinh Bắc – Thành phố Bắc Ninh
KINH BẮC, THÁNG 10 NĂM 2020
PHẦN I: MỞ ĐẦU3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ3
1. Thực trạng công tác dạy và học môn Âm nhạc3
b, Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:4
2. Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Âm nhạc 4
a) Biện pháp 1: Gây hứng thú cho HS ngay từ phần mở đầu bài học5
b) Biện pháp 2: Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh6
c) Biện pháp 3: HS phát biểu cảm nhận về bài hát 6
d) Biện pháp 4: Hướng dẫn HS học hát kết hợp biểu diễn 8
e) Biện pháp 5: Sử dụng phương tiện dạy học9
g) Biện pháp 6: Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của HS trong giờ học âm nhạc9
h) Biện pháp 7: Chơi trò chơi 10
3. Thực nghiệm sư phạm11
a). Mô tả cách thực hiện:11
b) Kết quả đạt được 11
c) Điều chỉnh, bổ sung sau thực nghiệm12
4. Kết luận12
5. Kiến nghị, đề xuất12
PHẦN III: MINH CHỨNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP13
PHẦN IV: CAM KẾT 14
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ1. Thực trạng công tác dạy và học môn Âm nhạca, Ưu điểm:– Âm nhạc là một môn học độc lập trong chương trình Trung học cơ sở (THCS). Dạy và học nghiêm túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học;– Nhà trường và Ban giám hiệu luôn quan tâm thường xuyên, trang bị đồ dùng, thiết bị giảng dạy, phù hợp với đặc trưng của bộ môn;– Giáo viên(GV) luôn có ý thức tự học hỏi để nắm chắc về chuyên môn, tích
Báo Cáo Tham Luận Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Lớp Ghép Năm Học 2014
PHÒNG GD&ĐTVĂN QUAN
TRƯỜNG T IỂU H ỌC NÀ LỐC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
S ố : 55/BC-THNL
Nà Lốc, ngày 12 tháng 01 năm 20 15
BÁO CÁO THAM LUẬN
Giải pháp nâng cao chất lượng lớp ghép năm học 2014-2015
Lớp ghép và tổ chức dạy học lớp ghép là một thực tế khách quan trong giáo dục tiểu học ở những địa bàn khó khăn. Tổ chức dạy lớp ghép là đòi hỏi cấp thiết để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục từng bước nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn.
Do địa bàn xa xôi, hẻo lánh đi lại khó khăn dân cư không tập trung, dạy học lớp ghép ở trường Tiểu học Nà Lốc đã được hình thành từ nhiều năm trước góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục cho con em trên địa bàn thôn Bản Mù cũng như mục tiêu phổ cập và duy trì PCTHĐĐT cho xã Tú Xuyên.
Thực hiện Công văn số 183/PGD& ĐT ngày 04 tháng 10 năm 2010 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Văn Quan về việc tổ chức Hội thảo ” Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông năm học 2010-2011 và giai đoạn 2010- 2015″, Trường Tiểu học Nà Lốc báo cáo tham luận ” Giải pháp nâng cao chất lượng lớp ghép năm học 2010-2011 và giai đoạn 2010-201 5 ” như sau:
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CHUNG
1. Kết quả, chất lượng giáo dục 3 năm gần đây:
1.1. Xếp loại học lực Môn Toán và Tiêng Việt
1.2. Chất lượng giáo dục
Ưu điểm: BGH đã triển khai việc thực hiện chương dạy lớp ghép đúng thời gian , việc thực hiện tổ chức phù hợp với đối tượng HS có đủ số lượng HS ghép 2 trình độ trên 1 lớp .Về phía Gv đứng lớp có trình độ đạt chuẩn và có năng lực dạy lớp ghép .Tài liệu đầy đủ GV cho hs .
– Hạn chế.BGH do công việc chuyên môn còn nhiều chồng chéo nên đôi lúc chưa sát sao được thường xuyên ,việc kiểm tra đánh giá dự giờ của GV còn ít .(do điểm trường lẻ quá xa ,đường đi lại khó khăn )
Phía GV việc phối hợp giảng dạy giữa các hoạt động trong lớp đôi lúc chưa linh hoạt ,sự sáng tạo trong giảng dạy và sử lý các tình huống trên lớp còn nhiều hạn chế .
* Khi tổ chức dạy học lớp ghép:
1,-Thuận lợi : – Cơ sở vật chất : Có đủ phòng học , đủ bàn ghế cho học sinh ngồi học lớp học sạch sẽ khang trang .Có đầy đủ tài liệu sách giáo khoa cho Gv và hs
2.Khó khăn : – Về phía Gv: Do giảng dạy một lớp hai trình độ GV chuẩn bị cho công tác giảng dạy công việc soạn giảng rất nhiều thời gian ngoài lên lịch báo giảng sắp xếp từng tết dạy theo lịch / tuần,chuẩn bị đồ dùng .GV mất quá nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị .Ngoài chuẩn bị tiết dạy theo chương trình hiện hành .Để tổ chức cho một tiết dạy theo mô hình VNEN GV rất khó khăn trong việc soạn một tiết học chương trình hiện hành sang mô hình tiết dạy VNEN vì SGK hiện hành không thể hiện cụ thể từng lô gô như chương trình VNEN và cách tổ chức tiết học còn nhiều lúng túng
Về phía học sinh : HS vùng khó khăn chưa ý thức tự học ,để tìm tòi và chiếm lính kiến thức mới .GV còn phải dẫn dắt quá nhiều
* Giải pháp: Để tổ chức dạy học lớp ghép co hiệu quả BGH và tổ khối chuyên môn đã tạo điều kiện giúp đỡ lớp học ghép về cơ sở vật chất cho lớp học ,đặc biệt đối với Gv ,tổ khối thường xuyên thăm lớp dư giờ rút kinh ngiệm cho GV,tổ chuyên môn đã xây dựng kế hoạch và tổ chức hội thảo chuyên đề về mô hình dạy học mới ở tổ ,tổ chức dạy học VNEN cho các GV dự giờ đóng góp ý kiến ,đưa ra hướng khắc phục ,thống nhất ý kiến về phương pháp cũng như cách tổ chức dạy học lớp ghép.GV dự kiến đưa ra những bài học khó để đưa ra tổ thống nhất cahs lên lớp, tổ thống nhất và giải đáp những thắc mắc cho gv.Tổ chức cho gv tham gia các lớp tập huấn đặc biệt là mô hình dạy TV1-CGD và dạy lớp ghép của phòng tổ chức .Dự kiến phân công các Gv có năng lực dạy lớp ghép và tiếp cận chương trình TV1-CGD vào năm học tới.
2. Cách làm hay
IV.Kết quả đạt được , Bài học kinh nghiệm
1. Bài học kinh nghiệm từ quá trìn triển khai dạy học lớp ghép.
– lớp ghép là một loại hình đào tạo đặc thù thường được tổ chức ở những vùng khó khăn với số lượng học sinh không đủ đẻ mở lớp đơn, số lượng học sinh vừa ít vừa thiếu phòng học, đó giáo viên giảng dạy lớp ghép phải có kinh nghiệm nhiệt tình, nỗ lực rất nhiều trong công tác giảng dạy đặt biệt là tâm huyết với nghề, đồng thời gióa viên dạy học lớp ghép phải có kỹ năng cần thiết đẻ dạy học lớp ghép giáo viên biết . Ghép những bài học kiến thức mơ í ở trình độ này với những bài ôn tập , luyện tập tr ình độ kia phân bố thời gian hợp lý ở hai trình độ.
– Giáo viên sử dụng phiếu học để phát phát huy khả năng độc của học sinh hướng các em giúp đỡ lẫn nhau giữa trình độ hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành
Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!