Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
CN. Lê Thị Thảo Ngọc
Viên chức Khoa Nhà nước và pháp luật
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới. Người đã sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước giành độc lập, tự do. Sinh thời, Người rất coi trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Người gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra.
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ khi thành lập Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, có vai trò trực tiếp chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức, thiết lập chế độ các cơ quan lãnh đạo, đồng thời xác lập nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Người khẳng định, Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”[1].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung”[2]. Trong tổ chức và hoạt động cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, bởi lẽ “một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”[3].
Tuy nhiên, khi đề cao quá mức tính dân chủ, tập thể trong lãnh đạo dễ dẫn đến tình trạng mất tập trung, loãng ý kiến; mỗi người đều đưa ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình không lắng nghe ý kiến của tập thể, đặt nặng lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể, hoặc những ý kiến đưa ra không theo đúng định hướng hoạt động của tập thể. Chính vì vậy cần phải thực hiện tập trung, phải có người phụ trách. Người phụ trách phải là người có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cá nhân phụ trách nhằm tăng cường và phát huy trách nhiệm cá nhân nhưng phải đặt trong mối quan hệ với tập thể.
2. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng. Qua các kỳ Đại hội, căn cứ vào tình hình thực tiễn, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Cụ thể hơn, tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (tuy cấp ủy cấp trên có quyền chỉ định nhưng không được quá 1/3 số lượng do Đại hội bầu).
Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội Đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”.
3. Đề xuất giải pháp đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Để đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện hiệu quả, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của đội ngũ đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ. Bởi lẽ khi và chỉ khi hiểu đúng, hiểu đủ về nội hàm của nguyên tắc thì mới có thể thực hiện đúng, tránh được tình trạng không hiểu hoặc hiểu “nửa vời” dẫn đến những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ như dân chủ hình thức, trong cuộc họp không đưa ra ý kiến nhưng ra ngoài lại bàn tán không đồng tình; hay dân chủ cực đoan, quá dựa dẫm vào dân chủ mà thiếu tính tập trung, không khai thác được sức mạnh của tập thể,…
Thứ hai, tăng cường hiện thực hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng thông qua các chủ trương, đường lối, nghị quyết, quyết định, chính sách, chương trình hành động,… Đưa tập trung dân chủ không còn là “những câu chữ trên giấy” hay “những lời phát biểu lý thuyết” mà thực sự trở thành nguyên tắc cốt lõi, xương sống trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta trên thực tế.
Thứ ba, bản thân mỗi đảng viên cần phát huy hơn nữa tính gương mẫu, tiên phong, tự giác, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động. Kiên quyết phản đối các hình thức dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan; nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau.
Thứ tư, các cấp ủy đảng tăng cường thực hiện công tác kiểm tra giám sát, nghiêm túc phê bình hoặc có các biện pháp xử lý kỷ luật hợp lý các đảng viên không tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ hoặc lợi dụng tập trung dân chủ vì mục đích không chính đáng.
Mỗi đảng viên là tế bào cấu thành nên tổ chức Đảng. Chính vì vậy, để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng Đảng ta luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; “thực sự là đạo đức, là văn minh”, mỗi đảng viên phải thật sự hiểu đúng bản chất và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn trong công tác tổ chức và hoạt động./.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.553.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.505.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.504.
Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Trong Tình Hình Mới
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng phát biểu chỉ đạo Hội thảo. (Ảnh: HMT)
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng phát biểu chỉ đạo Hội thảo. (Ảnh: HMT)
Tham dự Hội thảo có Đại tướng Lê Hồng Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư, nguyên Bộ trưởng Bộ Công an; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Công an; các nhà khoa học trong và ngoài lực lượng Công an nhân dân…
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Đại tướng Tô Lâm nhấn mạnh, những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng với những âm mưu ngày càng thâm độc, những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Do đó, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Hội thảo khoa học cấp quốc gia là dịp để trao đổi, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, từ đó nâng cao hơn nữa nhận thức về chủ trương, quan điểm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố và tăng cường niềm tin, giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng và với lực lượng Công an; xác định rõ nội dung, yêu cầu đặt ra đối với lực lượng Công an và các ngành hữu quan trong việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW; kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới…
Phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng nhấn mạnh, ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng đến nay, ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, nhất là những bước ngoặt, thời điểm khó khăn của cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch luôn có tầm quan trọng hàng đầu, gắn liền với nhiệm vụ trọng yếu bảo vệ con đường cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, bảo vệ đất nước và nhân dân.
Thường trực Ban Bí thư nêu rõ, mục đích của Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII là nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố và tăng cường niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội và niềm tin của nhân dân với Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới. Sau hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW, với sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, sự phối hợp trách nhiệm, đồng bộ, hệ thống của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, sự vào cuộc quyết liệt, bền bỉ của các lực lượng, đơn vị chức năng, các cơ quan báo chí, truyền thông…, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt những kết quả bước đầu tích cực, góp phần quan trọng vào bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng môi trường thông tin dân chủ, kỷ cương, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Đồng chí Trần Quốc Vượng lưu ý, kết quả bước đầu đạt được là rất quan trọng, song chúng ta không được chủ quan, thỏa mãn, cần thẳng thắn nhìn nhận, phân tích sâu những khó khăn, bất cập, thách thức mà thực tiễn đã và đang đặt ra để có chủ trương, giải pháp phù hợp trong thời gian tới.
“Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chính sự hiểu biết sâu sắc, nắm vững và vận dụng đúng đắn, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những sáng tạo lý luận của Đảng ta về con đường phát triển đất nước phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và thời đại ngày nay; những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng là những cơ sở, những luận cứ cơ bản, vững chắc để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phê phán, phản bác, ngăn chặn có hiệu quả những nhận thức lệch lạc, những quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, chúng ta cần thường xuyên tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kịp thời đề xuất bước đi, giải pháp phù hợp với tình hình mới, bảo đảm tính chủ động, kiên quyết, giành thắng lợi trên các mặt trận…”, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng nhấn mạnh.
90 báo cáo khoa học của các đồng chí lãnh đạo, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài lực lượng Công an nhân dân cùng nhiều ý kiến phát biểu, trao đổi tại Hội thảo đã đánh giá một cách toàn diện, cung cấp hàm lượng thông tin khoa học cao, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sẽ không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, nhất là hoạt động tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiếp pháp, pháp luật của Nhà nước trên không gian mạng và các phương tiện truyền thông khác. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch càng trở nên quan trọng hơn. Theo đó, trên cơ sở các báo cáo khoa học và tham luận tại Hội thảo, trong thời tới, chúng ta cần thống nhất một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia đấu tranh. Trong đó, cần tiếp tục phát huy vai trò tham mưu, điều phối, hướng dẫn của Thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp trong tổ chức thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII, gắn với tổ chức thực hiện Kết luận số 53-KL/TW ngày 4/6/2019 của Ban Bí thư.
Hai là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, trong đó đồi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của ngành Tuyên giáo và lực lượng Công an nhân dân. Lực lượng Công an xác định tiên phong đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên cả 3 phương diện: nhận diện, tuyên truyền và trực tiếp đấu tranh, xử lý.
Ba là, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả, không khoan nhượng; nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Bốn là, chủ động nhận diện, làm rõ các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay; xác định âm mưu, thủ đoạn, hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch. Sáng tạo, nhạy bén trong việc nắm, dự báo sát, đúng tình hình trong nước, khu vực và thế giới có tác động trực tiếp tới Việt Nam; tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên; phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch. Từ đó, chúng ta chủ động cung cấp thông tin chính thống, góp phần định hướng dư luận.
Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng Internet, mạng xã hội. Trong đó, chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý và các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của Internet, mạng xã hội trong tình hình mới. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ, ngăn chặn, xử lý đúng pháp luật đối với nhà mạng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trang thông tin điện tử… và các cá nhân lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát tán thông tin giả mạo, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá trên Internet, mạng xã hội.
Sáu là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đầu tư trang bị, phương tiện, công nghệ đấu tranh trên không gian mạng cho các lực lượng chuyên trách./.
Xây Dựng Đảng Trong Sạch Vững Mạnh Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Quang và Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hoàng Công Thủy tặng Bằng khen và hoa cho 18 cá nhân, 18 tập thể có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2016-2019.
PTĐT – Chủ tịch Hồ Chí Minh- lãnh tụ thiên tài của dân tộc, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức, rèn luyện Đảng trong quá trình cách mạng giành độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Người đã dành sự quan tâm lớn nhất và sâu sắc nhất cho việc xây dựng, củng cố Đảng, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Bằng sự nhạy cảm về chính trị và tấm lòng luôn đau đáu với mục tiêu giải phóng dân tộc gắn liền với xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, Người luôn chú ý đến từng vấn đề nảy sinh trong Đảng, chỉ ra những thành công to lớn, những sai lầm, hạn chế của Đảng cũng như dự báo kịp thời những căn bệnh có thể ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta và chỉ ra tính chất, vai trò của Đảng cũng như trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân, với Tổ quốc. Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Người cũng yêu cầu chỉnh đốn đảng là công việc thường xuyên. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm nhiều vấn đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Cần tập trung vào những vấn đề cơ bản:
Một là, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”. Thường xuyên nắm vững tinh thần của V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Về vai trò của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với Đảng ta và cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều yếu tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Hai là, Đảng được xây dựng theo những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ và tập trung là hai mặt của một nguyên tắc, có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, dưới sự chỉ đạo của tập trung, không phải là phân tán, vô tổ chức. Tập trung trên cơ sở dân chủ, không phải tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Tập trung là phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Dân chủ là đảng viên được quyền tự do tư tưởng, bày tỏ ý kiến của mình để tìm ra chân lý, khi đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội.
Ba là, phê bình và tự phê bình nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục và sửa chữa khuyết điểm trong cán bộ, đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của phê bình và tự phê bình là vạch rõ ưu điểm và khuyết điểm, cốt làm cho phần tốt trong mỗi con người, mỗi tổ chức nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Người cho rằng: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Trong phê bình và tự phê bình, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải ráo riết cả với chính mình và với người khác, không thể chỉ biết phê bình người khác mà quên đi khuyết điểm, trách nhiệm của chính mình; phải xuất phát từ tình đồng chí, từ trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng chứ không phải từ lợi ích hay sự hẹp hòi cá nhân. Hồ Chí Minh quan niệm: “Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”.
Bốn là, củng cố mối quan hệ Đảng với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa dựa trên nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin, vừa có bước phát triển mới xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể Việt nam. Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam, ngoài lợi ích của dân tộc, Tổ quốc, Đảng không có lợi ích nào khác. Đảng cầm quyền nhưng nhân dân làm chủ, dân là gốc. Đảng viên, cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải quan tâm dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ và thực hành dân vận.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng ta nhằm bảo đảm cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Từ khi ra đời đến nay đã 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tùy theo tình hình và nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ mà Đảng xác định những vấn đề cần tập trung cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ Đại hội VIII đến nay, Đảng đã thường xuyên quan tâm coi trọng thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới và mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, nhằm thu được những thành tựu to lớn hơn nữa, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đặc biệt, tích cực đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng và trong xã hội với nhiều phong trào rộng lớn, có sức lan tỏa và hiệu ứng tích cực, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Học Tập Và Làm Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trong Thực Hiện Mô Hình “Dân Vận Khéo”, “Dân Vận Chính Quyền”
Bài báo “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự Thật ngày 15-10-1949 hàm chứa nhiều nội dung thiết thực, những chỉ dẫn quý báu về công tác dân vận. Trong tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nhiệm vụ của công tác dân vận là: “… vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Để vận động nhân dân, theo Người, phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng; muốn triển khai công việc nào cũng cần phải “bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”. Người còn căn dặn: “Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”. Về lực lượng phụ trách công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân… đều phải phụ trách dân vận”. Người đặt ra yêu cầu rất cao đối với cán bộ làm công tác dân vận, đội ngũ này phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. 12 từ này vừa là tiêu chuẩn của cán bộ làm công tác dân vận vừa là phương pháp để thực hiện có hiệu quả công tác dân vận.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, thời gian qua, nhiều mô hình dân vận hiệu quả đã xuất hiện ở các địa phương, đơn vị, đặc biệt là các mô hình trong phong trào”Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền.
Phát huy sức mạnh của Nhân dân từ “Dân vận khéo”Trong những năm qua, mô hình “Dân vận khéo” đã được các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị đồng tình hưởng ứng, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo gắn với việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đến nay, mô hình này ngày càng phát triển sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cả nước.
Trên lĩnh vực kinh tế, nổi bật là các mô hình “Dân vận khéo” trong sản xuất, kinh doanh, nhất là ở địa bàn nông thôn, như hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; xây dựng trang trại, phát triển các làng nghề, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… Các mô hình này thu hút nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hình thành chuỗi liên kết giá trị trong sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường, qua đó giúp nhiều hộ giảm nghèo, vươn lên khá giả, làm giàu chính đáng. Các mô hình “Dân vận khéo” trong xây dựng nông thôn mới cũng phát triển mạnh mẽ, điển hình như các phong trào “Khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu”, “Sạch làng, đẹp ruộng”, “Đường có hoa, nhà có sổ”, “Thắp sáng làng quê”, “Quỹ tiết kiệm xây dựng nông thôn mới”. Các mô hình này đã giúp trên 790.000 hộ nghèo về vật tư, ngày công, tiêu thụ sản phẩm,… trị giá trên 15.000 tỷ đồng, tạo việc làm tại chỗ cho hơn 11 triệu lao động, giúp hơn 200.000 hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên khá giả. Hội Cựu Chiến binh có các mô hình: tổ hợp tác, quỹ “Nghĩa tình đồng đội”, quỹ “Xóa nghèo cho hội viên”,… giúp các cấp hội trong cả nước giảm được 14.840 hộ nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 4,23%, tăng tỷ lệ hộ khá và giàu lên 56,2% (tính đến hết năm 2017). Mô hình “Dân vận khéo” của các cấp bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng phát triển mạnh mẽ với trên 14.000 mô hình thanh niên phát triển kinh tế giỏi, 356 hợp tác xã thanh niên, gần 1.200 tổ hợp tác thanh niên phát triển kinh tế. Các mô hình “Dân vận khéo” của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ giúp khoảng 100.000 hộ thoát nghèo mỗi năm. Các mô hình “Dân vận khéo” trong đoàn viên công đoàn giúp trên 20.000 gia đình đoàn viên, người lao động nghèo được xây nhà mới, sửa chữa nhà ở trị giá trên 500 tỷ đồng…
Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, điển hình là các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ngày Vì người nghèo”, “Lao động sáng tạo”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Xanh – Sạch – Đẹp”, “Bảo đảm an toàn vệ sinh lao động”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”… Bên cạnh đó còn có nhiều mô hình tiêu biểu khác như: “Tổ liên gia”, “Tổ tự quản”, “Tổ hoà giải”, “Khu dân cư không có tội phạm, tệ nạn xã hội”, “Gia đình, dòng họ không có người phạm tội, mắc tệ nạn xã hội”, “Tổ an ninh nhân dân”, Đội dân phòng, “Phúc lợi cho đoàn viên công đoàn”, “Tết sum vầy”, “Mái ấm Công đoàn”, “Thanh niên tình nguyện bảo vệ môi trường”, “Tổ phụ nữ thu gom, phân loại rác thải”… Trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo có các mô hình “Dân vận khéo” tiêu biểu như: mô hình “Xóa 1 hộ đói, giảm 1 hộ nghèo” ở tỉnh Đắk Lắk; mô hình chuyển đổi từ cây ngô, cây sắn cho thu nhập thấp sang trồng cây chè ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; mô hình “Hũ gạo vì người nghèo” của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam…
Trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng, có nhiều mô hình hay như: “Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận”, “Tiếng kẻng phòng gian”, “Điểm sáng vùng biên”, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Vì Hoàng Sa, Trường Sa”, “Tấm lưới nghĩa tình”, “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Xây dựng khu, cụm công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp an toàn về an ninh trật tự”, “Dòng họ tự quản về an ninh trật tự”, “Tổ an ninh tự quản ngõ xóm”, “Xây dựng xã không có tội phạm và tệ nạn ma túy”, “Mô hình 3+1” (3 phụ nữ giúp đỡ 1 phụ nữ đã từng vi phạm pháp luật),… Với nhiều cách làm sáng tạo, các mô hình này đã góp phần quan trọng trong việc từng bước đẩy lùi tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh.
Thực tiễn các mô hình “Dân vận khéo” thời gian qua cho thấy, ở nhiều nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị làm công tác dân vận, ngày càng hướng về cơ sở, quan tâm lắng nghe, chăm lo, giải quyết có hiệu quả hơn những nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người dân. Các mô hình “Dân vận khéo” cũng góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu.
Để nâng cao hiệu quả công tác “Dân vận chính quyền”, nhiều đơn vị, địa phương đã tăng cường đầu tư hiện đại hóa nền hành chính. Đến cuối năm 2018, có 18 bộ, ngành và 54 địa phương đã xây dựng trung tâm dữ liệu; 100% số sở, cơ quan thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, quận, thành phố sử dụng phần mềm quản lý văn bản và điều hành công việc. Với sự vào cuộc mạnh mẽ của các bộ, ngành, địa phương, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở thành thị và nông thôn ngày càng được cải thiện rõ rệt. Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2018 vượt mục tiêu được Quốc hội và Chính phủ giao. Đến cuối năm 2018, cả nước có 61 đơn vị cấp huyện (11,2%) và 3.838 xã (43,02%) được công nhân đạt chuẩn nông thôn mới.
Việc chú trọng và tăng cường công tác dân vận chính quyền đã tạo ra những chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về trách nhiệm của mình đối với công tác dân vận. Trước đây, nhiều cán bộ, đảng viên còn có quan niệm công tác dân vận thuộc trách nhiệm của Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Nhưng hiện nay, ở nhiều nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền đã thật sự quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu chính đáng của người dân để phục vụ; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính quyền có thái độ phục vụ người dân ngày càng tốt hơn, có trách nhiệm hơn trong thực thi công vụ.
Đưa “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền” đi vào chiều sâu, thiết thực
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng các mô hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền” vẫn còn một số hạn chế, bất cập.
Hiện tại, mô hình “Dân vận khéo” chủ yếu vẫn tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn, chưa triển khai mạnh ở nhiều lĩnh vực khác. Điển hình “Dân vận khéo” trong các cơ quan nhà nước, trong doanh nghiệp, hợp tác xã còn ít; ở nhiều nơi việc nhân rộng các mô hình, điển hình chưa đạt yêu cầu như mong muốn. Một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, chưa nhận thức đầy đủ, chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; công tác phối, kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể ở một số nơi trong thực hiện công tác dân vận chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, còn hình thức…
Công tác “Dân vận chính quyền” ở một số nơi chưa thường xuyên, kịp thời, hiệu quả thấp do một bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng cũng như chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân vận. Sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội cùng cấp chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; thậm chí vẫn còn tư tưởng xem nhẹ công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp. Công tác kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện ở một số đơn vị chưa thường xuyên; một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ chốt chưa gương mẫu, đi đầu trong thực hiện công tác dân vận…
Trong những năm tới, để mô hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền” ở nước ta thật sự hiệu quả, thiết thực, góp phần phát huy sức mạnh toàn dân thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác dân vận, đặc biệt là nhận thức về mô hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền”, nhằm tạo sự chuyển biến thực chất trong quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nâng cao hiệu quả công tác nắm, đánh giá, dự báo tình hình nhân dân, chủ động ứng phó, hóa giải kịp thời với những vấn đề phức tạp nảy sinh, giữ vững ổn định xã hội. Bên cạnh đó, tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng phong trào gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông đại chúng để tiếp tục thực hiện tốt và nhân rộng các mô hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền”.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, phát triển mô hình, điển hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền” ở những nơi khó khăn, phức tạp, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có tôn giáo. Trong công tác “Dân vận chính quyền” cần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần chú trọng định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng các mô hình, điển hình; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, định kỳ sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời và có giải pháp để nhân rộng các mô hình, điển hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền” có hiệu quả.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, nhất là trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác dân vận trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững gắn với thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo.
Thứ tư, tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả “Năm dân vận chính quyền” 2019, gắn với phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”. Trong đó chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường đạo đức công vụ, cải cách hành chính; cải thiện chỉ số hài lòng của người dân đối với chính quyền; xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả nội dung “Công tác dân vận trong tham gia giải quyết khiếu kiện phức tạp, đông người, kéo dài”.
Thứ năm, đổi mới nội dung và phương thức thực hiện mô hình “Dân vận khéo”, “Dân vận chính quyền”. Các cấp ủy, chính quyền nên sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền, ngoài tuyên truyền miệng nên chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là mạng in-tơ-nét (thông qua các trang mạng xã hội) để vận động người dân, cán bộ thực hiện tốt các mô hình này.
Thứ sáu, các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức tốt công tác tiếp dân; phát huy vai trò của người đứng đầu các cấp trong việc đối thoại với nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời những kiến nghị, bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Các địa phương, cơ quan chức năng tập trung giải quyết hiệu quả, dứt điểm đơn thư, khiếu nại tố cáo, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài, không để phát sinh “điểm nóng”. Đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn về công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, nhất là công tác nắm tình hình nhân dân ở những địa bàn dễ nảy sinh phức tạp./.
Tài liệu tham khảo1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 62. Trương Thị Mai (2019), Xây dựng mô hình “dân vận khéo” gắn với lợi ích người dân, bài học từ thực tiễn,Tạp chí Cộng sản, số 916.3. Vương Đình Huệ (2019), Xây dựng nông thôn mới năm 2019 – Giữ vững chất lượng, bức phá về đích, Tạp chí Cộng sản, số 917.4. Hà Ngọc Anh (2019), Những kết quả quan trọng qua thực hiện “Năm dân vận chính quyền” 2018, Tạp chí Dân vận, số 1+2.
Nguồn: Tạp chí Cộng sản
Bạn đang xem bài viết Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!