Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Hiện Quy Chế Dân Chủ Ở Cơ Sở Tại Nơi Làm Việc mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thứ ba, 19/01/2021
DÂN CHỦ TRONG DOANH NGHIỆP THỰC HIỆN THẬT- LỢI ÍCH THẬT
Nguyễn Quốc Khánh- Phó Trưởng ban CSPL Liên đoàn Lao động TP
Cuối năm là thời điểm các doanh nghiệp thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc theo quy định của Chính phủ thông qua hình thức tổ chức Hội nghị người lao động. Đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hoạt động này thể hiện sự tương tác, gắn kết và đồng thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động trong việc đồng lòng, hợp sức thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Quy chế dân chủ tại nơi làm việc của doanh nghiệp là những quy định về quyền, trách nhiệm của người sử dụng lao động, Công đoàn cơ sở, người lao động đối với những nội dung người lao động được biết, được tham gia ý kiến, được quyết định và được kiểm tra, giám sát tại doanh nghiệp. Việc thực hiện quy chế dân chủ tại nơi làm việc phải dựa trên các nguyên tắc: Thiện chí, hợp tác, trung thực, bình đẳng, công khai và minh bạch; tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Nghị định 149/2018/NĐ-CP, ngày 07/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết K3 Điều 63 Bộ Luật lao động năm 2012 về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc (có hiệu lực từ 01/01/2019) sau hơn 02 năm đi vào thực tiễn sẽ hết hiệu lực vào ngày 01/02/2021 do có Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động năm 2019 về điều kiện lao động và quan hệ lao động ra đời và thay thế. Nghị định này đã trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc. Tuy nhiên trong thực tế, bên cạnh một số doanh nghiệp đã chủ động, tích cực trong việc xây dựng Quy chế dân chủ phù hợp, sát thực với quy mô, đặc thù của doanh nghiệp và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc thì vẫn còn không ít doanh nghiệp còn coi nhẹ hoạt động nay, việc xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ còn mang nặng tính hình thức chỉ với mục đích duy nhất là để đối phó với cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Theo kết quả phân tích đánh giá các cuộc đình công, ngừng việc tập thể xẩy ra trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân chính là do doanh nghiệp không thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc, người lao động không được bày tỏ tâm tư nguyện vọng cũng như những kiến nghị, bức xúc của bản thân trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp, các quy định từ phía doanh nghiệp còn mang tính áp đặt không có sự thương lượng, thỏa thuận trước khi thực hiện. Việc xây dựng quy chế phải bảo đảm tuân thủ pháp luật, phù hợp với đặc thù doanh nghiệp, thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện. Ban Chấp hành CĐCS hoặc tập thể người lao động phải được thực hiện các quyền trong việc thực hiện dân chủ tại nơi làm việc như: – Tham gia nội dung tổ chức đối thoại tại nơi làm việc: Việc xây dựng nội dung đối thoại tại nơi làm việc cần dựa trên nguyên tắc bình đẳng, thiện chí và hợp tác giữa các bên, đồng thời bám sát quy định của pháp luật để đề xuất nội dung đối thoại đưa vào quy chế, cụ thể: + Đối thoại đột xuất: Là cuộc đối thoại được thực hiện theo yêu cầu của một trong các bên hoặc đại diện của các bên trong quan hệ lao động nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp thiết, ổn định tình hình sản xuất, kinh doanh, tránh xung đột dẫn đến tranh chấp lao động, đình công tại doanh nghiệp. Số lượng, thành phần, tiêu chuẩn tham gia đối thoại đột xuất thực hiện như đối thoại định kỳ nhưng quy trình và thủ tục cần nhanh, gọn. Đối thoại đột xuất cần tránh để bên yêu cầu đối thoại phải chờ đợi, tạo ra những bức xúc trong quá trình giải quyết. – Tham gia xây dựng nội dung tổ chức hội nghị người lao động + Hình thức tổ chức: Hội nghị người lao động tại doanh nghiệp được tổ chức theo hình thức hội nghị đại biểu hoặc hội nghị toàn thể. Đối với doanh nghiệp có từ 100 lao động trở xuống thì đề xuất lựa chọn hình thức hội nghị toàn thể. Đối với doanh nghiệp có từ trên 100 lao động trở lên hoặc có địa điểm làm việc ở nhiều nơi thì đề xuất tổ chức hội nghị đại biểu hoặc toàn thể do các bên thống nhất. Tùy đặc thù của từng doanh nghiệp, công đoàn cơ sở có thể thỏa thuận, thống nhất với người sử dụng lao động lựa chọn tổ chức hội nghị người lao động theo hình thức phù hợp. + Đại biểu tham dự: Đối với hội nghị toàn thể: Thành phần tham gia hội nghị là toàn bộ người lao động tại doanh nghiệp. Trường hợp người lao động không thể rời vị trí sản xuất thì công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động thỏa thuận về số lượng, thành phần tham gia. Đối với hội nghị đại biểu: Công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động thỏa thuận, thống nhất đại biểu dự hội nghị phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó: + Tổ chức, nội dung hội nghị: Hội nghị người lao động được tổ chức từ cấp tổ, đội, phòng, ban, phân xưởng, đơn vị trực thuộc (theo cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp). – Trách nhiệm chuẩn bị nội dung hội nghị: + Báo cáo của người sử dụng lao động: Tình hình sản xuất kinh doanh, phương hướng hoạt động của doanh nghiệp; tình hình giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; tình hình thực hiện các phong trào thi đua, khen thưởng, kỷ luật của doanh nghiệp; tình hình sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ xã hội từ thiện, BHXH, BHYT, BHTN, kinh phí công đoàn…(những nội dung người lao động được công khai và được biết). Ngoài các hình thức dân chủ nêu trên, người sử dụng lao động phối hợp với công đoàn cơ sở quy định thêm nội dung các hình thức dân chủ khác vào quy chế như: hình thức dân chủ thông qua hộp thư góp ý, thư ngỏ, hiến kế, diễn đàn, tài liệu, ấn phẩm, bản tin, trao đổi trực tiếp, tiếp người lao động tại doanh nghiệp…Việc xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các nội dung tham gia xây dựng Quy chế dân chủ tại nơi làm việc được nêu trên là điều kiện tiên quyết, quan trọng trong việc bảo đảm quyền dân chủ của người lao động, đồng thời góp phần giảm thiểu tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp./.
Thực Hiện Tốt Quy Chế Dân Chủ Cơ Sở
Phóng viên: Đồng chí có thể cho biết về những điểm nổi bật đối với hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở năm qua?
Phóng viên: Riêng kết quả thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn như thế nào, thưa đồng chí?
Phóng viên: QCDC trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, sự nghiệp công lập cũng như trong doanh nghiệp được thực hiện ra sao, thưa đồng chí?
Trong năm 2018, tỉnh tăng cường công tác rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, chủ động thực hiện việc rút ngắn thời gian xử lý các TTHC trong lĩnh vực đầu tư, đất đai… Đến nay, việc niêm yết công khai, đầy đủ 100%; việc tiếp nhận và giải quyết TTHC theo đúng quy trình, quy định; tổ chức bộ máy cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý; trình độ năng lực và tinh thần làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng cao. Tỉnh đã thành lập Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và hoạt động dần được cải tiến và đi vào nền nếp… Trong năm 2018, riêng về lĩnh vực này, Ban Chỉ đạo tỉnh còn tổ chức 2 đợt kiểm tra thực hiện QCDC ở cơ sở tại 14 cơ quan, đơn vị, địa phương.
Đối với các doanh nghiệp tiếp tục có sự quan tâm phối hợp với tổ chức công đoàn trong thực hiện QCDC, nên giải quyết kịp thời bức xúc nảy sinh trong quan hệ lao động, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, góp phần ổn định việc làm, thu nhập của người lao động. Các doanh nghiệp khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người lao động tham gia đóng góp ý kiến trước khi hội đồng quản trị, giám đốc doanh nghiệp quyết định.
Phóng viên: Hoạt động QCDC ở cơ sở sẽ tiếp tục được thực hiện như thế nào trong thời gian tới, thưa đồng chí?
Phóng viên: Xin chân thành cảm ơn đồng chí!
Sớm Mai/ chúng tôi
Nâng Cao Chất Lượng Thực Hiện Quy Chế Dân Chủ Ở Cơ Sở Ở Hà Nam
Đại diện Ban Tổ chức Huyện ủy Kim Bảng trả lời ý kiến của đại biểu tại hội nghị đối thoại giữa người đứng đầu huyện Kim Bảng với cán bộ, hội viên phụ nữ huyện
Một trong những nội dung quan trọng thể hiện sự cụ thể hóa và vận dụng, thực hiện tốt QCDC đó là phát huy vai trò của cấp ủy, người đứng đầu trong đối thoại trực tiếp với nhân dân. Trong những buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các huyện: Kim Bảng, Thanh Liêm, Duy Tiên, Bình Lục, các đồng chí bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện đã thể hiện rõ phong cách gần gũi, chân thành, cầu thị, cởi mở, chủ động khuyến khích đại biểu đại diện các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân trao đổi, đặt câu hỏi… qua đó nắm bắt chính xác, đầy đủ tình hình cơ sở.
Năm 2018, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Khang đã dự 2 hội nghị đối thoại trực tiếp với nhân dân xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm và đại biểu hội viên phụ nữ trong tỉnh. Cùng với đó, 5/6 bí thư, chủ tịch các huyện đối thoại trực tiếp với nhân dân, đoàn viên, hội viên các hội, đoàn thể.
Không chỉ ở cấp tỉnh, huyện, tại nhiều đơn vị cấp xã và một số ban, ngành, đoàn thể cũng rất chú trọng thực hiện đối thoại trực tiếp với nhân dân. Năm 2018, toàn tỉnh có 56/116 xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị bí thư, chủ tịch đối thoại với nhân dân.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng, thực hiện QCDC ở cơ sở theo Kết luận số 120 của Bộ Chính trị khóa XI, cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân.
Trước hết, các cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu địa phương, đơn vị quan tâm hơn tới việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về QCDC ở cơ sở; kịp thời kiện toàn ban chỉ đạo, xây dựng quy chế làm việc, triển khai thực hiện quy chế đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân.
Cùng với đó, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội quy, quy chế, quy ước phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn ở mỗi cấp, ngành, địa phương, đơn vị. Năm 2018, lãnh đạo các cơ quan hành chính nhà nước trong tỉnh cũng đã chú trọng tập trung đẩy mạnh cải cách TTHC, tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn thời gian chờ đợi, công sức, chi phí của tổ chức, cá nhân khi giao dịch, giải quyết công việc.
Đồng thời, tập trung giải quyết dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân ngay tại cơ sở. Từ đầu năm đến nay, các cấp, ngành đã tiếp 4.611 lượt người; tiếp nhận 107 vụ việc khiếu nại, tố cáo; đã giải quyết 97 vụ việc (đạt gần 91%); 100% sở, ngành thuộc UBND tỉnh đều đăng ký thực hiện tiếp nhận và trả kết quả tại Trung tâm Hành chính công tỉnh; các dịch vụ hành chính công đều đã triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4.
Hằng năm, ban chỉ đạo thực hiện QCDC các cấp đều có kế hoạch tổ chức kiểm tra việc thực hiện QCDC ở các lĩnh vực, tập trung vào một số lĩnh vực nhạy cảm, dễ nảy sinh tham nhũng tiêu cực như: quản lý đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản, giải quyết chế độ, chính sách xã hội… HĐND tỉnh cũng xây dựng kế hoạch, tập trung giám sát những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Đồng thời, tiếp tục cải tiến, đổi mới phương pháp tiếp xúc cử tri theo hướng ý kiến, kiến nghị của cử tri được trả lời, giải trình trực tiếp; với những ý kiến tập hợp trình HĐND tỉnh xem xét đều có thời hạn trả lời, giải quyết cụ thể, rõ ràng.
Việc chú trọng thực hiện nghiêm túc QCDC ở cơ sở của cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp trong tỉnh thời gian qua chính là yếu tố quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết và huy động các nguồn lực góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Đồng thời, củng cố mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Nguyễn Hằng/ chúng tôi
Thực Hiện Quy Chế Dân Chủ Ở Cơ Sở Trên Địa Bàn Hà Tĩnh, Thực Trạng Và Giải Pháp
HOÀNG TRUNG DŨNG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học
Hà Nội – 2013
1
HOÀNG TRUNG DŨNG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Thu Hƣơng
Hà Nội – 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” là công trình khoa học của riêng tôi. Các nội dung, số liệu được nêu trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Tôi xin chịu trách nhiệm về cam kết của mình.
Tác giả
Hoàng Trung Dũng
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH
:
Công nghiệp hóa
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
HĐH
:
Hiện đại hóa
KTXH
:
Kinh tế – xã hội
MTTQ
:
Mặt trận Tổ quốc
QCDC
:
Quy chế dân chủ
QPAN
:
Quốc phòng – an ninh
UBND
:
Ủy ban nhân dân
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
4
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN
1.1. Nhận thức chung về Dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và Dân chủ xã hội chủ nghĩa 1.1.3. Thực hiện Quy chế dân chủ, nội dung quan trọng của dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở nước ta 1.2. Thực hiện Quy chế dân chủ xã, phường, thị trấn là phương thức phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta 1.2.1. Tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn 1.2.2. Những định hướng phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY
Vị trí địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, VHXH của tỉnh Hà Tĩnh 2.2. Những điều kiện tác động đến quá trình thực hiện Quy chế dân chủ 2.3. Nội dung, cách thức triển khai QCDC ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh 2.4. Kết quả trên các lĩnh vực, nguyên nhân thành công, hạn chế 2.5. Một số bài học kinh nghiệm trong việc triển khai Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN
31
2.1.
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
Dự báo tình hình và phương hướng thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh Những giải pháp chủ yếu thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là mục tiêu, là khát vọng hướng tới của con người và xã hội loài người, là nhu cầu khách quan đối với sự phát triển bền vững của tất cả các nước. Ngày nay, cuộc đấu tranh vì dân chủ, vì sự tiến bộ xã hội đang trở thành một xu thế tất yếu của thời đại. Đối với nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của dân chủ. Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề dân chủ lại càng được đề cao, dân chủ XHCN được khẳng định là bản chất của chế độ, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo dân chủ ở Việt Nam không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hoá và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp, hệ thống pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, kể từ khi Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị 30 CT/TW, ngày 18/12/1998 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nền dân chủ XHCN được triển khai đồng bộ, rõ nét hơn. Theo đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là sự thể hiện quyết tâm củng cố, hoàn thiện, phát triển nền dân chủ XHCN trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta; phản ánh tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước theo định hướng XHCN. Là một địa phương ở khu vực Bắc miền Trung, sau hơn 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 30 – CT/TW của Bộ Chính trị về Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhìn chung trên mọi mặt đời sống, chính trị, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh có nhiều chuyển biến tích cực. Triển khai thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Dân chủ ở cơ sở) đã tạo động lực giúp Hà Tĩnh khơi dậy tiềm năng, nguồn lực
2
vật chất, tinh thần trong nhân dân; củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, nhân dân; là cơ sở để các địa phương xây dựng phong cách ứng xử của người lãnh đạo, quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp ủy, chính quyền; làm cầu nối cho nhân dân sát cánh bên Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, việc triển khai thực hiện QCDC trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình sự phát triển. Nhận thức về QCDC của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, của cán bộ, đảng viên, trong đó có một số người đứng đầu chưa đầy đủ. Một số quy định của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Tình trạng phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với bình quân chung cả nước. Điều kiện tiếp cận các dịch vụ giáo dục, văn hóa trong nhân dân giữa các vùng, miền chưa đồng đều. Một số nơi quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Nhân dân chưa được hưởng đầy đủ quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương, nhất là huy động nguồn lực đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, tham gia đền bù, giải phóng mặt bằng, thực hiện chế độ, chính sách, cung cấp thông tin về công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách…Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, sách nhiễu chưa được ngăn chặn triệt để. Trình độ dân trí nhìn chung chưa đồng đều; ý thức về dân chủ chưa cao, khả năng nhận thức về văn hóa dân chủ còn nhiều bất cập; một bộ phận nhân dân chưa thấy hết nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, đi ngược lại lợi ích cộng đồng xã hội. Hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, vi phạm pháp luật còn xảy ra ở không ít các địa phương. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tôn giáo” để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. 3
4
Các công trình nêu trên nhìn chung tập trung đề cập đến đặc điểm, tình hình, quá trình lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể trên lĩnh vực KTXH, QPAN, xây dựng đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị qua các thời kỳ. Bàn về dân chủ, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thực sự rõ nét. Như vậy, qua việc nghiên cứu các công trình, đề tài đề cập đến vấn đề dân chủ nói chung cũng như vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực, địa bàn, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống đầy đủ, toàn diện về vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận về dân chủ và dân chủ ở cơ sở của Việt Nam nói chung, cùng với việc phân tích đánh giá quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, luận văn chỉ ra thực trạng, đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở của tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ – Hệ thống hóa và làm rõ vấn đề lý luận về dân chủ, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. – Phân tích đặc điểm kinh tế, xã hội, chính trị của tỉnh Hà Tĩnh tác động đến quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. – Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. – Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998 đến nay. 7
8
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN 1.1. Nhận thức chung về dân chủ và Quy chế dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn 1.1.1. Một số khái niệm Dân chủ là hiện tượng lịch sử – xã hội, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người và xã hội loài người. Theo nguồn gốc của tiếng Hy Lạp, dân chủ gồm 2 từ “demos” có nghĩa là nhân dân, “kratos” có nghĩa là quyền uy, sự cai trị. Như vậy theo nghĩa gốc, dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, là trạng thái tổ chức xã hội trong đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội; chỉ quyền của người dân và chỉ một phương thức công tác, phong cách quản lý, lãnh đạo [59, tr.137]. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Dân chủ là có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội”. Dân chủ là khái niệm để chỉ “Chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân”. Ban đầu, khái niệm dân chủ được xem xét về mặt chính trị và pháp luật, về sau mang ý nghĩa rộng hơn, thể hiện ở các lĩnh vực đời sống xã hội như kinh tế, VHXH, mối quan hệ giữa con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước… Khi xã hội loài người chưa phân chia giai cấp, dân chủ được thể hiện dưới hình thức tự quản của cộng đồng. Mọi thành viên có quyền tham gia và quyết định những công việc chung. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa, xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, hình thức tổ 9
chức xã hội Nhà nước ra đời, trạng thái sơ khai của dân chủ dần bị tan rã. Với sự xuất hiện của Nhà nước, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá thành quyền lực Nhà nước. Dân chủ mang bản chất giai cấp và trở thành mục tiêu đấu tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại. Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích của mình. V.l Lê nin tổng kết: “Chế độ dân chủ là một hình thức Nhà nước, một trong những hình thái của Nhà nước. Cho nên cũng như mọi Nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta” [40, tr.123]. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi quyền lực từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ là quyền lực của nhân dân được thể hiện trong các tổ chức tự quản theo tập quán, truyền thống (của xã hội cộng sản nguyên thuỷ) biến thành quyền lực của giai cấp thống trị (trong xã hội chiếm hữu nô lệ) được thể chế hoá bằng chế độ nhà nước với sự cưỡng bức là chủ yếu. Chế độ dân chủ gắn với một chế độ xã hội cụ thể và một giai cấp cầm quyền nhất định, đó là chủ nô. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay nhà vua, quyền dân chủ của nhân dân lao động bị thu hẹp. Với sự phát triển của nền đại công nghiệp, thương nghiệp, quan hệ sản xuất phong kiến dần bị xóa bỏ. Giai cấp tư sản ra đời, nền dân chủ tư sản xuất hiện với nhiều mặt tiến bộ so với các chế độ dân chủ trước đó nhưng phạm vi của nó chỉ bó hẹp trong một bộ phận là giai cấp tư sản. Khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng bị che lấp bởi quan hệ bóc lột. Nhân dân lao động và người nghèo vẫn chưa được hưởng quyền dân chủ thực sự. Khi giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền, thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất. Mục đích cao nhất của nền dân chủ XHCN là giải phóng con người và xã hội loài người, xây dựng một xã hội không có giai cấp, mọi người đều bình
10
đẳng, tự do; đây là nền dân chủ tiến bộ nhất. Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tác động mạnh mẽ đến các quyền tự do về chính trị, tư tưởng, văn hóa và các lĩnh vực khác. Ở nền dân chủ XHCN, những giá trị dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước là trụ cột. Dân chủ là mục tiêu, động lực của phát triển. Các giá trị dân chủ trở thành phổ biến, chi phối mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức, vận dụng làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Theo C.Mác một nền dân chủ thật sự phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân “Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước…ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân” [42, tr.349]. Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân lao động, được thực hiện bằng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong nền dân chủ XHCN, nhà nước là công cụ quyền lực để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, luôn chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên. Cán bộ, công chức Nhà nước là người đại diện cho pháp luật để bảo vệ nhân dân. Để tồn tại và khẳng định rõ vị thế, Nhà nước phải đề ra những cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm trong cán bộ; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức pháp luật. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất XHCN đang trong quá trình phát triển, dân chủ từng bước được hoàn thiện nên quyền dân chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa được thực hiện đầy đủ. Sau cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến, nền dân chủ mới được hình thành. Trong giai đoạn đổi mới, Đảng tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nền dân chủ XHCN.
11
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể, trong đó có tư tưởng về dân chủ. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng được củng cố, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Về khái niệm Quy chế được hiểu: Mang tính chất ràng buộc. Tùy vào phạm vi chức năng của cơ quan ban hành, quy chế có những tác động trong phạm vi khác nhau. Về khái niệm Quy chế dân chủ ở cơ sở: Đây là cụm từ viết tắt nói về Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Như vậy: Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn là những quy định cụ thể về trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân theo quy định của pháp luật; đảm bảo để nhân dân được biết, được bàn, được thực hiện, được kiểm tra các công việc của chính quyền cơ sở. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng dân chủ của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin vào điều kiện cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra những quan điểm, giải pháp sát với yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu thế khách quan để xây dựng một nền dân chủ mới gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người trong thời đại mới. Khi bàn về vai trò dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới này không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân…dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” [43, tr.279]. Người cho rằng làm cách mạng phải biết dựa vào sức dân, dựa vào quần chúng. Là cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn đức, luyện tài, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, chống tham ô, lãng phí, xây dựng một thiết chế vững mạnh để thực hành dân chủ. Dân chủ là động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, tự do, bình đẳng, hạnh phúc; dân chủ không chỉ
12
là quyền lực thuộc về nhân dân mà làm sao để nhân dân được hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền của mình để thể hiện trách nhiệm, bổn phận. Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [44, tr.698]. Để thực hiện quyền làm chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân không chỉ có quyền mà điều quan trọng là phải có năng lực làm chủ. “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” [43, tr.40]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết khơi dậy sức mạnh của nhân dân bằng cách giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn và bổn phận đối với nhiệm vụ xây dựng quê hương, đất nước. Người yêu cầu “Bất kỳ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành” [45, tr.233]. Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó [22, tr.368]. Trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc phê bình tệ quan liêu, xa dân, độc đoán, gia trưởng, mất dân chủ của một bộ phận cán bộ. 13
Có nhiều cán bộ không bàn bạc, không giải thích với dân, không để cho dân chúng phát biểu ý kiến, giải quyết các vấn đề, chỉ bắt buộc dân chúng làm theo mệnh lệnh. Thậm chí khi dân chúng đề ra ý kiến và nêu rõ vấn đề, họ cũng tìm cách dìm đi. Họ chỉ theo ý kiến của họ. Kết quả làm cho dân chúng nghi ngờ, uất ức, bất bình [44, tr.334]. Người khẳng định “Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được, không có thì việc gì cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” [44, tr.335]. Trong Di chúc của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [43, tr.624]. Thực hiện tư tưởng của Người, hơn 82 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay (3/2/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là nội dung quan trọng của đường lối cách mạng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau. Nội dung dân chủ trong giai đoạn đầu của cách mạng là đem lại ruộng đất cho dân cày. Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cách mạng XHCN nhằm mục đích giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở trình độ cao hơn, toàn diện hơn để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, đem lại ấm no, hạnh phúc và những giá trị tiến bộ, cao cả cho nhân dân. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN. Đến Đại hội lần thứ V của Đảng (1982), quan điểm đó tiếp tục được cụ thể hoá.
14
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), mở đầu sự nghiệp đổi mới của Đảng đã khẳng định “Đổi mới phải lấy dân làm gốc”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh: Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ và toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân [21, tr.19]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở [22, tr.43]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đã tạo nên một bước ngoặt lớn, được đánh giá là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội, nội dung dân chủ được nêu thông qua tổng kết toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 đến 2001, 15 năm đổi mới (1986 – 2001). Đại hội đã khẳng định, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của nhân dân là động lực chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [27, tr.22]. Để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới, Đại hội đề ra chủ trương củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là vấn đề thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức. Đại hội xác định, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ đại diện, quy
15
định cụ thể việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với các tổ chức và cán bộ cơ sở; củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với dân theo phương châm “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhận thức về vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội đã có nhiều bước phát triển mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI sửa đổi (Điều 9) nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là: Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là đại hội đại biểu toàn quốc…Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức…”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [30, tr.70]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được 16
Bạn đang xem bài viết Thực Hiện Quy Chế Dân Chủ Ở Cơ Sở Tại Nơi Làm Việc trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!