Cập nhật thông tin chi tiết về Thuyết Minh Sáng Kiến Một Số Kinh Nghiệm Giúp Học Sinh Lớp 6 Học Tốt Bài “Làm Quen Với Một Số Thiết Bị Máy Tính” Ở Trường Thcs Thị Trấn Tam Đường mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM ĐƯỜNG TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN THUYẾT MINH SÁNG KIẾN MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 6 HỌC TỐT BÀI "LÀM QUEN VỚI MỘT SỐ THIẾT BỊ MÁY TÍNH" Ở TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN TAM ĐƯỜNG Tác giả/đồng tác giả: Nguyễn Văn Khoa. Trình độ chuyên môn: Cao đẳng. Chức vụ: Giáo viên. Nơi công tác: Trường THCS Thị Trấn. Thị Trấn, ngày 20 tháng 3 năm 2018 Thị Trấn, ngày 25 tháng 3 năm 2016 THUYẾT MINH SÁNG KIẾN MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 6 HỌC TỐT BÀI "LÀM QUEN VỚI MỘT SỐ THIẾT BỊ MÁY TÍNH" Ở TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN TAM ĐƯỜNG. I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 6 học tốt bài "làm quen với một số thiết bị máy tính" ở trường THCS Thị Trấn Tam Đường. 2. Tác giả: 2.1. Họ và tên: Nguyễn Văn Khoa Năm sinh: 10/10/1987 Nơi thường trú: Thị Trấn Tam Đường - Tam Đường - Lai Châu. Trình độ chuyên môn: Cao đẳng. Chức vụ công tác: Giáo viên. Nơi làm việc: Trường THCS Thị Trấn. Điện thoại: 01683.223.123 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn tin học lớp 6. 4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 6 tháng 9 năm 2017 đến ngày 20 tháng 3 năm 2018. 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Thị Trấn Tam Đường. Địa chỉ: Thị Trấn Tam Đường - Tam Đường - Lai Châu. Điện thoại: 02313.879.106 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: 1.1. Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến: Khi còn ngồi trên ghế của trường tiểu học thì các em học sinh đã được học tin học và làm quen với máy tính điện tử, cũng như làm quen với một số phần mềm máy tính. Nhưng phải đến khi bước vào lớp 6 các em mới được học và tìm hiểu các kiến thức sâu hơn về tin học cũng như tìm hiểu về cấu trúc chung của máy tính điện tử. Để học sinh có một kiến thức cơ bản nhất và mang lại cho các em một cái nhìn trực quan, sinh động về tin học và máy tính điện tử cũng như bước đầu làm quen với kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống, chính vì thế để học sinh lớp 6 học tốt bộ môn Tin học thì tôi luôn chú trọng nhiều đến các tiết thực hành, đến việc cho học sinh tiếp cận với công nghệ mới và chỉ thực hành nhiều thì các em mới lĩnh hội được nhiều kiến thức. Vì vậy, để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 6 học tốt bài làm quen với một số thiết bị máy tính ở trường THCS Thị Trấn Tam Đường. 1.2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Giúp học sinh giảm áp lực và tăng hiệu quả nắm bắt kiến thức một cách logic và có hệ thống khi làm quen với một số thiết bị máy tính. Đặc biệt là tăng chất lượng đại trà, tăng tỷ lệ học sinh khá, giỏi và giảm tỷ lệ học sinh yếu môn tin học lớp 6 ở trường THCS Thị Trấn Tam Đường. 2. Phạm vi triển khai thực hiện: Học sinh khối lớp 6 trường THCS Thị Trấn Tam Đường - huyện Tam Đường - tỉnh Lai Châu. 3. Mô tả sáng kiến: a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: * Thực trạng: Khi dạy bài "Làm quen với một số thiết bị máy tính", có giáo viên còn không cho các em lên phòng máy mà chỉ giới thiệu nội dung, hình ảnh có trong sách giáo khoa, điều này sẽ khiến cho các em không có được hình ảnh trực quan nhất về các thiết bị máy tính. Hoặc giáo viên cho các em lên phòng máy nhưng chỉ giới thiệu sơ qua hình thức bề ngoài của một chiếc máy tính trên phòng máy, điều này có thể làm giảm khả năng nhận biết của một số học sinh vì kiểu dáng, màu sắc của các loại máy tính, các hãng máy tính khác nhau, ngoài ra còn những thiết bị bên trong mà giáo viên không dám tháo ra cho học sinh tìm hiểu. Ở khối lớp 6 trường THCS Thị Trấn Tam Đường, học sinh yếu môn Tin học chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng trên 20%) nên khi dạy bài này giáo viên cần phải áp dụng một số phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh của mình, để giúp các em nắm được các kiến thức cần thiết theo chuẩn kiến thức kỹ năng đề ra. Trong những sáng kiến có những phương pháp dạy môn tin thì chưa có sáng kiến nào nghiên cứu hoặc nghiên cứu nhưng không phù hợp với đối tượng học sinh vùng miền tại đơn vị trường cũng như tại huyện. * Ưu điểm của giải pháp cũ: Nhà trường có cơ sở vật chất khang trang, phòng máy và trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học tương đối đầy đủ. Giáo viên bộ môn tin học còn khá trẻ, có năng lực, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. Một số học sinh có tố chất thông minh có khả năng tiếp thu tốt, có điều kiện thực hành tại nhà, say mê môn học. * Những hạn chế của giải pháp cũ: Khi chưa áp dụng sáng kiến, sau khi học sinh học xong bài 4 trong sách giáo khoa. Để đánh giá học sinh qua các giải pháp cũ trước đây tôi đưa ra một số bài tập khảo sát như sau: + Bài 1: Hãy cho biết các thiết bị nhập dữ liệu cơ bản trên máy tính cá nhân. + Bài 2: Hãy phân biệt các bộ phận thuộc cấu trúc chung của máy tính điện tử do nhà toán học Von Neumann đưa ra. Qua thực tế giảng dạy các lớp đầu năm học 2017-2018, mức độ kiến thức của các em được giáo viên khảo sát có kết quả như sau: Tổng số HS được khảo sát Biết Hiểu Vận dụng SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) 122 106 86,9 96 78,7 83 68,0 Qua kết quả thu được qua khảo sát cho thấy, đa số học sinh chỉ đạt ở mức biết có thiết bị (đạt 86,9%), còn khi nhận biết các bộ phận thì còn rất nhiều học sinh chưa nắm được (chiếm 21,3%), số học sinh vận dụng để phân biệt được các bộ phận thì càng ít hơn (đạt 68,0%). Trong khi chuẩn kiến thức kĩ năng yêu cầu: Nhận biết được một số bộ phận cấu thành cơ bản của máy tính cá nhân(loại máy tính thông dụng hiện nay); Biết cách bật tắt máy tính; Làm quen với bàn phím và chuột. Vì vậy để học sinh hiểu và nhận biết được nhiều hơn một số bộ phận cấu thành cơ bản của máy tính cá nhân, tôi xin đưa ra "Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 6 học tốt bài làm quen với một số thiết bị máy tính" nhằm giúp các em phát triển năng lực quan sát, chú ý, ghi nhớ, tư duy, ngôn ngữ, kỹ năng tính toán, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh, tính hướng đích, tự lập, tính tập thể. b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: * Tính mới: Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm giúp giáo viên tự trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học như: "Khảo sát tâm lí học sinh đối với bộ môn tin học", biện pháp này giúp giáo viên nắm bắt được tâm lí và ý thức học tập của học sinh đối với bộ môn và đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp và hiệu quả nhất với các đối tượng học sinh, tạo cho học sinh sự hứng thú trong quá trình học tập. "Trực quan hoá thông tin bài học", biện pháp này giúp tất cả các đối tượng học sinh tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ kiến thức bài học."Trò chơi học tập", biện pháp này giúp mang lại niềm vui, sự thỏa mãn cho học sinh tham gia, kết quả của trò chơi học tập thể hiện sự cố gắng trong suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo trong việc nắm bắt kiến thức và trong tính hợp tác của các nhóm học sinh. Từ đó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhanh, nhớ lâu và vận dụng tốt trong thực tiễn. * Cách thực hiện: Qua kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy để giúp học sinh lớp 6 học tốt bài "làm quen với một số thiết bị máy tính" cần thực hiện tốt các biện pháp sau: Biện pháp 1: Khảo sát tâm lí học sinh đối với môn tin học: Qua khảo sát kết quả thu được là nhiều em chưa được nhìn thấy máy tính bao giờ, chưa biết máy tính hoạt động như thế nào và làm thế nào để thao tác được với máy tính. Nên nhiều học sinh rất ngại thực hành mà đa phần chỉ có học sinh đã từng được tiếp cận với máy tính nhiều và học sinh khá giỏi thực hành, số còn lại chỉ quan sát vì vậy sẽ không thu hoạch được gì. Trong dạy học người giáo viên phải biết sáng tạo, biết vận dụng linh hoạt, thâm nhập tâm lí học sinh, từ đó đưa ra những biện pháp hiệu quả nhất. Tôi luôn giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy tôi luôn liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng của tin học và tầm quan trọng của môn Tin học trong thực tiễn và tương lai sau này. Kế tiếp là phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, phải làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài, học bài vì làm như thế học sinh sẽ không thu hoạch được gì. Luôn động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, hay là với các em có làm nhưng bị sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học sinh. Bên cạnh đó khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học sinh tích cực, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình. Đánh giá: Qua thời gian áp dụng biện pháp, tôi nhận thấy giờ thực hành thực sự thu hút các đối tượng học sinh hơn chứ không còn là giờ học của các đối tượng học sinh khá giỏi. Học sinh hoạt động tích cực hơn nhiều so với đầu năm. Biện pháp 2: Trực quan hoá thông tin bài học: Trực quan hoá thông tin bài học được hiểu là một quá trình thông qua các tài liệu học tập như các dạng hình ảnh, âm thanh, mô hình và vật thật,... với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Có thể nói khi sử dụng dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ thông thường bởi nó sẽ giúp làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập. Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là máy chiếu, tranh ảnh, biểu tượng, vật thật,.... vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao. Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần xác định dụng cụ trực quan đó là gì và phục vụ cho những nội dung kiến thức nào trong bài học. Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan. Bàn phím có dây Bàn phím không dây Một số mẫu bàn phím khác Bàn phím trên máy tính xách tay Hình 1 Đối với thiết bị nhập dữ liệu là chuột máy tính tôi cũng thực hiện tương tự, khi giới thiệu các bộ phận của chuột máy tính, giáo viên phải mô tả con chuột, có mấy loại chuột, trên thân chuột có những phím nào, chức năng của phím đó, tay đặt lên con chuột đó như thế nào và hướng dẫn học sinh nhận biết cũng như cách thức kết nối và sử dụng. Một số mẫu chuột có dây Một số mẫu chuột không dây Hình 2 Khi dạy mục "Thân máy tính" tôi cho học sinh quan sát hình ảnh bộ xử lí của một số hãng nổi tiếng hiện nay trên thị trường như: Intel, AMD, SiS, VIA, nVIDIA, ATI, để các em có thêm kiến thức phong phú về bộ xử lí. Hình 3(Các loại CPU thông dụng) Đối với bộ nhớ ngoài(HDD) của máy tính cũng tương tự, học sinh được quan sát, tiếp xúc với nhiều loại ổ cứng khác nhau hiện nay cả về hãng sản xuất cũng như dung lượng nhớ. Từ đó học sinh ngoài việc nhớ được tác dụng của bộ nhớ thì học sinh còn nhận biết được rằng hiện nay, trên thị trường có khá nhiều nhà sản xuất khác nhau bao gồm Samsung, Transcend, Toshiba, Western Digital, Seagate, Adata, Hình 4(Các loại bộ nhớ ngoài thông dụng) Đối với bộ nhớ trong(RAM) của máy tính cũng tương tự, học sinh được quan sát nhiều loại RAM khác nhau hiện nay cả về hãng sản xuất cũng như dung lượng nhớ và quan trọng nhất là học sinh nắm được RAM là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên, là nơi máy tính lưu trữ thông tin hiện hành để CPU có thể truy xuất để xử lý. Dữ liệu trên RAM không được lưu lại khi tắt máy tính. Dung lượng RAM càng lớn thì lượng công việc nó giải quyết được càng nhiều. Hình 5(Các loại bộ nhớ trong thông dụng) Đối với mục"Các thiết bị xuất dữ liệu" tôi cũng sử dụng các hình ảnh phù hợp. Bằng quan sát trực quan như thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất. Đánh giá: Sau khi áp dụng biện pháp trong đề tài, số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt. Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 8% Tỉ lệ yếu kém giảm: 10% Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị. Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em để giải quyết vấn đề và làm bài tập đã có hiệu quả rõ rệt. Biện pháp 3: Trò chơi học tập: Để tiết học cuốn hút và sinh động giúp học sinh tiếp thu, ghi nhớ và vận dụng tốt kiến thức vào thực tế, trong bài giảng cần tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi học tập. Đối với bài này tôi tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi học tập "Tìm từ cho tranh". +Mục đích: Giúp học sinh nhận biết và gọi tên các thiết bị máy tính, củng cố kiến thức đã học. + Chuẩn bị: Một số hình ảnh về các thiết bị máy tính như: Màn hình, bàn phím, chuột, bộ nhớ ngoài, bộ nhớ trong. Các từ tương ứng với các thiết bị, nam châm. + Số người chơi: Theo nhóm(cả lớp dưới hình thức thi đua 2 đội). + Luật chơi: Phải tìm đúng các từ phù hợp để gắn vào các hình. + Cách chơi: Giáo viên chiếu các hình lên bảng, các thẻ tên để ở dưới bàn, mỗi nhóm 6 - 7 thẻ (thừa 1 - 2 thẻ). Học sinh xếp thành 2 hàng dọc hoặc những người tham gia chơi của 2 đội ngồi ở phía ngoài 2 dãy bàn để chạy lên cho nhanh. Khi giáo viên hô: "bắt đầu" thì lần lượt từng đội một người lên tìm từ và gắn vào các tranh tương ứng. Sau khi gắn xong về chỗ, bạn khác mới được lên. Đội nào xếp xong trước và đúng tất cả các từ là thắng cuộc. Đánh giá: Sau mỗi lần chơi giáo viên đánh giá việc thực hiện trò chơi của học sinh hoặc cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau những gì bạn đã thực hiện trong trò chơi. Thông qua cách chơi như vậy giáo viên có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh, từ đó đưa ra biện pháp bổ sung những kiến thức mà học sinh chưa nắm chắc. 4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại: Sau khi áp dụng sáng kiến, để kiểm tra khả năng lĩnh hội của học sinh tôi đưa ra một số bài tập khảo sát như sau: + Bài 1: Hãy cho biết các thiết bị nhập dữ liệu cơ bản trên máy tính cá nhân. + Bài 2: Hãy phân biệt các bộ phận thuộc cấu trúc chung của máy tính điện tử do nhà toán học Von Neumann đưa ra. Kết quả là học sinh đã không còn lúng túng trong quá trình làm bài tập. Học sinh đã nắm được các kiến thức và kỹ năng cần thiết, các em hiểu được các khối chức năng chính của máy tính cá nhân và nhận biết được các thiết bị thuộc các khối chức năng. Chất lượng bài kiểm tra sau khi đã áp dụng sáng kiến năm sau cao hơn năm trước cụ thể: Qua thực tế các lớp dạy ở năm học 2017-2018, mức độ kiến thức học sinh đạt được khi khảo sát thu được kết quả như sau: Tổng HS Biết Hiểu Vận dụng SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) 122 122 100 118 96,7 111 91,0 Sau khi áp dụng những biện pháp trên, tôi nhận thấy rằng mình đã áp dụng đúng với đối tượng học sinh của mình. Đa số học sinh đã nắm được kiến thức và đạt được các nội dung kiến thức theo yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng đề ra. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Sáng kiến đã được áp dụng có hiệu quả với học sinh khối lớp 6 tại trường THCS Thị Trấn và có thể triển khai, áp dụng cho các thầy cô giáo đang giảng dạy môn tin học và học sinh lớp 6 tại các trường THCS trong huyện. 6. Các thông tin cần được bảo mật: Không có. 7. Kiến nghị, đề xuất: a) Về danh sách cá nhân được công nhận tác giả sáng kiến: Nguyễn Văn Khoa. b) Kiến nghị khác: Kiến nghị với Phòng GD&ĐT Tam Đường: Có kế hoạch trang bị thêm phòng máy vi tính cho các trường THCS để đẩy nhanh và mạnh việc ứng dụng CNTT vào dạy học. Kiến nghị với các cấp: Tổ chức kì thi Olympic tin học dành cho học sinh THCS hàng năm. 8. Tài liệu kèm: Không có. XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Văn Khoa XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆNSáng Kiến Kinh Nghiệm Giúp Học Sinh Lớp 6 Giải Tốt Bài Toán Tìm X
giúp học sinh lớp 6 giải tốt bài toán tìm x Phần I: Mở đầu I. Bối cảnh của đề tài Tại cơ sỏ lơi tôi đang công tác và làm việc, các em học sinh đều là học sinh dan tộc thiểu số, trình độ nhận thức chậm đặc biệt là trong tính toán. Đối với môn toán việc tính toán của các em học sinh còn rất yếu, và trong các dạng toán thì dạng toán tìm x là một trong những dạng khá quan trọng và các em học sinh hầu như gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải đối với dạng toán này. Tôi thực hiện đề tài này giúp cho các em học sinh ngay từ khi học lớp 6 được rèn luyện thành thạo với dạng toán này. II. Lý do chọn chuyên đề tài: Trong phần số học lớp 6 có rất nhiều dạng bài toán quan trọng như thực hiện phép tính, tính giá trị của biểu thức, tìm giá trị lớn nhất nhỏ nhất, tìm x…Dạng bài toán tìm x là một trong những dạng toán rất quan trọng và xuyên suốt trong chương trình toán phổ thông đến chuyên nghiệp. Đối với học sinh dân tộc thiểu số việc học toán đã rất khó đối với học sinh vì phải đòi hỏi sự tư duy cao hơn, các em thường chỉ làm được các bài toán ở dạng nhận biết hoặc thông hiểu ( các bài tập tương tự). Vì thế với dạng bài toán tìm x để các em giải tốt được ta cần làm nhiều bài tập, nhiều dạng khác nhau dể học sinh có thể áp dụng tương tự dể làm. Qua thực tế giảng dạy Toán 6 tôi thấy,rất nhiều em không giải được bài toán tìm x (phương trình bậc nhất một ẩn ) cũng vì những lí do trên. Chính vì thế tôi đưa ra một số bài toán tìm x trong chương trình số học lóp 6 và cách giải để giúp các em học sinh giả tốt được dạng toán này, làm tiền đề cho các em học lên lớp trên không còn khó khăn trong việc giải toán tìm x. III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu + Khách thể: Học sinh lớp 6 + Đối tượng nghiên cứu: Một số dạng bài toán “ Tìm x trong chương trình số học lớp 6 + Phạm vi nghiên cứu: Các bài toán không vượt quá chương trình toán lớp 6. Đề tài tôi thực hiện cho học sinh học lớp 6 và áp dụng cho tất cả các đối tượng khá giỏi và đặc biệt là học sinh trung bình IV. Mục đích nghiên cứu: Củng cố cho học sinh một số kiến thức để giải một số dạng giải bài toán tìm x trong phần số học. Cũng từ đó mà phát triển tư duy lôgic cho học sinh, phát triển năng lực giải toán cho các em, giúp cho bài giải của các em hoàn thiện hơn, chính xác hơn và còn giúp các em tự tin hơn khi làm toán. Phần II: Nội dung Chương I: Cơ sở thực tiễn Với học sinh lớp 6 thì việc giải dạng toán “ Tìm x ” gặp rất nhiều khó khăn do dạng toán tìm x không có một quy tắc nhất định nào, học sinh tại cơ sở còn nhận thức chậm chỉ làm được các bài tập dạng tương đương. Chính vì vậy mà khi gặp dạng toán này học sinh thường ngại, lúng túng, khi giải hay mắc sai lầm. Khi chưa có những hướng dẫn cụ thể với từng dạng bài toán học sinh giải thường vướng mắc như sau: Ví dụ 1: Tìm số tự nhiên x biết.7x – 8 = 713 Bài toán tìm x trên không giông như dạng cơ bản đã học ở tiểu học dẫn đến học sinh không biết cách thực hiện. 7x – 8 = 713 7x = 713 + 8 7x = 721 Khi tôi áp dụng đề tài này vào quá trình hướng dẫn học sinh giải được bài, hiểu rất rõ cơ sở của việc giải bài toán đó. Còn ở ví dụ 2 các em đã biết lựa chọn ngay cách giải nhanh (và hiểu được cơ sở của phương pháp giải đó là áp dụng tính chất; hai số đối nhau có giá trị tuyệt đối bằng nhau). Cụ thể : Chương II: Kết quả điều tra khảo sát Qua khảo sát khối 6 trường THCS Trung Đồng với đề bài: Tìm x biết: 7x – 8 = 713 ( 5 điểm) | 2x – 3| = 5 ( 5 điểm) Tôi thấy học sinh còn rất lúng túng về phương pháp giải, chưa nắm vững phương pháp giải đối với từng dạng bài, quá trình giải chưa chặt chẽ, chưa lựa chọn được phương pháp giải nhanh, hợp lí. Kết quả đạt được như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu và kém Khối 6 10% 21% 20% 49% Kết quả thấp là do học sinh vướng mắc những điều tôi đã nêu ra ( ở phần trên) và phần lớn các em chưa biết cách giải Chương III: giải pháp Yêu cầu học sinh nắm vững và ghi nhớ cách giải các bài toán tìm x cơ bản đã học ở tiểu học, một điều khó khăn khi dạy học sinh lớp 6 về vấn đề này đó là học sinh chưa được học về phương trình, bất phương trình, các phép biến đổi tương đương, hằng đẳng thức vì thế học sinh cần nắm vững được các kiến thức cơ bản sau: Quy tắc bỏ dấu ngoặc, qui tắc chuyển vế. Tìm x trong đẳng thức: Thực hiện phép tính , chuyển vế đưa về dạng cơ bản đã học ở tiểu học Định lí và tính chất vị giá trị tuyệt đối. |A| = |-A| |A| ³ 0 II. Giải pháp 1. Trước khi có quy tắc chuyển vế a, Các dạng toán tìm x * Dạng tìm x cơ bản đã học ở tiểu học, các em đã biết giải các bài toán tìm x cơ bản: a + x = b (1) a – x = b (2) x – a = b (3) x.a = b (4) x : a = b (5) a : x = b (6) Các em phải thuộc 6 qui tắc tìm x ở dạng này(ở tiểu học các em đã học) * Dạng mở rộng Thường gặp là các dạng kết hợp giữa (1);(2);(3) với (4);(5);(6): Ví dụ với các dạng tổng quát: a, a + bx = c ; a – bx = c b, a. ( x + b ) = c ; a.(x – b)= c c, ax – b = c ; ax + b= c * Dạng tích: (ít gặp,thường là dành cho học sinh giỏi): (x+a)(b+x)(x-c) = 0 b, Cách giải. * Dạng cơ bản:Các em thực hiện đọc qui tắc rồi tự giải: Ví dụ: a, x- 5 = 7 x = 7+5 x = 12 b, x : 3 = 9 x = 9 . 3 x = 27 c, x.5 = 25 x = 25 : 5 x = 5 * Dạng mở rộng: Bước1:Tìm phần ưu tiên – Đối với dạng này, chúng ta yêu cầu các em thực hiện ưu tiên tìm Phần trong ngoặc ,hoặc Tích, hoặc Thương có chứa x trước Sau khi rút gọn vế phải,nhớ yêu cầu các em phân tích: “ Tìm phần ưu tiên” ,nếu có, tiếp theolàm như thế cho đến khi được kết quả là bài toán cơ bản. Ví dụ 1: Tìm số tự nhiên x biết. a, ( x- 34 ). 2 = 10 Phần ưu tiên trong ví dụ trên là phần trong ngoặc có chứa x: ( x – 34) ( x -34 ) = 10 :2 x -34 = 5 Ví dụ 2: Tìm số tự nhiên x biết. 7x – 8 = 713 Phần ưu tiên trong ví dụ trên là tích có chứa x: 7x 7x = 713 + 8 7x = 721 Như vậy ta đã đưa bài toán về dạng cơ bản như vậy các em có thể thực hiện dễ dàng. Ví dụ 3: Tìm số tự nhiên x biết. ( 6x – 39 ) : 3 = 201 Phần ưu tiên trong ví dụ trên là phần trong ngoặc: ( 6x – 39) 6x – 39 = 201. 3 6x – 39 = 603 Phần ưu tiên trong phần đã thu gọn trong ví dụ trên lại là: 6x 6x = 603 + 39 6x = 642 Như vậy ta đã đưa bài toán về dạng cơ bản như vậy các em có thể thực hiện dễ dàng. Bước2:Giải bài toán cơ bản Phần này, các em đã biết cách làm khi học tiểu học. Nếu các em quên chúng ta gợi ý : Xem số phải tìm là số gì (thừa số,số hạng,) trong phép tính Đọc qui tắc tìm (6 qui tắc mà các em đã biết) Giải Trả lời Qua bước 2 các em có thể giải song bài toán tìm x trên một các dễ dàng Ví dụ 1: x -34 = 5 x = 5+ 34 x = 39 Ví dụ 2: 7x = 721 x = 721 : 7 x = 13 Ví dụ 3: 6x = 642 x = 642 : 6 x = 17 * Dạng tích: Từ (x-a)(x -b)(x-c)=0 ta suy ra Hoặc x-a=0, hoặc x-b=0, hoặc x-c=0, từ đó suy ra kết quả và trả lời Ví dụ 1: Tìm số tự nhiên x biết (x – 3)( x -4 ) ( 5- x) = 0 Ví dụ 2: Tìm số tự nhiên x biết (3x – 9)( 2x + 6 ) = 0 2. Sau khi có quy tắc chuyển vế Quy tắc chuyển vế: Khi chuyển một số hạng tử từ vế này sang vế kia của một đẳng thức, ta phải đổi dấu các hạng tử đó: dấu “ +” đổi thành dấu “ – “ và dấu “ – “ đổi thành dấu “ + “. Khi học sang chương số nguyên các em được học về quy tắc chuyển vế. Lúc này việc thực hiện các bài toán tìm x dễ dàng hơn, nhanh hơn, dễ hiểu hơn đối với các em. a, Các bước giải Bước 1: áp dụng quy tắc chuyển vế Chuyển cấc hạng tử tự do sang vế phải, giữu nguyên các hạng tủ chứa x ở vế trái.(Đối với các bài toán có chứa dấu ngoặc thì phải phá ngoặc trước khi thực hiện quy tắc chuyển vế) Bước2:Giải bài toán cơ bản Phần này, các em đã biết cách làm khi học tiểu học. Nếu các em quên chúng ta gợi ý : Xem số phải tìm là số gì (thừa số,số hạng,) trong phép tính Đọc qui tắc tìm (6 qui tắc mà các em đã biết) Giải Trả lời Qua bước 2 các em có thể giải song bài toán tìm x trên một các dễ dàng b, Một số ví dụ cụ thể Ví dụ 1: Tìm số nguyên x biết 3x + 82 = -8 3x = -8 -82 ( chuyển 82 sang vế phải đồng thời đổi dấu) 3x = – 90 x = -30 Ví dụ 2: Tìm số nguyên x biết -7x + 25 = -8.3 -7x + 25 = -24 (chuyển 25 sang vế phải đồng thời đổi dấu) -7x = – 24 – 25 -7x = – 49 x = 7 3. Bài toán tìm x có chứa dấu GTTĐ Cốt lõi của đường lối giải bài tập tìm x trong đẳng thức chứa dấu giá trị tuyệt đối, đó là tìm cách bỏ dấu giá trị tuyệt đối. Đặt câu hỏi bao quát chung cho bài toán: Đẳng thức có xảy ra không? Vì sao? Bài giải Vậy x = 8 hoặc x = 2 4. Một số bài tập điển hình a. bài tập có lời giải Bài 1.Tìm x ,biết: Giải Chú ý Với dạng có rất nhiều dấu ngoặc như ví dụ trên ta yêu cầu học sinh ưu tiên tìm phần trong ngoặc theo thứ tự: Bài 2. Tìm x,biết :(x-2)(x-4)(x-8)=0 Giải (x-2)(x-4)(x-8)=0 hoặc x – 2 = 0 x = 2 hoặc x – 4 = 0 x = 4 hoặc x – 8 = 0 x = 8 Vậy : x Bài 3. Tìm số nguyên x biết ( bài toán chưa dấu GTTĐ) với x là số nguyên Vậy x = -4 và x = Với bài toán có chứa dấu GTTĐ các em cần áp dụng định nghĩa gí trị tuyệt đối của một số nguyên a để phá dấu giá trị truyệt đối. Bài 4. Tìm x để Gải (x – 1) ( x+3) 0 và x + 3 không có giá trị của x nào thỏa mãn điều kiện. Lưu ý : Với bài toán tìm điều kiện của x thì x nhận giá trị là tập nghiệm. Bài 5. Tìm x biết a, b, b, Bài tập không có lời giải Bài 1. Tìm x biết a, b, c, d, Bài 2. Tìm x biết ( Dành cho học sinh khá giỏi) a, b, c, Bài 3. Tìm số nguyên n để 3n – 5 chia hết cho n -1 ( Dành cho học sinh khá giỏi) Bài 4. Tìm số nguyên n để : a, b, tối giản ( Dành cho học sinh khá giỏi) Bài 5. Tìm số nguyên x biết ( Dành cho học sinh khá giỏi) a, b, Bài 6. Tìm số tự nhiên n, để mỗi biểu thức sau là một số tự nhiên ( Dành cho học sinh khá giỏi) a, HD: suy ra n = 2 ; n = 8 b, HD: suy ra n+2 là ước của 22, hơn nữa n +2 3. Do đó n = 9 Phần III: Kết luận Những bài học kinh nghiệm Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã rút ra một số bài học cho bản thântrong việc bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu kém. Những bài học đó là: 1 Hệ thống kiến thức bổ trợ cho dạng toán sắp dạy. 2 Hệ thống các phương pháp cơ bản để giải loại toán đó. 3 Khái quát hoá, tổng quát hoá từng dạng, từng loại bài tập. II. ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm Khi áp dụng đề tài nghiên cứu này vào giảng dạy học sinh đã biết cách làm các dạng bài toán tìm x một cách nhanh và gọn. Học sinh không còn lúng túng và thấy ngại khi gặp dạng bài tập này. Kết quả nhận được như sau: Học sinh của tôi không còn lúng túng về phương pháp giải cho từng dạng bài trên. Biết lựa chọn cách giải hợp lí, nhanh, gọn. Hầu hết đã trình bày được lời giải chặt chẽ. III. Khả năng ứng dụng triển khai Với đề tài này giáo viên có thể thự hiện luyện tập cho các em trên lớp cũng như trong các buổi học bồi dưỡng hay phụ đạo một các hệ thống. IV. Những kiến nghị đề xuất. Tôi xin chân thành cảm ơn. Trung Đồng, ngày 09 tháng 11 năm 2010 Người viết Nguyễn Công Trường Tài liệu tham khảo 1, Sách giáo khoa toán 6 tập 1, tập 2 2, Sách bài tập toán 6 tập 1, tập 2 3, Luyện tập toán 6 (Tác giả Nguyễn Bá Hòa) 4, Toán nâng cao và các chuyên đề toán 6 5, Tuyển chọn 400 bài tập toán 6 Tiêu đề Trang Phần I: Mở đầu 1 Phần II: Nội dung 2 Chương I: Cơ sở thực tiễn 2 Chương II: Kết quả điều tra khảo sát 2 Chương III: giải pháp 4 Phần III: Kết luận 10
Luận Văn Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 5
Luật phổ cập giáo dục Tiểu học có ghi “Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam XHCN”. Để tiến kịp thời đại, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, giáo dục Tiểu học đã và đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Bậc Tiểu học được coi là nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục phổ thông tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Vì thế, giáo dục Tiểu học phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt để học sinh tiếp tục học lên. Đồng thời, giáo dục Tiểu học có trách nhiệm xây dựng một nền dân trí tối thiểu cho cả dân tộc. Chương trình giáo dục Tiểu học phải xây dựng một cách khoa học để có thể hình thành cho trẻ em từ 6 đến 11 tuổi những cơ bản ban đầu hết sức quan trọng trong nhân cách con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện tại cũng như trong tương lai. Có thể nói, mỗi tri thức, kỹ năng, năng lực học sinh được rèn luyện ở bậc Tiểu học sẽ định hình những phẩm chất, nhân cách cho học sinh. những gì đã hình thành trong các em, sau này lớn lên khó mà thay đổi được. Vì vậy nhà trường có nhiệm vụ rèn luyện, giáo dục học sinh trở thành những con người phát triển toàn diện. Để làm được điều đó cần coi trọng tất cả các môn học và mỗi môn có một đặc trưng riêng, môn nào cũng có ý nghĩa, mục đích, yêu cầu riêng nhưng đều hỗ trợ, bổ sung cho nhau góp phần giáo dục con người phát triển một cách toàn diện. Để chiếm lĩnh được đỉnh cao của khoa học kỹ thuật càng cần phải có nhiều nhân tài, phải giỏi về các môn khoa học tự nhiên và xã hội trọng đó có môn Toán.
TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC
TIN KHUYẾN MÃI
Thư viện tài liệu Phong Phú
Hỗ trợ download nhiều Website
Nạp thẻ & Download nhanh
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Nhận nhiều khuyến mãi
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay
NẠP THẺ NGAY
DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 1 Rèn Kỹ Năng Sống
Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Hàng ngày, tôi yêu cầu các em trong lớp theo dõi và báo cáo lại cho giáo viên, trong tiết sinh hoạt cuối tuần, cuối tháng cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt, các bạn được nhiều điểm 10. Mỗi năm học, tổng kết 4 lần vào các dịp nhà trường phát động các phong trào thi đua lớn như: thi đua chào mừng ngày 20/11, ngày 8/3, vào dịp cuối học kỳ I và cuối năm, khen thưởng cho những em chăm ngoan, đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Bên cạnh đó, Đội cũng có quà cho các em xuất sắc nhất ở mỗi lớp sau những đợt thi đua. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần thưởng đầy ý nghĩa. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
áo khác cũng như ý kiến của gia đình các em và có đánh giá chung như sau: SỐ HS KỸ NĂNG TỐT CÓ KỸ NĂNG KỸ NĂNG CHƯA TỐT SL TL SL TL SL TL 20 4 20 9 45 7 35 2. Thực trạng giáo viên: Về phía giáo viên, thông qua tiếp xúc chia sẻ kinh nghiệm với nhiều đồng chí giáo viên là bạn bè đồng nghiệp ở nhiều trường, tôi được biết: có rất nhiều giáo viên còn lúng túng về vấn đề giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh: cả về nội dung lẫn biện pháp. Do không có giáo trình và thời lượng cụ thể nên việc rèn kỹ năng sống qua các môn học thực sự là gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Có khi việc đó chỉ làm qua loa cho có, cũng có khi lại quá lạm dụng ăn lấn sang cả thời gian của việc dạy học. Hơn nữa, kỹ năng sống được hình thành qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Nó là kết quả thu được sau một quá trình trải nghiệm. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Sự tác động của giáo viên dù rất quan trọng nhưng vẫn chỉ mang tính định hướng, lựa chọn làm gì, làm như thế nào quyết định cuối cùng vẫn là ở các em. 3. Thực trạng nhà trường: Năm học vừa qua, trường Tiểu học Hợp Tiến chỉ học 7 buổi/tuần. Thời gian học trên lớp chủ yếu là học các môn học, việc không có các tiết tự học thật sự ảnh hưởng rất lớn tới việc rèn kỹ năng sống cho các em. Kỹ năng sống được hình thành tự nhiên và hiệu quả trong những môi trường hoạt động cụ thể chứ không từ những bài giảng trên lớp. Chỉ từ các bài giảng, các em không thể tự hình thành các kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó. Như ông Nguyễn Anh Tuấn, phó trưởng Ban thanh niên trường học đã nói: "Học kỹ năng sống cũng giống như học bơi, muốn biết bơi thì phải xuống nước tập bơi chứ không thể đứng trên bờ mà biết được." Nhà trường không có các tiết dành cho hoạt động ngoài giờ lên lớp, các lớp không có tiết tự học gây khó khăn trong việc tổ chức rèn kỹ năng sống cho học sinh. III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN: Từ những thực tiễn đã nêu trên tôi đã tìm tòi và áp dụng một số biện pháp cụ thể sau để thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh: 1. Tạo môi trường học tập thân thiện, tích cực: a. Giáo viên luôn gần gũi học sinh, là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo: Ngay từ khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa các thành viên trong lớp, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của các em. Bên cạnh đó tôi cũng cho các em biết rõ những mong muốn của mình đối với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi " Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em ". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Chúng ta cần phải tạo cơ hội để các em tự nói nhiều hơn, nói những điều các em nghĩ và các em thật sự muốn. Suốt một thời gian dài sau đó, tôi thường xuyên tìm hiểu, quan sát mọi cử chỉ, hành động, lời nói, thái độ của các em, không chỉ những biểu hiện trong học tập mà ngay cả trong khi các em chơi, trò chuyện với bạn. Chú ý tới tất cả các biểu hiện như: thái độ trước những bài khó, cách các em lắng nghe, trả lời, cách các em bộc lộ suy nghĩ tình cảm, sự vui mừng khi hoàn thành bài hay được khen, các em có dễ hòa đồng không, có kiên nhẫn không hay thường nổi nóng, các em có linh hoạt sáng tạo không. Việc làm này sẽ giúp chúng ta nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay dễ mất kiểm soát Cũng từ đó, nếu các em có những biểu hiện chưa phù hợp hoặc gặp khó khăn, chúng ta có thể uốn nắn, giúp đỡ các em. Việc này thực ra rất đơn giản nhưng yêu cầu chúng ta phải kiên trì và tâm huyết. Như đã nói, đặc điểm tâm lý của các em là hiếu động và thích bắt trước, ở trường thầy cô với các em lại luôn là hình mẫu lý tưởng nhất, chuẩn mực nhất. Mọi vấn đề thầy cô giải quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô nói với các em luôn là đúng. Đặc biệt với học sinh lớp 1, các em nghe, làm theo thầy cô còn hơn là ông bà, cha mẹ. Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của mình, từ nét chữ, lới nói đến cả cử chỉ điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô trước các tình huống. Vì thế, bản thân giáo viên cần luôn chú ý tới mọi cử chỉ, hành động. Luôn mẫu mực, cư xử hòa nhã, quan tâm và dạy bảo các em tận tình. Giáo viên cũng cần phải biết xin lỗi, nếu bạn nhầm lẫn, hãy xin lỗi các em và sửa lại. Trong mọi tình huống, giáo viên luôn cần là tấm gương để học sinh noi theo. Hãy luôn cho các em cảm giác an toàn và tin tưởng. b. Giáo viên thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học: Trong giờ học, giáo viên cần luôn tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện, cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. Động viên khuyến khích các em bày tỏ quan điểm cá nhân, độc lập trong tư duy như: nói câu khác với bạn, viết lời giải theo trình tự khác với hướng dẫn chung, xử lý một tình huống theo những cách khác nhau c. Thường xuyên động viên, khen thưởng: Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Hàng ngày, tôi yêu cầu các em trong lớp theo dõi và báo cáo lại cho giáo viên, trong tiết sinh hoạt cuối tuần, cuối tháng cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt, các bạn được nhiều điểm 10. Mỗi năm học, tổng kết 4 lần vào các dịp nhà trường phát động các phong trào thi đua lớn như: thi đua chào mừng ngày 20/11, ngày 8/3, vào dịp cuối học kỳ I và cuối năm, khen thưởng cho những em chăm ngoan, đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Bên cạnh đó, Đội cũng có quà cho các em xuất sắc nhất ở mỗi lớp sau những đợt thi đua. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần thưởng đầy ý nghĩa. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. d. Hướng học sinh tới các hoạt động tập thể của lớp, của trường, của Đội TNTP: Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp hàng ngày. Ví dụ: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm, có tác phong nhanh nhẹn (rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu); Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản thân, kỹ năng vận động, gây ảnh hưởng); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập ( rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch). Các hoạt động tập thể sẽ giúp học sinh không chỉ có được nhận thức đúng đắn mà giúp các em trải qua những tình huống thực tế. Các em được nói, được làm, được lập kế hoạch, được tự đánh giá rút kinh nghiệm. Kỹ năng sống dần được hình thành từ đây. 2. Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học. Do tình hình thực tiễn hiện nay không có chương trình cũng như tiết học dành riêng cho việc giáo dục kỹ năng sống, nên việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống qua dạy học các môn học là điều cần thiết. Với chương trình dạy học lớp 1, mọi kiến thức, kỹ năng học tập mà các em có được đều có thể xem như là các kỹ năng sống căn bản và cần thiết. Ta có thể giúp các em rèn kỹ năng sống qua tất cả các môn học như: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội a. Rèn kỹ năng sống của học sinh thông qua môn Tiếng Việt Chúng ta đều biết, ngôn ngữ là công cụ của tư duy và giao tiếp. Theo học giả người Mỹ Kinixti thì: "Sự Thành công của mỗi người chỉ có 15% là dựa vào kỹ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó" Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" "Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau" Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: "Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời" Mặt khác việc giao tiếp, ứng xửa khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực: "Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói" Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: "Trẻ lên ba, cả nhà học nói" Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kỹ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không? Tôi thường xuyên tổ chức cho các em luyện nói theo nhóm và luân phiên các thành viên của các nhóm để nhằm mục đích giúp tất cả các em có thể giao tiếp trực tiếp với nhau, Khuyến khích các em còn nhút nhát nói nhiều hơn, bước đầu là nói một, hai câu ngắn sau đó dần dần hướng dẫn các em nói nhiều hơn, diễn đạt suy nghĩ cụ thể, rõ ràng và thuyết phục hơn. Bên cạnh đó không quên hướng dẫn cho các em luyện nghe. Các em cần chú ý lắng nghe cô và các bạn, suy nghĩ về những thông tin được đưa ra là đúng hay sai, mình có như thế không, mình sẽ nói thế nào về vấn đề ấy Sau khi học sinh trình bày bài nói, tôi thường hỏi một số câu hỏi nhỏ để kiểm nghiệm mức độ nhận thức vấn đề nghe được của các em, sau thời gian quen dần, tôi định hướng cho các em cách hỏi lẫn nhau để kiểm tra thông tin cũng như khích lệ bạn. Trong khi dạy Tập đọc, hoạt động nói câu có tiếng chứa vần ôn cũng được tôi rất xem trọng. Dù đó không phải là giao tiếp trong tình huống cụ thể và mỗi em chỉ nói một câu nhưng nó giữ vai trò rèn luyện cho học sinh nói đủ câu, diễn đạt tường minh và dần đến nói câu hay. Khi các em nói, chúng ta có thể kịp thời điều chỉnh ngay những lỗi đặt câu của các em. Hoạt động luyện nói cho học sinh lớp 1 là một nội dung rèn kỹ năng sống cụ thể và thiết thực nhất trong chương trình dạy học. Làm tốt việc này, chúng ta đã giúp các em rèn luyện rất nhiều các kỹ năng như: kỹ năng nhận thức, tư duy, giao tiếp, tự khẳng định, tự tin, hợp tác, làm việc nhóm, bày tỏ cũng như kiềm chế cảm xúc. Không chỉ rèn kỹ năng sống cho học sinh qua hoạt động luyện nói mà ta có thể rèn kỹ năng sống cho các em qua việc dạy Tập đọc, Kể chuyện. Như khi dạy các bài Tập đọc: Mèo con đi học, ta có thể giúp các em rèn kĩ năng tự nhận thức, xác định giá trị, phê phán, vượt qua khó khăn Hoặc khi kể các câu chuyện: Rùa và Thỏ, Cô bé trùm khăn đỏ, Bông hoa cúc trắng, Dê con nghe lời mẹ các em được giáo dục và rèn có hiệu quả các kỹ năng như tự nhận thức, tư duy phê phán, sự cảm thông, tự tin, bảo vệ bản thân, vượt qua khó khăn đạt mục tiêu Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu bản thân là những bài học như khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm. b. Rèn kỹ năng sống của học sinh thông qua môn Đạo đức: Dạy học đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và quyền trẻ em trong các tình huống đơn giản cụ thể của cuộc sống hàng ngày. Nội dung của môn học đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân mình. Việc bồi dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức không phải đó là một bài mẫu có sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để học sinh thực hiện theo. Mà nhiệm vụ của môn Đạo đức lớp Một nói riêng, môn Đạo đức ở Tiểu học nói chung qua mỗi bài là một chuẩn mực hành vi đạo đức giúp các em nắm được những điều sơ đẳng của phép ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Qua bài dạy của giáo viên các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các hoạt động và trong các mối quan hệ xã hội Dạy - học Đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy - học Đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và thói quen đạo đức, tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, kỹ năng mới. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ đặc điểm, nội dung từng bài học, lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phù hợp và xác định các kỹ năng sống cần rèn luyện cho học sinh. Bài 1: Em là học sinh lớp Một rèn kỹ năng tự giới thiệu họ tên, quyền được đi học của mình, kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Bài 2: Gọn gàng sạch sẽ: Rèn kỹ năng biết ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết gữ vệ sinh cá nhân đầu tóc quần áo gọn gàng trong mọi lúc mọi nơi. Lựa chọn các phương pháp dạy thích hợp với từng bài dạy gây hứng thú học tập cho học sinh. Không rập khuôn máy móc, không áp đặt tình huống, cần sáng tạo theo từng tiết dạy. Qua từng bài tập trò chơi, kể chuyện theo tranh, quan sát tranh và trả lời câu hỏi, đánh giá và tự đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, các bài tập tô màu, đóng vai theo tranh theo tình huống v.v ... Học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới, kỹ năng mới giáo viên kết luận hành vi đạo đức đúng. Dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " , có thể tổ chức cho các em trao đổi : - Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào? - Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn cảm ơn, xin lỗi?... qua đó các em sBạn đang xem bài viết Thuyết Minh Sáng Kiến Một Số Kinh Nghiệm Giúp Học Sinh Lớp 6 Học Tốt Bài “Làm Quen Với Một Số Thiết Bị Máy Tính” Ở Trường Thcs Thị Trấn Tam Đường trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!