Cập nhật thông tin chi tiết về Tiền Tệ (Currency) Là Gì? Chức Năng Của Tiền Tệ mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Định nghĩaTiền tệ trong tiếng Anh là Currency. Tiền tệ có thể định nghĩa theo nhiều cách như sau:
Quan điểm của Trường phái trọng thương
Tiền tệ đồng nghĩa với sự giàu có. Một quốc gia muốn làm giàu thì phải tích lũy thật nhiều tiền.
Quan điểm của Trường phái trọng nông
Tiền tệ chỉ là một thứ hư tưởng. Tiền chỉ có tác dụng như một chất nhờn bôi trơn hoạt động của guồng máy kinh tế. Bản thân guồng máy đó không hề chịu bất cứ tác động nào của tiền tệ.
Quan điểm của N. Gregory Mankiw
Tiền tệ là một khối lượng tài sản có thể sử dụng ngay để tiến hành giao dịch.
Quan điểm của Frederic S. Mishkin
Tiền tệ là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa và dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ.
Phân biệt tiền với của cải và thu nhập
Của cải ( Wealth): là giá trị ròng của tài sản sở hữu tính bằng tiền tại một thời điểm nhất định. Chú ý rằng, của cải là đại lượng tích tụ (như lượng nước trong một hồ nước).
Của cải của một hộ gia đình bao gồm những tài sản hữu hình như nhà cửa, đất đai, ô tô và các hàng hóa tiêu dùng lâu bền khác và các khoản sở hữu tài chính như tiền mặt, tài khoản tiết kiệm, trái phiếu và chứng khoán.
Mọi giá trị được coi là tài sản có, còn những khoản nợ được gọi là tài sản nợ. Sự chênh lệch giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ được gọi là của cải hay tài sản ròng.
Thu nhập ( Income): là lượng tiền kiếm được trong một đơn vị thời gian. Thu nhập là một đại lượng lưu chuyển trong một đơn vị thời gian như dòng chảy của một con sông.
Chức năng của tiền tệ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thị trường, tiền ba có chức năng đó là phương tiện trao đổi, phương tiện cất giữ và đơn vị hạch toán.
Phương tiện trao đổi
Phương tiện trao đổi là một thứ được mọi người chấp nhận rộng rãi để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ.
Tiền là một phương tiện trao đổi. Khi bạn mua một hàng hóa bất kì, chẳng hạn áo sơ mi, chủ cửa hàng trao cho bạn áo sơ mi, còn bạn thì trả cho ông ta tiền. Nhờ có việc chuyển tiền từ người mua cho người bán mà giao dịch được thực hiện. Nếu không có tiền, việc trao đổi hàng hóa trở nên phức tạp và tốn kém hơn nhiều.
Phương tiện cất giữ giá trị (Bảo tồn giá trị)
Việc tiền đóng vai trò là phương tiện trao đổi đi liền với vai trò là một phương tiện cất giữ giá trị. Dân chúng sẽ chỉ giữ tiền một khi họ tin rằng nó sẽ tiếp tục có giá trị trong tương lai, do vậy tiền có thể thực hiện được chức năng phương tiện trao đổi chỉ khi nó cũng đóng vai trò là phương tiện bảo tồn và cất giữ giá trị.
Với chức năng này dân chúng có thể lựa chọn giữ một số của cải trực tiếp bằng tiền. Tất nhiên, tiền không phải phương tiện cất trữ giá trị duy nhất trong nền kinh tế, bởi vì một người có thể chuyển sức mua từ hiện tại tới tương lai bằng cách nắm giữ tài sản khác.
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá trị của tiền liên tục giảm theo thời gian. Điều này làm cho tiền trở thành một phương tiện cất trữ giá trị yếu thế hơn so với các tài sản khác.
Đơn vị hạch toán
Với hai chức năng trên, tiền trở thành một đơn vị hạch toán rất tiện lợi và hiệu quả vì nó được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch.
Mọi người sử dụng một đơn vị tiền tệ chung để niêm yết giá và ghi các khoản nợ.
(Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính)
Minh Lan
Tiền Tệ Là Gì? Các Chức Năng Của Tiền Tệ
Hình thái trao đổi đơn giản hay ngẫu nhiên:
1 tấm bò = 2 cái rìu
Hình thái giá trị tương đối – vật ngang giá chung
Giá trị của bò được biểu hiện ở rìu, còn rìu là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của bò. Hàng hoá (bò) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (rìu) thì gọi là hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá rìu mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoá khác (bò) gọi là hình thái vật ngang giá chung.
– Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất – bộ lạc du mục tách rời khỏi toàn bộ lạc đòi hỏi có sự trao đổi bằng nhiều hàng hoá khác nhưng vẫn trực tiếp. Lúc này giá trị của vật không chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vật mà còn biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác
Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc / 1 cái rìu/1 m vải / 0,1 chỉ vàng (chưa cố định)
Ví dụ: 10 kg thóc
2 con gà = 1 m vải (vật ngang giá nhưng chưa cố định)
0,1 chỉ vàng
– Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá, đó là kim loại (kẽm, đồng, sắt, bạc, vàng.) chỉ đến lúc này thì hình thái tiền tệ mới được xác lập và vàng với tư cách là vật ngang giá chung và đã trở thành tiền tệ, gọi là kim tệ. Vì vậy, vàng – tiền tệ được coi là một HH đặc biệt.
Kết luận:
– Tiền tệ là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền là một phát minh vĩ đại của loài người, nó làm thay đổi bộ mặt của nền KT – XH
– Sự ra đời và tồn tại của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi HH. Và trong quá trình này nó xuất hiện vật ngang giá chung.
– Vàng – tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt.
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Mac, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
3.1 Chức năng thước đo giá trị (standard of value)
Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi tiền tệ đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác.
Chúng ta đo lường các giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng bằng kilogram hoặc đo khoảng cách bằng kilomét. Để thấy vì sao chức năng này lại quan trọng, chúng ta nhìn vào nền kinh tế đổi chác, trong đó tiền không thực hiện chức năng này.
Nếu nền kinh tế chỉ có ba mặt hàng, ví dụ: vải, gạo, muối thì chỉ có ba giá để có thể trao đổi thứ này với thứ khác: giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kiliogram gạo, giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kilogram muối và giá của một kilogram gạo tính bằng bao nhiêu kilogram muối. Nếu có mười mặt hàng, chúng ta sẽ có 45 giá để trao đổi mặt hàng này với mặt hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta có đến 4950 giá, với 1000 mặt hàng có 499.500 giá.
Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng: N(N -1)/N
3.2 Chức năng phương tiện trao đổi (Medium of exchange)
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa.
Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có thể ví tiền tệ như một chất nhớt bôi trơn guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi mức dộ tiền tệ hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn ra thuận lợi, trôi chảy.
Nghiệp vụ trao đổi giá tiếp thực hiện qua trung gian của tiền tệ, gồm hai vế:
– Vế thứ nhất: bán hàng để lấy tiền: H-T
– Vế thứ hai : dùng tiền để mua hàng T – H
Nhưng thỉnh thoảng hai vế này không di liền với nhau. Tiền tệ là phương tiện làm trung gian trao đổi dần dần trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được ưa chuộng.
3.3 Chức năng phương tiện thanh toán (standard of deferred payment)
Quá trình lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa – tiền tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô…bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán.
Như vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa, mà là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa.
Tiền tệ khi thực hiện chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau.
Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ.
3.4 Chức năng phương tiện tích lũy (store of value or store of purchasing power)
Tiền tệ chấp hành chức năng phương tiện tích lũy khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai.
Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, hình thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và it sinh lời.
Khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện tích lũy đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua.
3.5 Chức năng tiền tệ thế giới (world currency)
Tiền tệ thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy ở phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước họ.
Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất để cho một vật được sử dụng làm tiền tệ thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy, tiền tệ thế giới là chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm của dân chúng.
Nguồn: trithuccongdong.net
Trong các chức năng của tiền tệ trên thì chức năng phương tiện trao đổi chính là chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Bởi vì, ngày nay tiền tệ luôn là phương tiện bôi trơn cho phép nền kinh tế hoạt động trôi chảy hơn, từ đó giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Tiền Tệ Là Gì? Chức Năng Và Tầm Quan Trọng Của Tiền Tệ
Nằm trong phạm trù kinh tế, lịch sử, sự ra đời của tiền tệ là một trong những phát minh vĩ đại của loài người, giúp thúc đẩy các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, dần dần thay đổi bộ mặt của kinh tế, xã hội. Mà nói theo quan điểm của Mác thì: tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, giúp biểu thị giá trị của các hàng hóa khác nhau.
Tiền tệ ( tiền lưu thông) là phương tiện thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế. Tiền tệ có thể mang hình thức tiền giấy hoặc tiền kim loại (tiền pháp định) do Nhà nước (Bộ Tài chính ,ngân hàng trung ương,…) phát hành, tiền hàng hóa (vàng, vỏ sò, gạo, muối), tiền thay thế (điểm thưởng, phỉnh poker, coupon, dặm bay,…), hoặc tiền mã hóa do một mạng lưới máy tính phát hành (điển hình là Bitcoin). Người ta dùng cụm từ “đơn vị tiền tệ” để phân biệt tiền tệ của quốc gia này với tiền tệ của quốc gia khác. Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một tên gọi (ví dụ: dollar, franc…) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta thường phải gọi kèm tên quốc gia sử dụng đồng tiền (ví dụ: dollar Mỹ, dollar Úc). Với sự hình thành của các khu vực tiền tệ thống nhất, ngày nay có nhiều quốc gia dùng chung một đơn vị tiền tệ như đồng EUR.
Tiền tệ là phương tiện thanh toán pháp quy nghĩa là luật pháp quy định người ta bắt buộc phải chấp nhận nó khi được dùng để thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị tiền tệ ấy. Một tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng để thanh toán nợ nhưng tiền giấy và tiền kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim loại có thể là phương tiện thanh toán pháp quy bị luật pháp của một quốc gia giới hạn không vượt quá một số lượng đơn vị tiền tệ nào đó tuỳ theo mệnh giá của những đồng tiền kim loại ấy.
2. Tiền tệ là gì? tiền tệ xuất hiện như thế nào?
Bàn về nguyên nhân ra đời của tiền tệ, ở Phương Tây chia thành hai trường phái riêng biệt. Một cho rằng sự ra đời của tiền tệ là kết quả khách quan tất yếu từ trao đổi hàng hóa phát triển thành. Đại diện cho trường phái này có David Ricardo, Adam Smith….
Một trường phái khác lại cho rằng: nguồn gốc của tiền tệ là bản tính của đàn bà với các nhu cầu làm đẹp và bản tính đàn ông với sự ham muốn có nhiều tiền cùng danh vọng mà không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa. Đại diện cho trường phái này là Smondest và W.Gherlop (là nhà tâm lý học).
Sau khi dày công nghiên cứu, C.Mác cho rằng: thời kỳ con người sống thành bầy đàn chỉ duy trì hình thái kiếm ăn theo bản năng, lúc này chiếm hữu tư nhân chưa xuất hiện. Tuy nhiên, mầm mống trao đổi đã dân xuất hiện từ xã hội nguyên thủy, vật đổi vật khi có nhu cầu, mang tính ngẫu nhiên theo hình thức ngang giá.
Khi quá trình phân công lao động xuất hiện trong xã hội thì hoạt động trao đổi thường xảy ra hơn, tiến bộ hơn so với hình thức trao đổi sơ khai nhưng vẫn có rất nhiều hàng hóa được trao đổi theo vật ngang giá. Khi sự phất công lao động càng phát triển thì sự trao đổi hàng hóa càng bộc lộ những thiếu sót dẫn đến mâu thuẫn lên cao, mức độ phân hóa trong xã hội ngày càng lớn.
Khi sự phân công lao động xuất hiện lần thứ hai, lúc này thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp thị trường hàng hóa mở rộng và phát triển. Tình trạng vật đổi vật ngang giá thật sự không công bằng, đẩy mâu thuẫn càng lên cao của thị trường. Trước tình trạng trên, đòi hỏi phải có vật ngang giá mang giá trị lớn nhất, tiền tệ ra đời – biểu thị cho vật ngang giá chung đã giải quyết được yêu cầu trên.
3. Chức năng của tiền tệ là gì?
Qua tìm hiểu lịch sử ra đời và tầm quan trọng của tiền tệ, ta đã thấy được đây là một hàng không thể thiếu, mang trong mình nhiều chức năng quan trọng. Chức năng đầu tiên của tiền tệ là thước đo giá trị (tiền tệ mang giá trị trung gian, giá trị trao đổi và giá trị bảo lưu).
Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi tiền tệ đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Chúng ta đo lường các giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng bằng kilogram hoặc đo khoảng cách bằng kilomét.
Chức năng thứ hai là phương tiện trao đổi – đây là chức năng chức ta sử dụng tiền tệ hàng ngày trong mua (bán) hàng hóa các loại, và cũng là chức năng quan trọng nhất. Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có thể ví tiền tệ như một chất nhớt bôi trơn guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi mức dộ tiền tệ hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn ra thuận lợi, trôi chảy.
Chức năng thứ ba của tiền tệ là phương tiện thanh toán, trong lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa – tiền tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô…bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán.
Tiền tệ có chức năng thứ tư là phương tiện tích lũy, tiền tệ chấp hành chức năng phương tiện tích lũy khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai.
Trước đây, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, nhưng nó không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và it sinh lời. Cho đến khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Phương pháp này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Vậy nên, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện tích lũy đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua.
Chức năng tiền tệ thế giới là chức năng thứ năm, khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy ở phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước họ.
4. Vậy tầm quan trọng của tiền tệ là gì?
Thông qua sự ra đời và chức năng của tiền tệ, ta có thể thấy được tầm quan trọng mà mặt hàng này mang lại. Tiền tệ là vật mang giá trị chung sử dụng trong quy tắc trao đổi giá trị các mặt hàng. Tiền tệ ra đời tỷ lệ thuận với quá trình mở rộng, lưu thông và phát triển hàng hóa. Ngoài ra chúng góp sức mạnh mẽ trong quá trình mở rộng quan hệ quốc tế.
Suy cho cùng, tiền tệ là công cụ phục vụ con người với nhiều mục đích khác nhau. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, các quốc gia, các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân đều không thể đứng bên ngoài các mối quan hệ mà tiền tệ mang lại. Có thể thấy tiền tệ không ngừng phát huy sức mạnh của mình trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay và vẫn còn phát triển về sau một khi nền kinh tế này vẫn tồn tại.
Qua bài viết của TraderPlus hẳn các bạn đã nắm vững kiến thức về tiền tệ là gì? và các chức năng và tầm quan trọng của nó. Tóm lại, tiền tệ ra đời mang trong mình một lúc nhiều chức năng và tầm quan trọng mà các mặt hàng khác không thể thay thế được. Để phát huy các chức năng này, tiền tệ phải là mặt hàng đang được lưu hành một cách chính thống, có sự sở hữu của nhà nước và có sự tín nhiệm của người dân.
Các Chức Năng Của Tiền Tệ? Vai Trò Của Tiền Tệ Là Gì? – Luận Văn Kế Toán
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ có 5 chức năng: – Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định: + Giá trị hàng hoá. + Giá trị của tiền. + Ảnh hưởng của quan hệ cung – cầu hàng hoá. Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen. – Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá. Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế. Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị. Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia. – Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. – Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng … Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên. – Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội. Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ làm đồ án thuê tphcm. Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.
2. Vai trò của tiền tệ trong nền KT3
2.1 Tiền tệ là phương tiện để mở rộng phát triển sản xuất và trao đổi HH
– Tiền làm cho giá trị của hàng hoá được biểu hiện một cách đơn giản cho nên người ta dễ dàng so sánh các hàng hoá với nhau và người lao động có thể so sánh về mức độ lao động với nhau. – Nó làm cho giá trị của hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi, người sở hữu có thể chuyển đổi giá trị sử dụng một cách dễ dàng – Tiền tệ làm cho sự trao đổi hàng hoá không bị ràng buộc về không gian và thời gian. – Tiền tệ làm cho việc hạch toán hiệu quả sản xuất kinh doanh dễ dàng
2.2 Tiền tệ nó biểu hiện giá trị quan hệ xã hội
Quá trình sản xuất giữa các cá nhân, doanh nghiệp luôn diễn ra hoàn toàn độc lập và riêng lẻ nhưng khi thực hiện trao đổi tiền là sợi dây nối liền giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau. Về hình thức thì chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng về thực chất thì chúng có mối quan hệ chia rẻ, tiền phân hoá mối quan hệ trong xã hội thành kẻ giàu, người nghèo và có sự phân cấp địa vị xã hội.
2.3 Tiền phục vụ cho mục đích của người sở hữu chúng
– Đối với dân cư: tiền là phương tiện phục vụ nhu cầu sống – Đối với chính sách tài chính quốc gia: tiền là cơ sở để hình thành nên các khoản thu chi của ngân sách – Đối với chính sách kinh tế đối ngoại: tiền là cơ sở hình thành nên tỷ giá hối đoái hoặc là phương tiện chi trả giữa các quốc gia – Đối với chính sách kinh tế vi mô: cơ sở hình thành vốn và các chỉ tiêu tài chính như chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận – Đối với chính sách kinh tế vĩ mô: tiền là phương tiện để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các bài có thể xem: + Khái niệm và đặc điểm thẻ thanh toán ngân hàng , + Quy trình cho vay khách hàng cá nhân, + Các hình thức cho vay khách hàng cá nhân, + Tìm hiểu chiêu thi – promotion trong marketing, + Tìm hiểu sensory marketing , + Các nhân tố ảnh hướng đến văn hóa doanh nghiệp., + Mã hóa là gì, + Thị trường tiền tệ là gì, + Định nghĩa vai trò và công cụ của chính sách tiền tệ
Bạn đang xem bài viết Tiền Tệ (Currency) Là Gì? Chức Năng Của Tiền Tệ trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!