Cập nhật thông tin chi tiết về Tiếp Tục Hoàn Thiện Giải Pháp Để Đổi Mới Cơ Chế Tài Chính Đối Với Các Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
(Quang Binh Portal) – Đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và cũng là nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh giai đoạn 2011-2016. Những năm qua, cơ chế chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực sự nghiệp công đã từng bước đổi mới. Qua thực tế triển khai trên địa bàn tỉnh cho thấy việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ là đúng hướng và đạt nhiều kết quả nổi bật.
Đối với tiết kiệm chi, lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp công lập quán triệt, tuyên truyền và vận động cán bộ, viên chức thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bằng biện pháp, giải pháp cụ thể, thiết thực tùy tình hình thực tế và tính chất công việc của mỗi cá nhân, bộ phận, tổ chức. Các đơn vị đã chủ động trong việc rà soát, sắp xếp lại bộ máy hoạt động tinh gọn, tiết kiệm chi phí… Có thể khẳng định, qua gần 10 năm thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ trên địa bàn tỉnh, số đơn vị có tiết kiệm được đạt khoảng 80%; một số đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 01 – 02 lần…
Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định nhưng quá trình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP cũng cho thấy, các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ một cách đầy đủ, do đó còn hạn chế trong việc phát triển mở rộng, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, thu nhập cho người lao động, phấn đấu giảm yêu cầu hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước. Cụ thể như việc giao quyền tự chủ tài chính chưa khuyến khích các đơn vị để có đủ điều kiện phấn đấu tự chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư; phân bổ kinh phí ngân sách Nhà nước vẫn thực hiện theo định mức chung, thiếu sự gắn kết giữa giao nhiệm vụ tương ứng với giao kinh phí; chưa khuyến khích đúng mức các đơn vị tăng thu, giảm chi ngân sách Nhà nước cấp. Bên cạnh đó, các đơn vị sự nghiệp công không thể hạch toán đầy đủ chi phí, có tích lũy để tái đầu tư phát triển, nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công một cách bền vững. Đặc biệt, việc định giá một số loại dịch vụ công ở mức thấp đã hạn chế sức hấp dẫn các thành phần kinh tế khác cùng tham gia đầu tư cung ứng dịch vụ công.
Để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập trong thời gian tới, tỉnh đã đưa ra một số giải pháp trọng tâm cần thực hiện như: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thống nhất trong hành động của từng cấp, ngành, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đẩy mạnh phân cấp, thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập; đồng bộ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình đơn vị, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý; chịu trách nhiệm giải trình với xã hội, Nhà nước về việc thực hiện tự chủ và có cơ chế giám sát, kiểm tra các đơn vị tự chủ bảo đảm thực hiện đúng nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục đổi mới phương thức giao dự toán kinh phí đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công cơ bản, phục vụ đối tượng chính sách theo hướng Nhà nước đặt hàng cung cấp sản phẩm, dịch vụ; từng bước tính đúng, đủ các khoản chi phí hợp lý cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, phù hợp với thị trường và khả năng của ngân sách Nhà nước; đổi mới cơ chế tài chính công đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa cao, tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động như trung tâm văn hóa – thể thao, trường đại học, cơ sở dạy nghề, cơ sở y tế….
Ngoài ra, địa phương cũng thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công lập; đồng thời hoàn thiện chính sánh thu hút nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, để đầu tư nâng cấp, mở rộng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa dịch vụ công đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trên nguyên tắc không thay đổi nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quyền sở hữu của Nhà nước, tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng dịch vụ công cung cấp, xử lý hài hòa quyền lợi của Nhà nước, người lao động, người dân, nhà quản lý và nhà đầu tư trong khuôn khổ pháp luật.
N.Quý
Các Giải Pháp Đổi Mới Cơ Chế Hoạt Động, Cơ Chế Tài Chính Đối Với Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập
Nghị quyết số 19 – NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các đơn vị sự nghiệp công lập trong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh những kết quả mang lại đóng góp tích cực vào kinh tế – xã hội, thực tế phát triển của hệ thống đơn vị sự nghiệp vẫn chưa như kỳ vọng. Do đó, việc đổi mới cơ chế hoạt động cũng đã trở thành yêu cầu cấp thiết, cấp bách trong bối cảnh việc đảm bảo chi ngân sách nhà nước để duy trì hệ thống các đơn vị sự nghiệp, tác động tới điều chỉnh cơ cấu ngân sách theo hướng tăng chi thường xuyên và giảm chi đầu tư.
Thực trạng đổi mới hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập được hiểu là các tổ chức của Nhà nước cung cấp các dịch vụ công như: Giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, dịch vụ công cộng… Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm này, cả nước có khoảng 58 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập với khoảng 2,5 triệu biên chế (chưa kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước). Đơn vị sự nghiệp công lập có vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nước nhưng cũng đang là gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thời gian qua, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo đó, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số 141/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác… lần lượt được Chính phủ ban hành trong năm 2015 và 2016.
Các bộ cũng đã trình Chính phủ Nghị định quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong 5 lĩnh vực còn lại (y tế; văn hóa, thể thao và du lịch; giáo dục nghề nghiệp; thông tin truyền thông và báo chí; giáo dục đào tạo).
Việc triển khai thực hiện các quy định trên đến nay cơ bản ghi nhận những kết quả tích cực. Thống kê cho thấy, số lượng đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ tài chính chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng 90% số đơn vị sự nghiệp công lập đang hoạt động với trên 50 nghìn đơn vị.
Số thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập tăng năm sau cao hơn năm trước, chủ yếu nhờ tăng quy mô, mở rộng hoạt động sự nghiệp và đa dạng hóa việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, qua đó thu hút thêm số người tham gia thụ hưởng các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành, địa phương, đến cuối năm 2016, tổng nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập (bao gồm cả nguồn thu phí được để lại) đạt trên 70 nghìn tỷ đồng. Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên ngân sách nhà nước giao đã góp phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm theo quy định của Chính phủ.
Cùng với việc khai thác nguồn thu, các đơn vị sự nghiệp công lập đã xây dựng các giải pháp quản lý nội bộ để tiết kiệm chi phí. Theo báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, nhiều đơn vị sự nghiệp tiết kiệm chi thường xuyên góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sự nghiệp.
Trong đó, 143 đơn vị thuộc các bộ, cơ quan trung ương đã thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên khoảng 1.020 tỷ đồng; 1.486 đơn vị thuộc các địa phương đã thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên khoảng 650 tỷ đồng.
Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện chế độ tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên, trong đó thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị.
Ngoài ra, cơ chế tự chủ đã giúp các đơn vị sự nghiệp công lập huy động nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp. Nhờ đó, cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp công lập đã được tăng cường, tạo điều kiện mở rộng các hoạt động sự nghiệp phong phú, đa dạng, phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém và còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua. Nhiều văn bản pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập chậm được ban hành hoặc chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung. Công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm.
Quy hoạch mạng lưới chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp.
Chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn hình thức, có phần thiếu minh bạch; việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công chưa kịp thời.
Việc thực hiện xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công còn chậm. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát và xử lý sai phạm trong hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều bất cập…
Đẩy mạnh đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị quyết số 19-NQ/TW) đã được Bộ Chính trị ban hành với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý.
Đồng thời, giảm mạnh tỷ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Hiện nay, do cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ vẫn đang ở quá trình hoàn thiện, trong đó có nội dung tự chủ hoạt động, cách thức quản trị, vai trò của cơ quan chủ quản cũng chưa được quy định một cách đầy đủ và đồng bộ.
Do vậy, để đảm bảo hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban hành đầy đủ khung pháp lý về tự chủ tài chính, cần tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế quản lý, sắp xếp và tổ chức lại hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 Khóa XII.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang cùng các bộ, ngành tập trung hoàn thiện, trình ban hành và chuẩn bị triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW.
Những đổi mới của Nghị định 16/2015/NĐ-CP đem lại nhiều lợi ích cho các đơn vị sự nghiệp công, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; thúc đẩy các hoạt động của đơn vị, cung cấp sự nghiệp dịch vụ công theo hướng chất lượng, hiệu quả, nâng cao số lượng, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Thực tế cho thấy, sẽ có sự triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP trái ngược nhau đối với 2 loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với những đơn vị sự nghiệp công lập năng động, có khả năng tự chủ cao nhưng đang bị “trói buộc” bởi các cơ chế quản lý cũ thì Nghị định số 16/2015/NĐ-CP sẽ là động lực mới.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thiếu năng động, hoặc hoạt động ở các khu vực không thuận lợi, còn phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước thì chưa sẵn sàng chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ.
Do vậy, việc nâng cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực hiện tốt chính sách này sẽ có tác động đến việc tạo động lực, thúc đẩy sự phát triển của việc cung cấp sản phẩm dịch vụ công, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Cùng với các giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, để nâng cao chất lượng quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công lập, tăng cường chất lượng dịch vụ công ở Việt Nam, cần tiếp tục chú trọng những giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện luật pháp, thể chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công: Thực hiện chính sách hỗ trợ ngân sách nhà nước đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công theo hướng tạo điều kiện và bảo đảm sự bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc tiếp cận các nguồn tài chính công, cung cấp dịch vụ công cho xã hội trên nguyên tắc: Trong cùng một lĩnh vực cung cấp dịch vụ công, đơn vị nào có chất lượng và hiệu quả cao hơn sẽ được ưu tiên tiếp cận nguồn lực tài chính công, không phân biệt đơn vị công lập hay ngoài công lập.
Tổ chức đánh giá, rà soát, quy hoạch lại các lĩnh vực cung cấp dịch vụ công trong xã hội đối với một số lĩnh vực không thiết yếu; các thành phần kinh tế trong xã hội đã cơ bản đáp ứng nhu cầu xã hội, hoặc xã hội đã chấp nhận việc cung, cầu dịch vụ theo cơ chế thị trường thì không nhất thiết phải duy trì các đơn vị cung cấp dịch vụ công thuộc quyền sở hữu nhà nước.
Các đơn vị sự nghiệp công này yêu cầu chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp hay cơ chế tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. Tiến tới, ngân sách nhà nước sẽ không hỗ trợ một số đơn vị sự nghiệp công lập đã được hình thành trước đây như: Các trung tâm văn hóa, các trung tâm thể thao, một số trường học, bệnh viện…
Trường hợp Nhà nước cần cung cấp dịch vụ thì thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng đối với các đơn vị này trên nguyên tắc tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ, bình đẳng với đơn vị cung cấp dịch vụ khác.
Thứ hai, bổ sung xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư về ngân sách nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: Nhà nước chủ động thay đổi cơ bản cách thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từng bước chuyển từ giao dự toán khoán chi hoạt động thường xuyên như trước đây, sang đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ công.
Trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng của từng loại hình dịch vụ công cung cấp, nguồn tài chính công được phân phối công khai, minh bạch cho các đơn vị sử dụng có hiệu quả nhất, không phân biệt cơ sở công lập hay ngoài công lập. Qua đó, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm cho các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập phát triển bình đẳng.
Cùng với đó, Nhà nước chủ động thay đổi cách thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho các đối tượng chính sách thông qua các cơ sở cung cấp dịch vụ công như hiện nay, hỗ trợ trực tiếp, tạo sự bình đẳng trong hưởng thụ và tạo điều kiện cho các đơn vị cung cấp dịch vụ công được bù đắp chi phí hoạt động cung cấp dịch vụ; Chủ động thực hiện cơ cấu lại, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo hướng bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị được giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công phục vụ cho các đối tượng chính sách, xã hội, đơn vị sự nghiệp công ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới và hải đảo.
Nhà nước cần từng bước thực hiện tái cơ cấu đầu tư ngân sách nhà nước đối với việc cung cấp theo hướng tăng dần tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ bản để tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng, ưu tiên đầu tư các cơ sở như giáo dục, y tế… tại các địa bàn kinh tế trọng điểm, khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm thu hẹp khoảng cách về cung cấp và thụ hưởng giữa các khu vực, vùng, miền trong cả nước.
Qua đó, từng bước giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho cung cấp dịch vụ công, đồng thời, có chính sách huy động đóng góp từ xã hội để bù đắp các chi phí thường xuyên cho cung cấp dịch vụ công.
Thứ ba, đổi mới cơ chế quản lý tài chính công đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: Tăng cường phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đồng bộ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình đơn vị, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý. Các đơn vị phải chịu trách nhiệm giải trình về việc thực hiện tự chủ và có cơ chế giám sát, kiểm tra các đơn vị tự chủ bảo đảm thực hiện đúng nhiệm vụ được giao.
Đổi mới phương thức giao dự toán kinh phí đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công cơ bản, phục vụ đối tượng chính sách theo hướng Nhà nước đặt hàng cung cấp sản phẩm, dịch vụ; Có sự gắn kết tương xứng giữa số lượng, chất lượng dịch vụ công cung cấp và kinh phí Nhà nước đặt hàng.
Tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, phù hợp với thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước. Các đơn vị tự chủ sử dụng kinh phí được Nhà nước đặt hàng nhưng phải đáp ứng tốt yêu cầu về số lượng, chất lượng dịch vụ công cung cấp. Nhà nước xây dựng và ban hành cơ chế kiểm định độc lập về chất lượng dịch vụ công cung cấp trên các lĩnh vực hoạt động.
Đổi mới cơ chế tài chính công đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập, cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa cao, tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động.
Các đơn vị này được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ công, được hạch toán kinh tế đầy đủ chi phí cần thiết; Quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí cần thiết, do cấp có thẩm quyền ban hành; Được Nhà nước giao vốn và bảo toàn, phát triển nguồn vốn; Có quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; Được huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, tự quyết định biên chế và trả lương, trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả, chất lượng hoạt động.
Cách làm trên sẽ thay đổi cơ bản về phương thức quản trị nội bộ đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ công. Các đơn vị sẽ phải tiếp cận dần với các phương thức quản trị hiện đại, tiên tiến của doanh nghiệp, phải nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút người sử dụng và tăng nguồn thu cho đơn vị, phải cạnh tranh bình đẳng về chất lượng dịch vụ và về mức thu phí.
Cơ chế này sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị công lập, ngoài công lập, theo hướng giảm mức thu phí, nâng cao chất lượng dịch vụ công, có lợi cho người sử dụng dịch vụ và cho toàn thể xã hội.
Bên cạnh đó, thực hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công lập; Hoàn thiện chính sánh thu hút nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, để đầu tư nâng cấp, mở rộng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa dịch vụ công đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trên nguyên tắc không thay đổi nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quyền sở hữu của Nhà nước, tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng dịch vụ công cung cấp, xử lý hài hòa quyền lợi của Nhà nước, người lao động, người dân, nhà quản lý và nhà đầu tư trong khuôn khổ pháp luật.
1. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;
2. Quyết định số 695/2015/QĐ-TTg, ngày 21/5/2015 của Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;
3. Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần;
5. Đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp công theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, Nguyễn Trường Giang, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2017.
(Tạp chí Tài Chính Bộ TC – Ths Nguyễn Xuân Trường, Học viện chính trị quốc gia HCM)
Giải Pháp Tiếp Tục Thực Hiện Tốt Chính Sách, Pháp Luật Đối Với Người Có Công
(QBĐT) – Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, chính sách ưu đãi đối với người có công đã từng bước được hoàn thiện, tương đối toàn diện, bao phủ hầu hết các lĩnh vực đời sống người có công. Chế độ trợ cấp, chế độ mở rộng ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ nhà ở… được điều chỉnh, bổ sung; mức trợ cấp hàng tháng được điều chỉnh đồng bộ với tiền lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội, từng bước cải thiện và ổn định đời sống người có công với cách mạng.
Quảng Bình là một trong những tỉnh có nhiều đối tượng người có công với cách mạng, toàn tỉnh có gần 14,5 vạn người có công (chiếm gần 17% dân số), thuộc nhiều nhóm đối tượng khác nhau; trong đó, có trên 13.600 liệt sỹ, gần 2 vạn thuơng bệnh binh, 387 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 6.300 người hưởng tham gia kháng chiến và con đẻ bị nhiễm chất độc hóa học; gần 1.000 người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày; hơn 10 vạn đối tượng tham gia kháng chiến được tặng thưởng huân huy chương.
Qua giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã nhận thấy, các văn bản pháp luật ưu đãi người có công được tỉnh thể chế hóa, tạo môi trường thuận lợi để chính sách đi vào cuộc sống. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng tỉnh đã rất quan tâm, ưu tiên thực hiện chính sách ưu đãi người có công, cũng như thực hiện đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.
Thời gian gần đây, tỉnh đã giải quyết bổ sung được nhiều trường hợp người có công với cách mạng được công nhận và thụ hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước đúng quy định.
Chỉ tính từ năm 2013 đến nay, đã có gần 25.000 đối tượng được điều chỉnh trợ cấp, phụ cấp hàng tháng theo mức chuẩn mới tại Nghị định số 101/2013/NĐ-CP; thực hiện chế độ nghỉ dưỡng cho trên 13.000 đối tượng; tiếp nhận hơn 9.000 hồ sơ về thờ cúng liệt sĩ, đến ngày 20-8-2014 đã giải quyết được gần 4.000 hồ sơ; thực hiện ưu đãi trong giáo dục đào tạo cho 8.758 đối tượng; giải quyết chế độ bảo hiểm y tế cho gần 39.000 đối tượng; phối hợp kiểm tra, thẩm định trên 300 hồ sơ và hoàn chỉnh 86 hồ sơ đề nghị Chính phủ tặng thưởng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; thực hiện trợ cấp cho trên 14.000 người theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Công tác quy tập hài cốt liệt sĩ được quan tâm thực hiện. Từ năm 2012 đến nay đã quy tập được 27 hài cốt liệt sĩ trên địa bàn tỉnh và 112 hài cốt liệt sĩ tại nước bạn Lào, nâng tổng số hài cốt liệt sĩ quy tập từ năm 2002 đến nay lên 1.263 hài cốt được đưa về nước và tổ chức lễ truy điệu, an táng trang trọng, chu đáo. Là một tỉnh kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng từ năm 2007 đến nay, Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” các cấp đã huy động được trên 10 tỷ đồng, cùng với nguồn hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân đã hỗ trợ xây mới gần 500 căn nhà, sửa chữa trên 600 căn nhà cho người có công.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh giám sát về thực hiện chính sách người có công tại Bộ CHQS tỉnh. Ảnh: A.T
Tuy nhiên, qua giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh cũng thấy rằng việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng vẫn còn nhiều hạn chế. Một số người có công với cách mạng và gia đình vẫn còn khó khăn trong cuộc sống. Nguyên nhân khách quan là tuổi cao, sức yếu, không còn khả năng vươn lên mà chỉ dựa vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Bên cạnh những khó khăn khách quan còn do những vướng mắc, bất cập của các văn bản hướng dẫn chậm, thiếu đồng bộ hoặc chưa rõ ràng; việc tổ chức thực hiện ở một số địa phương thiếu kịp thời, sự phối hợp chưa chặt chẽ, chưa đáp ứng yêu cầu của chủ trương chính sách. Công tác phổ biến, tuyên truyền các chế độ, chính sách về người có công ở một số địa phương, cơ sở còn làm chưa tốt, nặng về hình thức, thiếu chiều sâu, thực hiện thiếu thường xuyên, liên tục. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc nhắc nhở của một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn thiếu thường xuyên, chậm thông tin báo cáo, dẫn đến sai sót trong quá trình xác lập hồ sơ thủ tục; không loại trừ một số đối tượng khai man hưởng chế độ, chính sách, gây dư luận xấu, bất bình trong nhân dân.
Công tác kiểm tra, giám sát một số nơi thực hiện chưa tốt; chưa kịp thời phát hiện, xử lý những sai sót, tiêu cực trong quá trình thực hiện. Việc quản lý đối tượng chưa chặt chẽ; công tác quản lý, lưu trữ, khai thác hồ sơ còn nhiều thiếu sót và đây cũng là yếu tố gây khó khăn trong việc thực hiện các chính sách.
Việc rà soát đối tượng hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở nhiều địa phương làm chậm so với kế hoạch Chính phủ đề ra nên chưa tranh thủ được nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương sớm; vì vậy đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch thực hiện và nảy sinh nhiều vấn đề bất cập (người dân thắc mắc, chất vấn; nhiều trường hợp khó khăn về nhà ở cần khắc phục kịp thời nhưng chưa có nguồn vốn, nhiều trường hợp đang triển khai thực hiện thì chết do già yếu, bệnh tật).
Chính sách đối với người có công với cách mạng là một chính sách lớn, thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thực hiện phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Tiếp tục chỉ đạo, chấn chỉnh những tổ chức, cá nhân, những nơi làm còn chậm, thiếu trách nhiệm để người được thụ hưởng phải chờ đợi, đi lại nhiều lần; trong lúc đó những kẻ khai man, dối trá lại được tiếp tay để được thụ hưởng, tạo tâm lý bức xúc, thiếu niềm tin trong nhân dân.
Tăng cường công tác kiểm tra, tiếp tục phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 27/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về “Tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng trong hai năm 2014-2015”, theo đúng tiến độ đề ra để giải quyết chế độ chính sách kịp thời, đúng đối tượng, không để lặp lại việc xảy ra những trường hợp làm sai, thụ hưởng chính sách không đúng đối tượng. Đồng thời, tích cực giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo và các kiến nghị của cử tri. Phát huy tinh thần, trách nhiệm của người dân trong việc tham gia thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách.
Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào đền ơn đáp nghĩa, thực hiện tốt công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân để góp phần cải thiện đời sống cho người có công và các gia đình chính sách; như xây dựng nhà ở, hỗ trợ cho các gia đình người có công đặc biệt khó khăn, neo đơn, già cả.
Tăng cường công tác quản lý, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm chính sách. Chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thực hiện chủ trương, chính sách ưu đãi người có công. Tiếp tục đề xuất, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành điều chỉnh, sửa đổi những văn bản, chế độ chưa hợp lý, còn chồng chéo, thiếu rõ ràng để thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện trong thời gian tới.
Đổi Mới Công Tác Quản Trị Nhà Trường Đối Với Các Cơ Sở Giáo Dục Đại Học Trực Thuộc Bộ Tài Chính
Để giải quyết những hạn chế này, các cơ sở giáo dục đào tạo nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng của Bộ Tài chính cần chủ động đổi mới tư duy và cách làm trong quản trị nhà trường nhằm thích ứng với yêu cầu quản lý của nhà nước.
Một số vấn đề đặt ra trong công tác quản trị nhà trường đối với các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ Tài chính
Bộ Tài chính hiện có 04 cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) trực thuộc, gồm: Học viện Tài chính; Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh; Trường Đại học Tài chính – Kế toán; Trường Đại học Tài chính – Marketing. Trong đó, có 03 Trường triển khai cơ chế tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, gồm: Học viện Tài chính, Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Tài chính – Kế toán. Riêng trường Đại học Tài chính – Marketing thực hiện cơ chế tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư. Hàng năm, các cơ sở giáo dục đại học của Bộ Tài chính đã đào tạo khoảng trên 12.000 sinh viên ra trường, góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội. Nhìn chung, sản phẩm của các cơ sở giáo dục, đào tạo trực thuộc Bộ Tài chính đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai công tác quản trị nhà trường đối với các cơ sở GDĐH trực thuộc Bộ Tài chính đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, các trường chưa thực sự chủ động đổi mới công tác quản trị đại học. Việc đổi mới quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học gắn chặt với việc đổi mới công tác quản trị đại học trong cơ sở giáo dục đại học, tuy nhiên, hiện nay các trường Bộ Tài chính chưa thực sự chủ động trong đổi mới công tác quản trị đại học. Thực tế, tự chủ đại học chính là điều kiện cho việc đổi mới công tác quản lý các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời tạo lập một môi trường quản trị đại học mới. Tuy nhiên, hiện nay các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ Tài chính chưa thực sự quan tâm và tỏ ra hình thức trong việc minh bạch hóa các thông tin về tài chính, quy trình, kết quả đào tạo, việc làm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
Thứ hai, công tác truyền thông nội bộ về tự chủ đại học và nhận thức về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa đầy đủ: Các trường chưa thực sự thay đổi tư duy và cách làm trong quản trị nội bộ nhà trường để sẵn sàng thích ứng với sự đổi mới theo hướng tự chủ.
Bộ Tài chính hiện có 04 cơ sở giáo dục đại học trực thuộc, gồm: Học viện Tài chính; Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh; Trường Đại học Tài chính – Kế toán; Trường Đại học Tài chính – Marketing. Hàng năm, các cơ sở giáo dục đại học này đào tạo khoảng trên 12.000 sinh viên ra trường, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội.
Đối với trường triển khai thí điểm tự chủ mặc dù đã phân cấp tự quyết định đối với hoạt động của trường về tổ chức bộ máy, nhân sự, một số hoạt động đào tạo… nhưng trên thực tế, khi có tình huống phát sinh, Hiệu trưởng nhà trường vẫn đề nghị Bộ Tài chính (cơ quan chủ quản) có ý kiến hoặc đề nghị Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo có ý kiến đối với việc thực hiện của Trường.
Thứ ba, hội đồng trường chưa phát huy được vai trò quản lý tại các cơ sở GDĐH: Hội đồng trường là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý các cơ sở GDĐH gắn với tự chủ đại học nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của một tổ chức dân chủ. Theo đó, quyết định chiến lược được đưa ra bởi hội đồng trường. Tuy nhiên, hội đồng trường hiện nay chưa phát huy được vai trò tại các cơ sở GDĐH.
Thành viên trong trường chiếm tỷ lệ lớn trong hội đồng trường (trên 70%), hầu hết là ban giám hiệu, trưởng các đơn vị trực thuộc trường, do đó, rất khó có những ý kiến khách quan trong khi ra các quyết sách của hội đồng trường, vì họ vừa có vai trò định hướng, giám sát lại vừa chịu trách nhiệm quản lý, thực hiện, chịu trách nhiệm về hoạt động của trường trước hội đồng trường.
Chủ tịch Hội đồng trường của các cơ sở GDĐH trực thuộc Bộ Tài chính hiện nay đều là những người có chức vụ trong các cơ quan quản lý thuộc và trực thuộc Bộ Tài chính, chịu trách nhiệm chính về nhiệm vụ được giao tại cơ quan, vị trí chủ tịch hội đồng trường chỉ là kiêm nhiệm, điều này ảnh hưởng khá nhiều đến việc điều hành hội đồng trường.
Thứ tư, chưa chủ động đổi mới công tác quản lý trong nội bộ nhà trường: Các trường chưa mạnh dạn đổi mới thực hiện cơ chế tài chính trong nội bộ nhà trường, đưa vào quy chế chi tiêu nội bộ như thực hiện cơ chế khoán thực hiện nhiệm vụ tại mỗi đơn vị cấu thành của nhà trường. Một số đơn vị sự nghiệp trực thuộc trường hiện nay chưa thực hiện cơ chế tài chính tự đảm bảo chi thường xuyên, tạo thêm gánh nặng tài chính cho trường.
Thứ năm, chưa mở rộng quan hệ hợp tác giữa cơ sở GDĐH với các đơn vị sử dụng lao động: Hiện nay, các trường đã chủ động xây dựng các mối quan hệ hợp tác giữa trường với các đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp, ngân hàng… tuy nhiên, mức độ thực hiện còn hạn chế.
Giải pháp đổi mới công tác quản trị nhà trường tại các trường đại học trực thuộc Bộ Tài chính
Để khắc phục những tồn tại hạn chế, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh công tác truyền thông nội bộ nhận thức về tự chủ đại học: Vấn đề truyền thông nội bộ đóng vai trò rất quan trọng, nó giúp cho các đối tượng hiểu rõ, đúng đắn về việc đổi mới quản lý giáo dục theo hướng tự chủ.
Việc tuyên truyền về đổi mới GDĐH theo hướng tự chủ cần phải được phổ biến sâu và rộng đến toàn thể đội ngũ viên chức, giảng viên của trường hiểu, chủ động thích nghi. Cần làm rõ để đội ngũ giảng viên hiểu rằng, tự chủ không chỉ là vấn đề về cơ chế tài chính, tự do chi tiêu mà cần tập trung vào tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học; đồng thời, tự chủ gắn với minh bạch và trách nhiệm giải trình, gắn chặt với kiểm định.
Các trường cần chủ động xây dựng các chỉ tiêu cần cam kết với các đối tượng: (1) Người học; (2) Viên chức, giảng viên; (3) Người sử dụng lao động; (4) Cơ quan quản lý. Đồng thời, nghiêm túc thực hiện các cam kết đó một cách minh bạch, công khai. Các nội dung công khai cần hướng tới gồm: Công tác nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh công bố quốc tế cũng như tăng cường nghiên cứu ứng dụng; Khuyến khích các nhà khoa học tìm kiếm cơ hội nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế nhằm xây dựng năng lực và uy tín của trường; Tỷ lệ sinh viên ra trường tìm được việc làm sau một năm và nhiều năm ra trường… Qua đó, tạo điều kiện cho người học tìm hiểu về định hướng đầu ra sau khi học tập tại trường.
Ba là, tăng cường vai trò quản lý của Hội đồng trường tại các cơ sở GDĐH: Hội đồng trường được thành lập thể hiện tính tuân thủ pháp luật của các cơ sở GDĐH, đồng thời xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của quản trị trường đại học. Hội đồng trường đóng vai trò đại diện chủ sở hữu cho tài sản mà Nhà nước đã đầu tư và đảm bảo định hướng phát triển của nhà trường, gắn với hoạt động của nhà trường với trách nhiệm xã hội, bảo toàn và củng cố vốn nhà nước, cũng như thực hiện các mục tiêu giáo dục và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường theo pháp luật. Do vậy, các trường cần quy định quy trình quản lý tại trường, trong đó, việc thông qua Hội đồng trường trước khi quyết định định hướng, kế hoạch công tác của nhà trường là bắt buộc.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý nội bộ của nhà trường:
Đối với Trường đã thực hiện cơ chế tự chủ cần mạnh dạn trong việc quyết định các hoạt động đã được cấp có thẩm quyền giao khi thực hiện tự chủ. Đồng thời, chủ động xây dựng cơ chế kiểm soát các hoạt động độc lập, tự chủ, thực hiện trách nhiệm của các đơn vị trong nhà trường, đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, thực hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đối tượng trên các lĩnh vực như tài chính, cơ sở vật chất, thực hiện nguyên tắc và chế độ trong quản lý, trong công việc, trong đào tạo… Xây dựng đội ngũ viên chức quản lý và giảng viên có phẩm chất đạo đức, đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy tiên tiến và hiện đại; Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, có cơ chế khuyến khích giảng viên nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy. Chủ động đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng mở, nội dung giảng dạy gắn với yêu cầu thực tiễn của Ngành, chuyên ngành đào tạo.
Năm là, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác giữa các cơ sở GDĐH với các đơn vị sử dụng lao động: Việc liên kết giữa các cơ sở GDĐH với các doanh nghiệp nói riêng và các đơn vị sử dụng lao động nói chung cần được đẩy mạnh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; đồng thời, tăng cường khả năng tiếp cận và áp dụng kiến thức lý luận cơ sở vào thực tiễn của sinh viên; Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp để xây dựng các phòng thí nghiệm theo hình thức hợp tác công – tư.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể mà lựa chọn nội dung và hình thức liên kết phù hợp: Liên kết nghiên cứu phát triển dưới dạng hợp đồng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phối hợp thực hiện các chương trình đào tạo, doanh nghiệp với tư cách là khách hàng thường xuyên của các trường đại học; mời các doanh nhân, người làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động tham gia giảng dạy, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm thực tế tại đơn vị; đặt hàng các sản phẩm nghiên cứu khoa học, các dự án khảo sát thực tế theo chuyên đề để các giảng viên trong trường, cũng như các sinh viên có thể tham gia các cấu phần của dự án. Bên cạnh đó, cần mở rộng các hoạt động tạo điều kiện cho sinh viên thực tập tại các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động để tiếp cận công việc thực tế và tăng cơ hội tìm kiếm việc làm.
Việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý các cơ sở GDĐH theo hướng tăng cường tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình là cần thiết và là tất yếu khách quan phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như định hướng đổi mới quản lý nhà nước của đất nước ta. Do đó, các cơ sở giáo dục đào tạo nói chung và các cơ sở GDĐH nói riêng trực thuộc Bộ Tài chính cần chủ động đổi mới tư duy và cách làm trong quản trị nhà trường nhằm thích ứng với yêu cầu quản lý của Nhà nước.
Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học; Quốc hội (2018), số 34/2018/QH14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học; Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối vơi các cơ sở giáo dục đai học công lập giai đoạn 2014-2017; Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của Trường Đại học Tài chính – Marketing giai đoạn 2015 – 2017 theo tinh thần của Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối vơi các cơ sở giáo dục đai học công lập giai đoạn 2014-2017; Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT ban hành quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục và đào tạo thuộc; Ngô Thế Chi (2013), “Nâng cao vai trò quản trị các trường đại học công lập kinh tế trong điều kiện tự chủ tài chính”, Đề tài khoa học cấp Bộ 5; Phạm Văn Đăng (2012), “Đổi mới tài chính đơn vị sự nghiệp công và dịch vụ công”, Đề tài khoa học cấp Bộ.
Bạn đang xem bài viết Tiếp Tục Hoàn Thiện Giải Pháp Để Đổi Mới Cơ Chế Tài Chính Đối Với Các Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!